Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế – từ thực tiễn tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (950.34 KB, 111 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài “Pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn có nguồn gốc, do học viện tự
thu thập và chịu trách nhiệm, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa
học nào trước đây.

Hà Nội, ngày 11 tháng 7 năm 2016
Tác giả

Nguyễn Tuấn Linh


LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập tại Trường Học viện hành chính Quốc gia, tôi đã
được Quý Thầy giáo, Cô giáo của Trường Học viện hành chính Quốc gia nói
chung và Khoa Sau đại học nói riêng đã truyền đạt những kiến thức xã hội và
chuyên môn vô cùng quý giá cả về lý thuyết và thực tiễn. Những kiến thức
hữu ích đó sẽ là hành trang giúp tôi trưởng thành và tự tin thực hiện công việc
chuyên môn ngày càng tốt hơn và hiệu quả hơn.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn tới Quý Thầy, Cô giáo Trường
Học viện hành chính Quốc gia. Phòng sau đại học, hệ sau đại học, các bộ
môn khoa học của Trường đã cho phép và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Đinh Văn Minh người trực
tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin cảm ơn tới Ban Giám đốc và cán bộ, công chức cơ quan Sở Y tế


tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lời cho tác giả hoàn thành
luận văn.
Tác giả


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH Y TẾ ....................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thanh tra chuyên ngành y tế. ...................................... 8
1.1.1. Khái niệm về thanh tra chuyên ngành y tế. .................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra chuyên ngành y tế. .............................................. 17
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế. ........................................................................................................................................ 20
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế. .......................... 20
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế. .................... 21
1.2.3. Nội dung của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế ..................... 24
1.2.4. Vai trò của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế. ......................... 25
Chương 2 PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH Y TẾ TẠI TỈNH
HÀ NAM ................................................................................................................................ 29
2.1. Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế. ............................................................. 29
2.1.1. Quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế, thanh tra
chuyên ngành y tế tỉnh Hà Nam. ................................................................................ 29
2.1.2. Đánh giá quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế41
2.2. Thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế tại tỉnh Hà
Nam .................................................................................................................... 49
2.2.1. Thực tiễn công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trên địa
bàn tỉnh Hà Nam giai đoạn 2011 - 2015 ................................................................. 49
2.2.2. Thực tiễn tổ chức thanh tra chuyên ngành y tế tại tỉnh Hà Nam. .... 53

2.2.3. Thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế tại tỉnh Hà Nam.60


Chương 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH Y TẾ TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ NAM ... 73
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành y tế. ....................................................................................................................... 75
3.1.1. Định hướng của Đảng, Nhà nước về công tác chăm sóc, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe nhân dân........................................................................................ 75
3.1.2. Định hướng của Đảng và nhà nước về công tác thanh tra. ................. 77
3.1.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành y tế. ...... 79
3.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam. ................................................................ 81
3.2.1 . Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật. ....................................................... 81
3.2.2. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế tại các địa phương trên cả nước. ......................................................... 86
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................103


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

ATVSTP:

An toàn vệ sinh thực phẩm

CCHND:


Chứng chỉ hành nghề Dược

DS-KHHGĐ:

Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

GCNKD:

Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc

GPHĐ:

Giấy phép hoạt động

MP:

Mỹ phẩm

TTB:

Trang thiết bị y tế


DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy ngành y tế tỉnh Hà Nam. ......................................... 34
Bảng 2.1: Công chức tham gia Đoàn thanh tra chuyên ngành thuộc Chi
cục An toàn vệ sinh thực phẩm................................................................................... 54
Bảng 2.2: Tổng hợp hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế qua các năm

từ 2011-2015. .................................................................................................................... 66
Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy ngành y tế tỉnh Hà Nam. ......................................... 34


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thanh tra là chức năng thiết yếu, xuất phát từ đòi hỏi tất yếu của hoạt
động quản lý nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nếu như Trung
ương Đảng, Chính phủ có Nghị quyết, Chỉ thị đưa về các ngành, các địa
phương, kết quả thế nào không có thanh tra khó mà biết được địa phương nào
làm tốt, làm vừa, làm xấu; có làm hay không làm; trên không biết, địa
phương nhiều khi cũng không biết; trên không thấu dưới, dưới không thấu
trên” [26]. Ở nước ta, công tác thanh tra ra đời và đóng góp tích cực cho sự
phát triển của đất nước. Pháp luật về thanh tra đã và đang ngày càng được
hoàn thiện để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống nhằm giữ gìn trật tự, kỷ
cương, tăng cường, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên hầu khắp các
lĩnh vực của đời sống xã hội như: y tế, giáo dục, đầu tư, xây dựng, giao thông
vận tải, tài chính,… góp phần to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước; bảo đảm ấm no, hạnh phúc, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước mở cửa hội nhập sâu rộng, kinh tế xã hội
không ngừng chuyển biến đã và đang đặt ra nhiều vấn đề tác động trực tiếp và
gián tiếp đến đời sống của nhân dân, đòi hỏi sự quan tâm thấu đáo của Đảng
và Nhà nước. Trong đó, sức khỏe là vấn đề có tác động mạnh mẽ và trực tiếp.
Nghị quyết 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị về Công tác
bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã khẳng
định:“Sức khỏe là vốn quý nhất của con người và của toàn xã hội”[4]. Xã hội
càng phồn thịnh, con người càng quan tâm, chú trọng đến vấn đề sức khỏe
của bản thân và cộng đồng. Chính vì vậy, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân luôn là vấn đề cấp thiết, đòi hỏi trách nhiệm và sự quan tâm của cấp có

thẩm quyền. Ở nước ta, công tác y tế với sứ mệnh chăm sóc, bảo vệ và nâng

1


cao sức khỏe nhân dân được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Chính phủ, trong đó, Bộ Y tế là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về y tế những năm qua đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận. Hệ thống văn bản pháp luật về công tác y tế ngày càng được
hoàn thiện, mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở ngày càng được củng cố và
phát triển góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
ban đầu; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi; nhiều loại
bệnh xã hội được kiểm soát; an toàn thực phẩm về cơ bản được đảm bảo;
công tác khám chữa bệnh, phục hồi chức năng dần đáp ứng được nhu cầu của
nhân dân dựa trên sự kết hợp giữa y học hiện đại và y học cổ truyền; chất
lượng dân số được cải thiện; công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ
em góp phần giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, tăng cường thể lực, tầm vóc
con người Việt Nam; cơ sở hạ tầng phục vụ công tác y tế được đầu tư xây
dựng, trình độ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm công tác y tế
không ngừng được nâng cao… Có được những thành tựu to lớn ấy là nhờ sự
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự tham gia
tích cực và có hiệu quả của các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, tổ
chức xã hội cùng đông đảo nhân dân và sự phấn đấu, nỗ lực của đại đa số cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành y tế.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận ấy, công tác y tế
vẫn còn tồn tại những bất cập và yếu kém, đặc biệt là trong việc bảo đảm thực
hiện pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn kỹ thuât, quy tắc quản lý
ngành. Khiếm khuyết trong hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
ở nhiều địa phương trên cả nước trở thành những vấn đề nổi cộm thu hút sự
quan tâm chú ý của cộng đồng. Ở tỉnh Hà Nam, trong giai đoạn từ năm 2011

đến năm 2015, thực tiễn công tác quản lý nhà nước về y tế trên địa bàn tỉnh,
đặc biệt là qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh và thanh

2


tra chuyên ngành cho thấy tình trạng vi phạm quy định của pháp luật chuyên
ngành, quy định chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý lĩnh vực thuộc ngành
vẫn còn chậm được ngăn chặn, phát hiện và xử lý, các điển hình tiên tiến chưa
kịp thời được nhân rộng khiến cho hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế ở
địa phương đôi khi bị suy giảm, trật tự, kỷ cương pháp luật chuyên ngành đôi lúc
còn chưa được đảm bảo, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân còn bị hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực nổi cộm
như an toàn vệ sinh thực phẩm, y tế dự phòng, khám bệnh, chữa bệnh, giám định
y khoa, pháp y, hành nghề y, dược,.…
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan
khác nhau, trong đó nguyên nhân quan trọng là do hoạt động quản lý nhà nước
về y tế còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành y tế còn những hạn chế nhất định cùng với những tồn tại của hệ
thống pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế.
Trước tình hình đó, để góp phần khắc phục những bất cập nêu trên, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế, phục vụ tốt hơn cho sứ
mệnh chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân cả nước nói chung và
trên địa bàn tỉnh Hà Nam nói riêng đòi hỏi phải triển khai đồng bộ nhiều giải
pháp. Đặc biệt là nghiên cứu, đề xuất, triển khai những giải pháp thiết thực
nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y
tế dựa trên cơ sở lý luận về pháp luật thanh tra chuyên ngành y tế và thực tiễn
thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá tình

hình thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế tại các địa phương trên cả nước ngày
càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện tình hình mới.

3


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác thanh tra đối với hoạt động quản
lý nhà nước, ở nước ta trong nhiều năm qua, vấn đề pháp luật về thanh tra nói
chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng đã được đề cập tại nhiều đặc san,
sách chuyên ngành, công trình, bài viết nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề nghiên
cứu pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế nhìn chung còn mới mẻ.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, bài viết
nghiên cứu pháp luật về thanh tra, thanh tra chuyên ngành như:
- Đề tài cấp bộ: “Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Nguyễn Thái Hồng, Thanh tra Chính phủ - Hà Nội, 2011.
- Đề tài cấp bộ: “Tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, TS Nguyễn Tuấn Khanh, Viện Khoa học
Thanh tra, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội - 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra chuyên
ngành ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Nguyễn Thị Thục, Hà Nội - 2012.
- Luận văn thạc sĩ luật:“Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về môi trường của Sở Tài nguyên và Môi trường Hà
Nội”, Lê Thị Thu Hiền, Hà Nội - 2015.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong tổ chức
và hoạt động của thanh tra ở Việt Nam”, Lê Thị Thu Oanh, Hà Nội - 2004.
- Bài viết: “Một số khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về
thanh tra chuyên ngành”, Ths. Hồ Thị Thu An, Vụ Pháp chế Thanh tra Chính
phủ, đăng tại www.giri.ac.vn ngày 08/9/2015.
- Bài viết: “Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trưng tập,

quản lý và sử dụng cộng tác viên thanh tra trong hoạt động thanh tra”, Ths. Tạ
Thu Thủy, Viện khoa học Thanh tra, đăng tại www.giri.ac.vn ngày 23/6/2015.

4


- Bài viết: “Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Ths. Nguyễn Huy
Hoàng, Trường Cán bộ Thanh tra, đăng tại www.giri.ac.vn ngày 30/9/2014.
- Bài viết: “Định hướng xây dựng chiến lược phát triển ngành Thanh
tra đến năm 2020, tầm nhìn 2030”, TS. Nguyễn Quốc Hiệp, Viện Khoa học
thanh tra, đăng tại www.giri.ac.vn ngày 30/9/2014.
Các công trình, luận văn, bài viết trên đã tập trung nghiên cứu, làm
sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm
tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác thanh tra, thanh tra chuyên
ngành. Tuy nhiên, đối với những vấn đề xung quanh việc hoàn thiện và bảo
đảm thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế lại chưa được tập
trung nghiên cứu cụ thể và toàn diện. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp
luật về thanh tra chuyên ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Hà Nam” để trên cơ
sở kế thừa những kết quả của các công trình nghiên cứu pháp luật thanh tra,
thanh tra chuyên ngành, tập trung nghiên cứu pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích.
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về thanh tra chuyên ngành y
tế; tình hình thực tiễn thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế trên địa
bàn tỉnh Hà Nam. Qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực
hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế tại các địa phương trên cả nước.
3.2. Nhiệm vụ.
- Phân tích, đi từ cơ sở lý luận về thanh tra, thanh tra chuyên ngành và

thanh tra chuyên ngành y tế để từ đó làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung,
vai trò của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế.

5


- Đánh giá các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế
và thực tiễn thực hiện pháp luật thanh tra chuyên ngành y tế trên địa bàn tỉnh
Hà Nam giai đoạn 2011-2015, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được và những
tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện
pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật
về thanh tra chuyên ngành y tế tại các địa phương trên cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác chăm sóc, bảo vệ
và nâng cao sức khỏe nhân dân; công tác thanh tra, thanh tra chuyên ngành y
tế và thực tiễn thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế trên địa bàn
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2011-2015 do Sở Y tế thực hiện.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.
5.1. Phương pháp luận.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Triết học
Mác Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và quan điểm
của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác thanh tra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, tác giả đã sử dụng các phương
pháp sau để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu:

- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp, khái quát hóa.

6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
6.1. Về mặt lý luận.
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về pháp luật thanh tra
chuyên ngành y tế, đánh giá những ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật
về thanh tra chuyên ngành y tế để đưa ra giải pháp tổng thể, đề xuất một số
kiến nghị để góp phần hoàn thiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế.
6.2. Về mặt thực tiễn.
- Trên cơ sở chỉ rõ những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra
chuyên ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam để đưa ra những giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế tại các địa phương
trên cả nước đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tài liệu tham khảo đối với các cấp
có thẩm quyền trong công tác hoạch định chính sách, pháp luật, đưa ra cơ chế,
chính sách quản lý các lĩnh vực có liên quan và đối với các cá nhân, tổ chức
quan tâm đến nội dung nghiên cứu của luận văn.
7. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thanh tra chuyên
ngành y tế.
Chương 2: Pháp luật về thanh tra chuyên ngành y tế tại tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về

thanh tra chuyên ngành y tế từ thực tiễn tỉnh Hà Nam.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA
PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH Y TẾ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của thanh tra chuyên ngành y tế.
1.1.1. Khái niệm về thanh tra chuyên ngành y tế.
1.1.1.1 Khái niệm thanh tra.
Thuật ngữ Thanh tra xuất phát từ gốc tiếng la tinh là “inspectorate”, có
nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài của chủ
thể có thẩm quyền đối với hoạt động của đối tượng nhất định. Theo thuật ngữ
này, hoạt động thanh tra chỉ giới hạn trong hoạt động kiểm tra, xem xét, chưa
bao gồm vai trò xử lý của chủ thể thanh tra đối với đối tượng thanh tra, các cá
nhân, tổ chức sau khi kiểm tra, xem xét.
Tiếp đó, thuật ngữ Thanh tra tiếp tục được giải thích tại các Từ điển
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Từ điển Luật học Đức,thanh
tra được hiểu là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện
thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định - sự tác động có
tính trực thuộc. Theo giải thích của Từ điển Luật học Đức, hoạt động thanh
tra được hiểu với nghĩa rộng về mặt nội dung hoạt động. Bất kể sự tác động
nào của chủ thể thanh tra đến đối tượng thanh tra trực thuộc đã và đang thực
hiện thẩm quyền được giao để hướng đến một mục đích nhất định đều được
hiểu là hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, theo nghĩa này, hoạt động thanh tra chỉ
được giới hạn giữa chủ thể thanh tra và đối tượng thanh tra trực thuộc, chưa
bao gồm đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân không trực thuộc.
Chẳng hạn như hoạt động thanh tra chuyên ngành hiện nay của các cơ quan

quản lý ngành đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân không trực thuộc về tổ
chức trong việc chấp hành quy định của pháp luật chuyên ngành,…

8


Theo Từ điển Tiếng Việt, thanh tra được hiểu là kiểm soát, xem xét tại
chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp. Theo quan niệm này, thanh
tra bao hàm kiểm soát - hoạt động xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì
trái với quy định.Tùy thuộc vào chế độ chính trị, cấu trúc Nhà nước và các
đặc điểm riêng của quốc gia, dân tộc mà các quốc gia trên thế giới thiết lập cơ
quan thực hiện chức năng thanh tra theo những cách khác nhau. Có quốc gia
sử dụng Thanh tra của Quốc hội (Thanh tra Quốc Hội Thụy điển, Đan Mạch,
Canada, Austraylia..); Thanh tra của Chính phủ - Thanh tra hành pháp (Cơ
quan Giám sát Hành chính Ai cập, Bộ Giám sát Trung Quốc,..); kiểm toán
(Ủy ban Thanh tra và Kiểm toán Hàn Quốc BAI thực hiện 02 chức năng
thanh tra và kiểm toán),…
Ở nước ta, quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử
được thể hiện qua những mô hình cơ quan nhà nước, các quy định của pháp
luật và được đề cập ở những giác độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được sử dụng nhưng có
các chức quan làm công việc giống như thanh tra, đó là: Dưới thời Lý có chức
quan Gián nghị đại phu (tả, hữu gián nghị đại phu); thời Trần có cơ quan gọi
là "Ngự sử đài" với chức năng gần giống như cơ quan thanh tra Nhà nước
hiện nay và có chức "Quan ngự sử" đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có
nhiệm vụ giúp Vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của
triều đình. Quan Ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức
quan duy nhất có quyền can gián Vua. Thời nhà Lê có hàm "Gián nghị đại
phu" phong tặng cho bất cứ bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật, Gián
nghị đại phu có quyền can gián nhà Vua những việc nên làm và những việc

không nên làm.
Sau này, xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đòi hỏi phải có cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nước, ngày 23 tháng 11

9


năm 1945, chỉ sau 3 tháng từ khi Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hòađược thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL ngày
23/11/1945 thành lập Ban thanh tra đặc biệt, Điều 1 Sắc lệnh quy
định:“Chính phủ sẽ lập ngay một Ban thanh tra đặc biệt có ủy nhiệm là đi
giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của các Ủy ban nhân dân và
các cơ quan của Chính phủ”. Từ đây, thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện ở nước
ta, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ, trở thành
khâu trọng yếu trong chu trình quản lý nhà nước của Chính phủ. Như V.I.Lê
nin đã chỉ rõ: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là
một chứ không phải là hai” [13]. Trong mối quan hệ giữa quản lý nhà nước
và thanh tra, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh
tra. Tiếp đó, thanh tra lại có tác động tích cực đối với quản lý và góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Trong vai trò của mình,
thanh tra không chỉ là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân; kịp thời phát hiện, kiến
nghị xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm và đề ra các biện pháp
giúp các đối tượng thanh tra khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, phát
huy ưu điểm… mà hơn hết còn là phương tiện để chủ thể quản lý phát hiện
những biểu hiện trì trệ, không phù hợp với thực tiễn khách quan của cơ chế,
phương pháp quản lý đã và đang cản trở các hoạt động quản lý, từ đó đề xuất
các biện pháp cải cách, hoàn thiện các hoạt động quản lý nhà nước.
Vai trò của công tác thanh tra đối với hoạt động quản lý nhà nước được
thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:

- Thanh tra là chức năng không thể thiếu của quản lý nhà nước, có vai
trò quan trọng đối với việc đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Hoạt
động thanh tra xem xét, đánh giá trên thực tế việc thực hiện chủ chương,
chính sách, pháp luật của nhà nước, qua đó kịp thời phát hiện những sơ hở,

10


những sự bất hợp lý trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
điều chỉnh. Từ đó góp phần giúp cho chủ thể quản lý có được những thông tin
cần thiết phục vụ cho việc hoạch định cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật và
đưa ra các biện pháp chỉ đạo, điều hành hợp lý.
- Thanh tra là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý,
phòng ngừa vi phạm pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Thông qua hoạt động thanh tra, những sai lệch trong việc thực hiện chủ
chương, chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng
thanh tra được phát hiện và xử lý kịp thời, bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp
luật. Đồng thời hoạt động thanh tra cũng là phương thức để tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, hướng dẫn đối tượng thanh tra thực hiện đúng các
quy định của pháp luật để từ đó góp phần phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật xảy ra và tái diễn ở đối tượng quản lý nhà nước.
- Bên cạnh việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý,
những nội dung trong chủ trương, chính sách chưa phù hợp với thực tiễn
khách quan để kịp thời kiến nghị; phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn đối tượng quản lý thực hiện
đúng các quy định của pháp luật, hoạt động thanh tra còn phải phát hiện và
khẳng định, tạo điều kiện phát huy, nhân rộng những nhân tố tích cực. Có như
vậy thì hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của
thực tiễn, hiệu quả công tác quản lý mới được nâng cao.
- Tiếp đó, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước. Nhà nước có nghĩa
vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tạo mọi điều kiện
để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý nhà nước và
quản lý xã hội. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ của
nhân dân thông qua hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến

11


nghị, phản ánh và thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công
dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo. Từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân, góp phần bảo đảm các quyền dân chủ, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân.
Qua những phân tích trên, có thể hiểu: Thanh tra là việc xem xét, đánh
giá, xử lý theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.1.2. Khái niệm thanh tra chuyên ngành.
Để làm rõ khái niệm thanh tra chuyên ngành, trước hết cần xem xét
khái niệm về ngành. Ngành được hình thành là kết quả tất yếu của sự phân
công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển sản xuất và
chuyên môn hóa các loại hình hoạt động khác nhau của con người. Nhìn từ
góc độ quản lý nhà nước, khái niệm ngành có thể hiểu là hệ thống cơ quan, tổ
chức từ trung ương đến địa phương, có tổ chức và hoạt động gắn đặc điểm
chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý riêng biệt, hoạt động để phục vụ một
hoặc một số khía cạnh nhất định của xã hội. Hoạt động quản lý nhà nước theo
ngành tất yếu dẫn đến nhu cầu phải có loại hình thanh tra chuyên ngành để
đảm bảo các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc phạm vi quản lý của
ngành chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn - kỹ thuật,
quy tắc quản lý của ngành. Hoạt động thanh tra chuyên ngành mang tính

chuyên sâu về nghiệp vụ của ngành, lĩnh vực chuyên môn. Tính chuyên sâu
này được thể hiện ở tính chuyên môn - kỹ thuật. Người tiến hành hoạt động
thanh tra chuyên ngành khi thực hiện hoạt động thanh tra phải có kiến thức
chuyên môn về ngành, lĩnh vực đó, vận dụng kiến thức để đưa ra những kết
luận chính xác. Kiến nghị của thanh tra chuyên ngành bao giờ cũng thể hiện
tính chất chuyên môn - kỹ thuật, từ việc đánh giá đặc điểm, tình hình, những
ưu, khuyết điểm và nguyên nhân cũng như quyết định xử lý và hậu quả pháp

12


lý luôn gắn với tính chất chuyên môn - kỹ thuật. Hoạt động thanh tra chuyên
ngành chủ yếu hướng tới việc kiểm soát việc chấp hành chính sách, pháp luật
chuyên ngành của mọi đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhằm phục vụ hiệu
lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành tập trung vào phát hiện
những sơ hở trong cơ chế quản lý và chính sách, pháp luật để kiến nghị cấp có
thẩm quyền xử lý kịp thời; phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước; hướng dẫn đối tượng
thanh tra thực hiện đúng các quy định của pháp luật đồng thời phát huy, nhân
rộng các điển hình tiên tiến để qua đó tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 thì chủ thể tiến hành thanh
tra chuyên ngành là cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, cơ quan thanh tra
nhà nước theo ngành (Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở) và cơ quan được giao thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục
thuộc Sở được giao chức năng thanh tra chuyên ngành). Hoạt động thanh tra
chuyên ngành có thể được thực hiện thông qua đoàn thanh tra chuyên ngành,
thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành

tiến hành thanh tra độc lập. Hoạt động thanh tra chuyên ngành diễn ra với các
hình thức: Thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất và thanh tra thường
xuyên. Đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành bao gồm các cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quản lý của các ngành. Đối
tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành có thể không phụ thuộc về mặt
tổ chức đối với chủ thể thực hiện thanh tra chuyên ngành, tuy nhiên vì họ thực
hiện những hoạt động liên quan đến ngành, lĩnh vực mà các cơ quan này quản
lý nên theo quy định pháp luật họ vẫn là đối tượng thanh tra của các cơ quan
thanh tra chuyên ngành.

13


Như vậy, qua phân tích có thể hiểu: Thanh tra chuyên ngành là hoạt
động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành,
quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc
thẩm quyền quản lý.
1.1.1.3. Khái niệm thanh tra chuyên ngành y tế.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
Con người là nhân tố hàng đầu, là nguồn tài nguyên quý báu nhất
quyết định sự phát triển của đất nước. Trong đó, sức khỏe là tài sản
quý báu của mỗi người, mỗi gia đình và mỗi quốc gia. Sức khỏe của
nhân dân là một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp dựng nước và
giữ nước, “dân cường thì quốc thịnh”. [24]
Được Đảng và Nhà nước giao sứ mệnh chăm sóc, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe nhân dân, ngành y tế nhiều năm qua đã luôn nỗ lực, quyết tâm cao
độ để phát huy vị trí, vai trò của mình trong tiến trình phát triển nhanh, bền
vững của đất nước, không ngừng tự nhìn nhận mình, tự hoàn thiện, tổng kết
đúc rút bài học kinh nghiệm để có những đóng góp, những bước đi phù hợp,

thỏa đáng. Đối với công tác y tế, hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế là một
tất yếu để phục vụ cho tiến trình phát triển của ngành, vừa là hình thức để các
nhà quản lý nhìn nhận lại những quyết sách của mình, biết được thực tế
những quyết sách ấy được thực hiện ra sao, tránh bệnh quan liêu, xa rời thực
tế, vừa là công cụ để giám sát, xử lý vi phạm, hướng dẫn tổ chức, cá nhân
thực hiện đúng pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn - kỹ thuật, quy
tắc quản lý ngành. Từ đó giữ gìn kỷ cương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
quản lý ngành.
Ở nước ta, hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế được thực hiện bởi cơ
quan quản lý nhà nước về y tế như Bộ Y tế, Sở Y tế trong đó cơ quan chịu

14


trách nhiệm tham mưu, tổ chức thực hiện là cơ quan thanh tra nhà nước về y
tế như Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra
chuyên ngành còn được thực hiện bởi các cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành đối với công tác y tế là những cơ quan thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước theo các lĩnh vực thuộc ngành y tế, bao gồm Tổng cục, Cục
thuộc bộ, Chi cục thuộc Sở được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành. Trong những trường hợp cần thiết, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước như Bộ Y tế, Sở Y tế ra quyết định thanh tra, tổ chức thực hiện hoạt
động thanh tra chuyên ngành.
Hiện nay, theo quy định của Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09
tháng 02 năm 2012 của Chính phủ Quy định về cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, hệ
thống cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với
công tác y tế bao gồm:
- Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

thuộc Bộ: Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình; Cục Quản lý Dược; Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh; Cục Quản lý Môi trường y tế; Cục Y tế dự phòng;
Cục An toàn vệ sinh thực phẩm.
- Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
thuộc Sở: Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Chi cục An toàn vệ sinh
thực phẩm.
Tại các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
có người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành - là công chức
được phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, giúp cho Thủ trưởng cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong việc tổ

15


chức thực hiện công tác thanh tra. Trong phạm vi ngành y tế, người được giao
thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn được phân công thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tại các
Tổng cục, cục, Chi cục nêu trên. Hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế được
tiến hành theo đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên - những người được bổ
nhiệm vào ngạch Thanh tra viên, hiện đang công tác tại các cơ quan thanh tra
nhà nước như Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế và người được giao thực
hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập, căn cứ vào
quy trình được quy định tại Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn có liên
quan cùng những văn bản hướng dẫn quy trình thanh tra riêng biệt của Bộ Y
tế hướng đến đối tượng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc
phạm vi quản lý của ngành y tế trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành,
quy định chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành. Ngoài ra, trong
hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế có thể có sự tham gia của các cộng tác
viên thanh tra y tế - là những người không thuộc biên chế của các cơ quan

thanh tra nhà nước, được cơ quan thanh tra nhà nước về y tế trưng tập tham
gia đoàn thanh tra. Nội dung thanh tra chuyên ngành y tế được trải rộng theo
các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Y tế, bao gồm: Y tế dự
phòng, an toàn thực phẩm, môi trường y tế; khám bệnh, chữa bệnh, y dược
học cổ truyền, bảo hiểm y tế; dược, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế; dân số - kế
hoạch hóa gia đình và được quy định tại Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19
Nghị định số 122/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ về
tổ chức và hoạt động của Thanh tra Y tế, bao gồm 10 lĩnh vực, 48 nội dung và
một số nội dung khác được quy định tại các văn bản pháp luật khác có liên
quan. Tại Nghị định 122/2014/NĐ-CP quy định:
- Điều 16 quy định nội dung thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực y tế dự
phòng, an toàn thực phẩm và môi trường y tế với 3 lĩnh vực, 17 nội dung.
Trong đó, lĩnh vực y tế dự phòng gồm 09 nội dung; lĩnh vực an toàn thực
phẩm gồm 05 nội dung; lĩnh vực môi trường y tế gồm 03 nội dung.

16


- Điều 17 quy định nội dung thanh tra chuyên ngành lĩnh vực khám
bệnh, chữa bệnh, y, dược học cổ truyền và bảo hiểm y tế với 03 lĩnh vực, 17
nội dung. Trong đó, lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh gồm 07 nội dung; lĩnh
vực y, dược học cổ truyền gồm 04 nội dung; lĩnh vực bảo hiểm y tế gồm 06
nội dung.
- Điều 18 quy định nội dung thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực dược,
mỹ phẩm, trang thiết bị y tế với 3 lĩnh vực, 17 nội dung. Trong đó, lĩnh vực
dược gồm 08 nội dung; lĩnh vực mỹ phẩm gồm 05 nội dung, lĩnh vực trang
thiết bị y tế gồm 04 nội dung.
- Điều 19 quy định nội dung thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực dân số
- kế hoạch hóa gia đình gồm 07 nội dung.
Như vậy, có thể hiểu: Thanh tra chuyên ngành y tế là hoạt động thanh

tra của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành y tế đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc phạm vi quản lý của ngành trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc thẩm quyền quản lý.
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra chuyên ngành y tế.
Công tác thanh tra chuyên ngành y tế có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, thanh tra chuyên ngành y tế gắn liền với quản lý nhà nước về y
tế, đáp ứng yêu cầu và phục vụ mục tiêu quản lý nhà nước về y tế.
Là một chức năng, một khâu trong chu trình quản lý nhà nước về y tế,
thanh tra chuyên ngành y tế gắn liền với quản lý nhà nước về y tế. Quản lý
nhà nước về y tế và thanh tra chuyên ngành y tế, có điểm chung là nhân danh
quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song,
xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý nhà nước về y tế thì thanh tra chuyên
ngành y tế chỉ là những công cụ, phương tiện phục vụ quản lý nhà nước về y
tế. Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra chuyên ngành y tế bị ràng

17


buộc, chế ước nhưng đồng thời cũng tác động trở lại, góp phần điều chỉnh các
cách thức, phương pháp quản lý của chủ thế quản lý nhà nước về y tế. Trong
chu trình đó, thanh tra chuyên ngành y tế luôn phản ánh và bảo vệ mục đích
công tác quản lý nhà nước về y tế. Một thể chế hành chính và cơ chế quản lý
nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Đây là tất yếu đối với quản lý
nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về y tế nói riêng.
Hai là, tính quyền lực nhà nước của thanh tra chuyên ngành y tế.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế có
mối liên hệ chặt chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là
một chức năng của quản lý nhà nước về y tế, thanh tra chuyên ngành y tế phải
thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể

quản lý đối với đối tượng quản lý. Không thể không có quyền lực mà không
gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà nước trong hoạt động thanh tra
chuyên ngành y tế cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà
nước của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành y tế. Vì vậy,
thanh tra chuyên ngành y tế phải được sử dụng như một công cụ có hiệu quả
trong công tác quản lý nhà nước về y tế. Tính quyền lực nhà nước của hoạt
động thanh tra chuyên ngành y tế thể hiện ở chỗ các cơ quan thanh tra nhà
nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đều có
quyền hạn được pháp luật ghi nhận để thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình. Tính quyền lực nhà nước trong hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế
phải được cụ thể hoá trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống các
cơ quan thực hiện chức năng thanh tra y tế, phương thức tiến hành thanh tra,
xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa các cơ quan thanh tra với đối tượng bị
thanh tra, sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra y tế với
các cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ. Nếu cụ thể hoá một
mặt nào đó là không thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh
vực trên đều dẫn đến hạ thấp vai trò và hiệu quả, hạn chế hiệu lực của thanh
tra chuyên ngành y tế.

18


Ba là, tính khách quan và độc lập tương đối của thanh tra chuyên ngành
y tế.
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra chuyên ngành y tế với các chức năng khác của hoạt
động quản lý nhà nước về y tế. Tính khách quan và độc lập tương đối trong
hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế được thể hiện trên các điểm sau:
- Tuân theo pháp luật.
- Tự ban hành Quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra theo thẩm quyền.

- Khách quan trong quá trình tiến hành thanh tra. Mặc dù bản thân
hoạt động thanh tra thông qua con người, mang yếu tố chủ quan, nhưng
yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thanh tra là luôn phải tôn trọng sự thật
khách quan.
- Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý, xử lý vi phạm hành
chính theo các quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm về hành vi thanh tra
của mình.
Tuy nhiên, tính độc lập của hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế chỉ
mang tính tương đối. Trong hoạt động thanh tra chuyên ngành y tế, các cơ quan
thanh tra nhà nước về y tế còn bị phụ thuộc nhiều về tổ chức, và hoạt động đối
với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, các cơ quan, đơn vị có liên quan khác
trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành y tế.
Bốn là, công tác thanh tra chuyên ngành y tế có tính chuyên sâu về
chuyên môn nghiệp vụ của ngành.
Luật Thanh tra năm 2010, Điều 32 về tiêu chuẩn chung của thanh tra
viên điểm b, khoản 1 quy định: “Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý nhà
nước và am hiểu pháp luật; đối với thanh tra viên chuyên ngành còn phải có
kiến thức chuyên môn về chuyên ngành đó” [18]; Điều 34 về người được giao
thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành quy định: “Người được giao thực
hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan được

19


×