Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 48 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
1. Lý do cho đề tài.

Từ lâu nghệ thuật tạo hình đã sử dụng kết hợp những yếu tố tạo hình
như hình, mảng, màu sắc, không gian, và đường nét làm ngôn ngữ biểu hiện để
diễn đạt tình cảm của con người và của thiên nhiên, từ chỗ mô phỏng rồi đễn
mô tả sự vật mang đến sức biểu cảm của hình tượng, sáng tạo ra hình tượng
tạo nên giá trị thẩm mĩ..
Đường nét, màu sắc và không gian không những diễn tả được hình khối,
tạo chất mà còn diễn tả được sự vận động, tĩnh tại của sự vật và cao hơn nữa
còn biểu đạt được những trạng thái tình cảm của con người và thái độ của con
người đối với sự vật đó. Người ta cho rằng đặc trưng của ngôn ngữ đồ họa, là
nghệ thuật dùng đường nét, mảng thật ra chưa đúng hoàn toàn nhưng như thế
cho thấy đường nét có vị trí quan trọng trong tạo hình đồ họa. Ở đồ họa các yếu
tố tạo hình thường gắn với nhau thành một khối thống nhất như màu sắc, ánh
sáng, không gian, bút pháp thể hiển đồng thời gây sức hấp dẫn, ở yếu tố tạo
hình đồ họa có thể sử dụng riêng đường nét-mảng-chấm khi thể hiện. Sự kết
hợp ba yếu tố do đặc điểm tâm sinh lý thị giác của con người có quan hệ với
đường nét qua ảo giác của mắt, trước đường nét hay tổ hợp đường nét gây
cho ta liên tưởng đến “nét”; Hướng ngang chỉ sự bình lặng, trầm hơi buồn;
Hướng chéo chỉ sự giao động; cho ta cảm giác vui khỏe và có sự phát triển chéo
gây cảm giác buồn xuống dốc…Phối hợp nét cong và nét thẳng theo tiết diện
nhất định tạo được cảm giác niềm vui được nhân lên cho sự thỏa mãn thị giác
mắt nhìn. Nét dài, nét ngắn kết hợp với nhau với tỉ lệ phù hợp nhất định tạo nên
sự bền vững chặt chẽ và thỏa mãn tâm sinh lý thị giác tốt nhất. Nét to, nét nhỏ
phối hợp tỉ lệ tương ứng vừa phải cho cảm giác linh hoạt. Nếu ta tách riêng và
xét các nét ở trạng thái độc lập của nó thì thông thường nó có những đặc tính,
tính chất tương đối rõ nét và ngược lại, nếu xét khi kết hợp với những đối
tượng thị giác khác biệt thì nét kết hợp với nét cong và nét thẳng, thẳng với
thẳng hoặc cong thẳng kết hợp với nhau cho ta cảm giác đặc tính khác nhau
phụ thuộc vào tổng thể của chúng, sự kết hợp hình thức lối trùn hợp tạo hiệu



1

1


quả bất ngờ phụ thuộc vào cảm hứng người nghệ sĩ. Đường nét có khả năng
làm trung hòa các mảng mà định hình hỗn thể trong tranh. Ở Nhật Bản nghệ
thuật đồ họa xuất hiện từ rất sớm. Trải qua một thời gian dài đã đi vào đời
sống nhân dân, được nhân dân yêu thích và giữ gìn. Bằng những ưa thế về
đường nét tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản cũng đã đem lại hiệu quả về
chiều sâu cho tác phẩm. Tranh khắc gỗ cho ta hiểu biết thêm về nguồn gốc, tính
dân tộc cũng như tri thức, kỹ năng, kỹ sảo và cách đơn giản hóa về hình mảng
để kế thừa và phát triển tranh khăc gỗ nói riêng và dòng chảy Mỹ thuật Nhật
Bản nói chung. Đó là lý do tôi chon đề tài này “Nét trong tranh khắc gỗ phong
cảnh Nhật Bản”
2. Mục đích nghiên cứu.

Tìm hiểu đúng yếu tố nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản qua
những tác phẩm tiểu biểu của tác giả nổi tiếng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Giới thiệu chung về tranh khắc gỗ Nhật Bản.
3.2. Nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản qua những tác giả tiêu
biểu.
3.3.Sự kết hợp giữa nét và các yếu tố cơ bản của nghệ thuật thể hiện
trong tranh khắc gỗ Nhật Bản.
3.4. Nhận thức của bản thân về nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật
Bản.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
4.1. Khách thể nghiên cứu

Tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản.
4.2. Đối tượng nghiên cứu.
Nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản qua những tác giả tiêu
biểu.
Tác động của nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản đối với ý
tưởng, cảm xúc, và sáng tác của con người học và sáng tác tranh.
5. Phạm vi nghiên cứu.

2

2


5.1. Giới hạn địa bàn nghiên cứu.
Những bức tranh khắc gỗ phong cảnh đặc sắc của các tác giả tiêu biểu Nhật
Bản.
5.2. Giới hạn nội dung nghiên cứu.
Yếu tố nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản qua những tác giả nổi
tiếng.
6. Giả thuyết khoa học.
Nếu đề tài nghiên cứu thành công thì sinh viên sư phạm cũng như những
người học nghệ thuật sẽ có nhìn nhận mới hơn về cách thể hiện, đơn giản hóa
yếu tố nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản, qua đó thêm say mê,học
hỏi những cái hay cái đẹp, yêu nghề hơn, và để phục vụ cho công tác giảng dạy
Mỹ thuật sau này của mình.
7. Các phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
Phương pháp phân loại hệ thống hóa lí thuyết
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm

8. Đóng góp mới của đề tài.
Giúp cho những người học hội họa cũng như đồ họa thấy được cách thể
hiện nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản qua đó biết vận dụng cho
bản thân học tập.
9. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung gồm 3 chương đó là:
Chương 1: Giới thiệu chung về tranh khắc gỗ Nhật Bản.
Chương 2: Nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản
Chương 3: Vai trò của nét trong đồ họa nói chung và trong tranh khắc gỗ
nói riêng.

3

3


PHẦN B: NỘI DUNG
Chương 1: Giới thiệu chung về tranh khắc gỗ Nhật Bản
1.1.
1.1.1.

Nguồn gốc và lịch sử quá trình phát triển tranh khắc gỗ Nhật Bản
Khái niệm:
Khắc gỗ là một kỹ thuật in ấn trong nghệ thuật tranh in đồ họa , sử dụng
chế bản in gỗ và phương pháp khắc nổi. Có nghĩa là các thành phần không in
trên tranh (mảng trắng) được khắc bỏ khỏi bề mặt khối gỗ, phần được in
(mảng đen) là phần để lại.

1.1.2.


Nguồn gốc:
Ở châu Á và thế giới nghệ thuật, nó được hiển thị như một giai điệu cụ
thể và um tùm, sau ba tram năm, tác động sâu vào châu Âu và châu Á. Ukiyo-e
ban đâù cho bút tích về Ukiyo-e là các họa sĩ thực hiện với màu mực, chứ không
phải là những bức tranh khắc gỗ in. Bút tích của Ukiyo-e, phổ biến ở Kyoto và
Osaka sự khở đầu trường phái hội họa, là có tính chất trang trí.
Nghệ thuật khắc gỗ Ukiyo-e tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
Cái tên Ukiyo-e bắt nguồn từ “Ukiyo”, với chứ “Uki” nghĩa là “ ưu” trong phật
giáo đã chuyển thành chữ “Uki” nghĩa là “Phù”. Đó là một thế giới nơi mà con
người chỉ quan tâm đến những thú vui hưởng lạc, thả trôi theo dòng đời.
Ukiyo-e đúng với cái tên của nó, là một hình thức nghệ thuật gắn liền với sự
hưởng thụ, lấy đề tài nhà hát, quán ăn, phòng trà, với nhân vật chính là các

4

4


diễn viên và kỹ nữ. Nhiều tác phẩm của các họa sĩ như Utamaro và Sharaku
trên thực tế là những tấm hình quảng cáo cho các màn biểu diễn mới ở nhà hát,
hoặc chân dung của các họa sĩ nổi tiếng, các Geisha được yêu thích…
Ukiyo-e là chủ đề rất rộng, có những vấn đề xã hội, văn hóa dân gian,
những giai thoại lịch sử, cảnh opera cổ điển và bức tranh những con số, một số
họa sĩ chuyên vẽ miêu tả cuộc sống của người phụ nữ, các sự kiện kỷ lục, chiến
tranh hoặc mô tả phong cảnh núi , rừng, biển…Nó gần như là Edo bách khoa
toàn thư của cuộc sống, và tất cả các chủ đề được phản ánh suy nghĩ của giai
điệu nào mới nổi cho cảm xúc.
Tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản có nguồn gốc từ đó, nói đến Ukiyo-e
là có Hokusai với bộ tranh về “36 cảnh núi Phú Sĩ” đã góp phần làm nên tên
tuổi của ông.là Hiroshige với bộ tranh “53 chặng đường tokaido” …

1.1.3. Lịch sử quá trình phát triển.
Tiền thân của loại tranh khắc gỗ vốn là những truyện tranh dân gian.
Câu truyện được vẽ minh họa xong đem khắc lên những miếng gỗ khổ nhỏ rồi in
lên giấy bằng mực đen rồi đem đóng thành thành tập rồi đem bán. Từ hình thức
truyện tranh, lâu dần do sự cạch tranh, cùng sự phát triển đòi hỏi sự hấp dẫn,
mới lạ. Các phường cho in ra những hình ảnh từng tờ rời khổ lớn. Để cho mọi
người có thể rmua về dán những nơi tùy thích trong nhà (Nhà nhật Bản các
vách ngăn nhau bằng khung giấy)
Khi còn sơ khai của loại này các phường chỉ cho in những nét chính bằng
mực đen xong , họ dùng bút tô thêm đôi ba màu phẩm xanh, đỏ rực rỡ vào cho
đẹp. Với những kích thước rất đa dạng, không bắt buộc, không có chuẩn mực
nào nhất định cho các họa sĩ. Có lẽ tùy vào khổ giấy to nguyên thủy rồi xếp theo
khổ yêu cầu rồi rọc ra từ những miếng nhỏ để in.Thông thường loại này có kích
thước nhỏ hơn 13cm. bề dài lớn nhất cỡ 38cm với đề tài anh hùng, phong cảnh,
những hình ảnh sinh hoạt đời thường của các cô kỹ nữ và các nghề phổ thông
trong dân gian… Vào thời sơ khai, kỹ thuật chưa cao nên chỉ thực hiện được
khoảng ba bốn bản gỗ có vỗ màu mà thôi. Vì sao lại có tên là Ukiyo-e?

5

5


Trong nửa sau thế kỷ 17, hình thức hội họa khắc gỗ trở nên cực kỳ phổ
biến ở trung tâm Edo (Tokyo bây giờ), bắt đầu từ những tác phẩm đơn sắc
Sumizuri-e của Hishikawa Moronobu vào thập kỷ 70. Đầu tiên người ta dùng
mực Ấn Độ, sau đó dùng bút tô màu lên theo phương pháp theo phương pháp
thủ công. Mãi cho đến thế kỷ 18, Suzuki Harunobu mới phát triển phương pháp
để tạo ra Nishiki-e tranh khắc gỗ màu. Một bản in Ukiyo-e để hoàn thành phải
trải qua khá nhiều công đoạn. Theo phương pháp truyền thống thì chỉ cần ít

nhất ba người để hoàn thành tác phẩm. Đầu tiên, người họa sĩ phải vẽ một bản
gốc bằng mực đen (Sumien). Người ta dựa vào đó tạo ra bản Hanshita, bản này
sau đó sẽ được thợ khắc Horishi dán gấp váo một phiến gỗ và cắt bỏ những
phần trắng, để lại búc họa ngược trên gỗ gọi là Sumiita. Nó dùng để in những
viền đen. Bản đầu tiên gọi là Kyogo-zuri sẽ được đưu cho họa sĩ để kiểm tra lại
lần cuối và hoàn thiện bả khắc. Nếu như tranh đen trắng thì hoàn thiện đế đây
coi như hoàn thành, Còn nếu là tranh màu thì công việc mới chỉ bắt đầu, Những
tấm Inroita được tạo ra dựa trên bản khắc gỗ này, mỗi tấm sử dụng cho một
mảng màu của tranh. Surishi tô màu đen lên những miếng gỗ dưới sự giám sát
chỉ đạo của họa sĩ trước khi chúng được đưa vào sử dụng. Nguyên tắc in màu
;là đi từ màu sáng đến màu tối hơn và đi tư các họa tiết nỏ đến các họa tiết lớn.
Cuộc sống đầy lạc thú và những khu nhà hát ở Edo cung cấp cho các họa sĩ
Ukiyo-e một mảnh đất màu mỡ với các đề tài là Geisha và nghệ sĩ Kabuki. Bijinga ra đời ghi lại hình ảnh những người được coi là biểu tượng của cái đẹp.
Người ta thấy trong đó những nghệ sĩ, kỹ nữ, và cả những nhân vật hư cấu
trong các tác phẩm văn học. Dọc theo các đường phố Edo, chúng ta bắt gặp
hình ảnh các nghệ sĩ Kabuki nổi tiếng trong Yakusha-e. Đối lập với phong cách
khá nhệ nhàng ở Kyoto vad Osaka, các nghệ sĩ Kabuki ở Edo được biết đến với
dòng kịch Aragoto đầy kích tính. Những hình ảnh minh họa quảng cáo do đó
thường tập chung vào các cảnh cao trào trong các vở kịch. Xuất hiện vào
khoảng thế kỷ 18, Shunga là một dòng tranh gây khas nhiều tranh cãi. Ẩn chưa
đôi nét đàng điếm dung tục nhưng cũng không kém phần sắc sảo trong cách tạo
hình, Shunga đem đến cho hội họa cái nhìn mới tư truyền thống với đề tài là

6

6


chuyện phòng the hay các kỹ nữ ở “phố đèn đỏ”. Không chỉ dừng lại ở nhà hát
và những thú vui hưởng lạc, Ukiyo-e ít nhiều còn mang dáng dấp của tình yêu

thiên nhiên trong hội họa truyền thống, với các tên tuổi như Hookusai và
Hiroshige. Vẻ đẹp thiên nhiên được ghi nhận qua hình ảnh núi Phú Sĩ, biển cây
cối, chim muông … Tranh khăc gỗ phong cảnh thời kỳ này có một sự liên kết
chặt chẽ với văn học thơ ca cổ điển Nhật. Điều này thấy rõ qua Surumono
những bản in với số lượng nhỏ được làm để tưởng niệm những sự kiện đặc biệt
và đem tăng như vật lưu niệm . Chúng gắn liền với những bài thơ với những
hình ảnh đặc biệt mang nhiều ý nghĩa hướng tới đối tượng có học thức . Sang
thời Mejin, tranh khắc gỗ Nhật Bản không theo phong cách tryền thống nữa.
Nhưng đó không phải là cái kết cuối cùng cho loại hình hội họa đặc biệt này,
mà trên thực tế Uikyo-e vẫn tiếp tục in đậm dấu len nền văn hóa Nhật Bản như
Manga truyện tranh Nhật hay Ukiy0-e của thế giới hiện đại là minh chứng cho
điều đó.
Điểm hình qua qui trình thực hiện một tấm tranh: Khi thực hiện một bản
tranh khắc gỗ này không phải là một người mà là cả nhóm người gọi là
phường. Đứng đầu luôn luôn là một thợ cả hay chính họa sĩ với tác phẩm do
chính họ sáng tác. Dưới tay họ là một nhóm thợ lành nghề. Rồi tùy theo trình độ
của mỗi cá nhân mà được giao cho những công việc phù hợp từ khó đến dễ,
phân làm hai lớp; Lớp chuyên chế tạo các bản gỗ dựa theo mẫu tranh vẽ của
họa sĩ, lớp chịu trách nhiệm dùng bản gỗ đẻ vỗ mực in màu để in qua giấy
thành tranh. Người họa sĩ sẽ là người chịu trách nhiệm sau cùng, kiểm tra sửa
chữa các bản khắc trên những miếng gỗ cho thật vừa ý sau đó mới đem in.
Trong lúc in thử người họa sĩ cũng phải theo dõi trực tiếp để kịp thời sửa chữa,
chấn chỉnh những sai sót nếu có cho thật hoàn hảo, rồi mới in hàng loạt, những
bản in hoàn mỹ đầu tiên này sẽ được lấy nó làm chuẩn. tấm chuẩn này được
đóng vào một con dấu với hai chữ “Bản nguyên” để phân biết với những bản
thường. Giới nghiên cứu cho chúng ta biết những điều cần phải lưu ý sau:

7

7



Có thể thay đổi màu sắc trong một đợt in. sự cố này sảy ra khi đang in thì
bị hết màu hay tại một lý do nào đó nên khi cho in lại màu pha không giống
được như cũ. Đôi khi chuyển hẳn sang màu khác nữa.
Có sự thay đổi đường nét trong cùng một bản gỗ ngay trong thời tác
giả.Chuyện này nó cũng tương tự ở điền trên. Các nét được in lên gỗ có chỗ rất
mảnh, in nhiều lần bị mòn, hay bị dập bè ra. In vào không được đẹp. Cũng có
những bản gỗ in xong được cất đi rất lâu, ngày lúc lúc ra để in tái bản, bản gỗ
bị hư hỏng, phải cho khắc lại nên không thể giống nhau hoàn toàn, chỉ có vài
cái tương tự mà thôi.
Người chịu trách nhiệm xuất bản đôi khi không phải chính tác giả. Đâu
ai cũng có vốn và thị trường tiêu thụ. Nếu các họa sĩ có điều kiện thì đứng ra
lập thị trường buôn bán. Nếu không đã có một số nhà buôn đứng ra thầu hết
rồi cho phát hành.bởi vậy tranh khắc gỗ Nhạt, ngoài những con dấu chính thức
của các họa sĩ cồn có thêm con dấu của nhà phát hành đóng vào.giới bình dân,
do in hàng loạt nên giá rẻ. Mọi người đều có thể mua về, mục đích gián lên
tường nhân dịp lễ lạc, hội hè hay để trang trí trong nhà cho vui mắt. Các
phường in bán hết thì cho tái bản lại. họ không có khái niệm gì về nghệ thuật
cao siêu, mà cái chính là do mưu cầu cho cuộc sống hàng ngày của họ. Do có sự
cạnh tranh mà các họa sĩ cũng như các nghệ nhân đã tạo ra vô số sản phẩm
trên bản gỗ thật tinh vi, sắc sảo. Cái sự cần cù, tỉ mỷ, khéo léo của của họ thật
đáng khâm phục. Những nét bút của họa sĩ vẽ trên giấy bất kỳ như thế nào. Có
mảnh như sợ tóc họ cũng thực hiện qua bản khắc không máy khác biệt. Về
nhóm thợ in, công việc của cũng phải nói rất kỳ công, mỗi một màu là một lần
in. Họ phải lấy thật đúng màu, đến lúc in xong ta quan sát thật kỹ thấy hai màu
sao mà chính xác đến không ngờ. Có thể nói cái tính tỉ mỉ, kiên trì của người
Nhật Bản đã làm cho nghệ sĩ phương Tây nghiêng mình bái phục, cái kiểu cách
làm việc vô tư, theo tập quán trong cuộc sống chứ không phải mục đích làm để
đời . Ngay lúc đó người Nhật cũng đánh giá thấp về nó, không được coi trọng

như những nghệ sĩ tranh thủy mặc, không hiểu cái tên “phù thế hội” chỉ danh
loại hình tranh này có ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa nào đó hay không?

8

8


Ukiyo-e khắc gỗ không theo đuổi hương vị của con dao, nhưng phải quan
tâm đến thực hiện hiện hạt đỗ. Nhật Bản Ukiyo-e là phù hợp với chúng tăng
trưởng kinh tế và văn hóa phát sinh từ đời sống mạnh mẽ. Ukiyo-e tác giả dân
gian sinh ra, không một nữ hoàng họa sĩ, nhưng trong những năm 1820 chế độ
lương tư bản chủ nghĩa hoạt động, với kết quả nghẹ thuật này bí mật nội dung
lành mạnh của nó, nội dung khiêu dâm và thô tục theo đuổi, cuối cùng dần biến
mất và suy giảm.
Edo Ukiyo-e không chỉ là những bức tranh đặc biệt nhất, nhưng cũng bởi vì
vai trò của nó trong việc thúc đẩy nghệ thuật phương Tây hiện đại được biết trên
toàn thế giới.Với sự phát triển của Ukiyo-e nghệ thuật đã xuất hiện nhiều họa sĩ
nổi tiếng như Utamaro (1754-1806), Hokusai ( 1760-1849) và Hiroshige (17971858)
Utamaro: nổi tiếng với tranh về đề tài phụ nữ (thể loại bijinga- Mỹ nhân
họa) về thể loại tranh này ông có số lượng tranh khá lớn , diễn tả mọi khía cạnh
cuộc sống kinh kì, những kĩ nữ và bình dân. Tranh của ông thể hiện bằng những
nét mềm mại, thanh mảnh, những mảng màu ấm áp, đậm đà đã diễn tả đặc
trưng của người phụ nữ Nhật Bản khá thành công.
Hokusai: là nghẹ sĩ thành tài ở tuổi ngũ tuần , tuy vậy ông là họa sĩ thiên
tài của Nhật. Ông nổi tiengs với những chặng đường nghệ thuật gian nan và
nhiều đỏi thay. Kể cả những tranh minh họa, ông đã vẽ khoảng 30.000 bức
tranh. Bộ tranh 36 cảnh núi Phú Sĩ vẽ năm 1823 đã thực sự khẳng định tài năng
của Hokusai.
Hiroshige: Cùng vơi Hokusai, Hiroshige cũng là một đại diện cho nghệ

thuật Nhật Bản. Ông sớm chuyển từ tranh phù thế sang tranh phong cảnh. Với
bộ tranh “53 chặng đường Tokaido” ; ông vẽ năm 1833 với các cảnh gió, mưa,
bão, tuyết, …đã làm ông nổi tiếng, tranh của ông với màu sắc hài hòa, tươi
sáng, giàu chất thơ lãng mạn khác hẳn với phong cách mạnh mẽ của Hokusai.
Tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản một đề tài mà các họa sĩ Ukiyo-e rất
được trú trọng với những phong cảnh của đất nước Nhật Bản, qua đó thể hiện

9

9


tình yêu thiên nhiên cùng với thái độ lao động nghệ thuật rât nghiêm túc của
ông.
1.1.4.

Sự ảnh hưởng của tranh khắc gỗ Nhật Bản với thế giới.
Ở châu Âu, thế kỉ XV vào khoảng năm 1486, đã bắt đầu thời kì định hình
thể loại tranh khắc gỗ ( Người ta vẫn thường gọi là trang khắc gỗ phương Tây)
Tranh khắc gỗ của họ thể hiện một cách chính xác, hình aanhr những con người
và những phong cảnh theo bản vẽ thực tế. Cũng vào thời đó có những tác giả
tranh khắc gỗ đã đặt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đem lại rất nhiều điều mới lạ,
làm giàu cho tiếng nói của nét khắc gỗ mà chỉ in bằng một bản in đen trắng.
Những nét khắc đặc biệt tinh tế thông qua cách nìn sắc sảo, thấu suốt đến tinh vi
để diễn tả sự vật. Cái đẹp phương Tây quan niệm là cái đẹp phân tích, lý giải với
tầm nhận thức sâu sắc về bản chất, có tính quy luật của thiên nhiên, trên cơ sở
thế giới quan thời đó.
Ở Nhật Bản cũng đã có một nền nghệ thuật tranh khắc gỗ rát phát triển
sớm và rất nởi tiếng. Các họa sĩ Nhật Bản đã để hết tâm huyết về việc nghiên
cứu chọn lọc nét, để miêu tả sự vật, cách điệu luôn luôn vươn đến nét khắc chứa

đựng nhiều rung cảm mới, sinh động và thi vị, họ dường như không quan tâm
đến diễn tả ánh sáng và bóng tối của sự vật; họ sử dụng nét viền chu vi để phản
ánh bản chất của sự vật, phối hợp với các mảng nằm trong các nét viền chu vi
đó.
Cái tiêu biểu và nổi bật nhất của nghệ thuật tranh khắc gỗ Nhật Bản là tính
nhất quá của sự tinh vi, từ nét khắc nhỏ như sợ tóc, giấy, màu ta thường thấy ở
tranh khắc gỗ Nhật Bản phải in qua hàng trục bản khắc mà hình và nét rất chính
xác.
Mãi đến người phương Tây du nhập vào nước Nhật, họ phát hiện ra đất
nước này có một nền nghệ thuật dân gian đặc trưng, độc đáo tiềm ẩn một sức
lôi cuốn mãnh liệt làm say mê lòng người. Họ sưu tầm bổ xung cho bộ sưu tập
của mình, những học bức tranh nổi tiếng của danh lam thắng cảnh đẹp trở
thành biểu tượng của đất nước núi Phú giả, nhũng nhà nghiên cứu nghệ thuật
phương Tây đã để mắt đến tìm hiểu và thi nhau viết lời giới thiệu, viết sách

10

10


ngợi ca, không tiếc lời. cũng nhờ thế mà cả thế giới biết loại tranh khắc gỗ
tuyệt vời của người Nhật.
Tranh khắc gỗ Nhật bản làm thay đổi dòng chảy của hội họa phương Tây
vào thế kỷ XIX. Những bức tranh khắc gỗ rực rỡ từ sau những năm 1860 đã
tràn vào Châu Âu góp phần tạo nên phong cách mới của Manet, Monet, Degas
và Whistle…

11

11



Chương 2: Nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản.
2.1. Khái niệm về nét.
Đường nét phương tiện chủ yếu của đồ họa nói chung và tranh khắc gỗ
phong cảnh Nhật Bản nói riêng. Đường nét là thủ pháp sử dụng biểu hiện của
nghệ thuật đồ họa do con người sáng tạo ra, thị giác của con người kết hợp với
cảm quan hình thức của đường nét với tính năng của sự vật cho nên có thể nói “
Đường nét là biểu hiện của sự thống nhất giữa cảm tính thị giác và lý tính phân
tích” quỹ tích chuyển động của điểm , hình thành đường nét động; đường cắt
của mặt và hoặc là đường biên là đường nét tĩnh, đường nét còn biểu hiện vật
thể hữu hình mà còn biểu hiện ỹ tưởng vô hình , vì thế đường nét trở thành
hình thức cơ bản của hôi họa và là phương tiện chính trong nghệ thuật đồ họa.
Công năng cơ bản nhất của đường nét là bao ngoài xác định giới hạn của hình
ảnh; đường nét bao hàm tính ngưng tụ của hình càng thêm rõ ràng. Đồng thời,
đường nét cũng có thể chia cắt, phân giải các bộ phận của hình, để biểu hiện
mặt khối, chất của nó.
Vì vậy trong tranh khắc gỗ phong cảnh của Nhật Bản rất coi trọng nét
trong nét trong tranh và đạt hiệu quả cao trong công việc sử dụng nét riêng
trong tư duy trong nghệ thuật của họ.
Đường nét trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản có những nét độc
đáo mà không một dòng tranh nào có được, nét vẽ của tranh dứt khoát, mà
mềm mại, bay bướm mà vẫn chắc khỏe. Một trong những điểm tiểu biểu và đặc
trưng về nét của tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản đó là sự ý thức của các
họa sĩ trong việc tổ chức và cấu thành nét khắc để thể hiện khả năng diễn đạt
của đường nét một cách tối đa. Không gian trong tranh khắc gỗ Nhật Bản là
hiện thực và các nhân vật là lấy tư liệu từ thực tiễn, cấu trúc hình đúng với giải
phẫu, trú trọng đến khả năng nắm bắt linh hoạt, các sự vật đối tượng thể hiện
trong tranh đều xuất phát từ thực tiễn, óc quan sát thực tiễn của tác giả rất
tinh tế. Họ cảm nhận và quan niệm theo truyền thống của họ, họ tạo hình theo

cách nhìn và cách nghĩ của họ chính vì vậy họ không lệ thuộc vào vấn đề gì khi
sáng tác, họ vẽ những gì họ thấy, vẽ những gì họ thích cho nên tranh khắc gỗ

12

12


phong cảnh Nhật Bản có những yếu tố tính chất hiện thực. Đường nét trong
trang thiên về đơn giản mà chắc khỏe có xu hướng tả thực. Để diễn tả đường
nét mà các họa sĩ Nhật Bản tìm mọi cách để tính đơn giản hóa hình vẽ và hạn
chế nét để thể hiện cái bản chất mà người ta gọi là cái “thần” của sự vật.
2.2. Các dạng nét trong tranh khắc gỗ.
2.2.1. Nét tĩnh, nét động
Đường nét tĩnh biểu hiện đường bao ngoài; đường nét dộng biểu hiện sự
chuyển động của điểm. Vệt lưu sao sa vạch ra, luồng sáng của xe đêm lướt qua
đều là quỹ tích của điểm chuyển động dùng đường nét để biểu hiện, hiện tượng
vật lý là ngôn ngữ đồ họa được phú cho sức mạnh nghệ thuật hình ảnh: như hơi
mây, khỏi lửa, sóng nước, ánh sáng…
Đường nét đã được dùng từ rất sớm để biểu đạt sự tưởng tượng và ảo
giác của con người. Những bản đồ sao dù là của phương Đông hay phương Tây
đều dùng đường nét để nối những sao thành chòm sao. Đồ họa truyền thống
của phương Đông còn quen dùng hai vạch đường để phân biệt giữa cảnh mộng
và cảnh thực.
Trong rất nhiều tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản đã sử dụng một
cách ước định đường nét để biểu đạt hiện tượng vật lý mà cảm giác thị giác
không nhận biết được như: âm thanh, mùi vị, nóng lạnh v, v …
Với tác phẩm “Sóng lừng” (hay còn gọi “Sóng lừng ngoài khơi
Kanagawa” (H.1)của Hô-ku-sai
Tác giả Katsushika Hokusai (1760-1849) là một nghệ sĩ Nhật Bản họa sĩ

Ukiyo-e và là người chế tạo ra máy in tranh khắc gỗ trong thời kỳ Edo (16031868). Sinh ra tại Edo (nay là Tokyo), Hokusai được biết đến nhiều nhất với tư
cách là tác giả của loạt tranh in bằng khung gỗ với bộ tranh “ 36 cảnh núi Phú
Sĩ” (1831) trong đó có tác phảm “sóng lừng” đã trở thành biểu tượng của Nhật
Bản và được xuất bản trên bình . Với 30.000 tác phẩm, tên tuổi của ông đã được
ghi vào các họa sĩ nổi tiếng thế giới. Ông khiến người ta kinh ngạc bởi năng lực
sáng tạo mạnh mẽ , không mệt mọi trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật.

13

13


Với tập tranh phong cảnh núi Phú Sĩ là đề tài ưa thích nhất của Hokusai.
Trong tranh của ông, ngọn núi có khi lặng lẽ, thanh cao sau những cánh đồng
lúa xanh, khi lại hùng vĩ trên nền trời mờ tím. Cũng có lúc nó đỏ rực như một
con cuồng nộ hoặc phát hiện nhỏ bé, khuất sau những cơn sóng dữ. Nhưng dù
với hình ảnh nào thì Phú Sĩ vẫn toát lên vẻ kiên cường, bất khuất.
“ Sóng lừng” là tác phẩm nằm trong loạt tranh in khắc gỗ “36 cảnh núi Phú
Sĩ” được công bố từ năm 1830 đến năm 1833 là một tác phẩm bắt mắt nhưng
không dễ xem. Thoạt nhìn người ta có thể gán cho tác phẩm những cụm từ như “
trang trí” hay “đèm đẹp”. Bút phát của ông rất chính xác, điêu luyện nhưng không
có được vẻ tự do, nhẹ nhàng nhõm của Hirôshige. Vì vậy khi mới nhìn ai cũng có
thể cảm thấy sự khô cứng như thể là sản phẩm của một người thợ hơn là một
nghệ sĩ.
Tuy nhiên càng xem lâu thì tác phẩm càng biến hóa, thậm chí khiến chúng
ta phải kinh ngạc bởi tính hiện đại của nó. Không phải vô cớ nhìn sâu vào đó
những vệt nước giai điệu dồn dập của chúng, những vệt màu xanh này này còn
phản ánh cấu trúc của ngọn sóng, vừa biểu đạt hướng chyển động, tiết tấu song
song và đan xen đầy hiệu quả bấy nhiêu đó chính là thành công của Hôkusai khi
sử dụng đường nét để biểu hiện, hiện tượng chuyển động của vật lý trọng tác

phẩm.
Và chúng ta thấy được chủ đề chính là ngọn sóng được khắc họa đúng lúc
sắp sửu ập vào đoàn ngư phủ trên ba chiếc thuyền chài lênh đênh, nhấp nhô trao
đảo trong cơn thịnh nộ của biển cả. Ở chân trời và quãng đường giữa trung tâm
bức tranh, sừng sững ngọn núi Phú Sĩ. Điều này tạo cho người xem cảm giác đầy
vơi chính là tâm điểm của toàn cảnh, còn số phận của đoàn ngư phủ thừa sống
thiếu chết, vật vã với sóng chính là điều thứ yếu. Điều này được xác định qua
đường nét tạo nên bố cục. Ngọ sóng lừng được sắp xếp ở bên trái bức tranh tạo
thành một hình bán nguyệt hoàn chỉnh, Giữa vòng cung là hình tượng ngọn sóng
tương hợp với lớp tuyết trắng phủ trên ngọn núi Phú Sĩ ở đằng xa, cả hai hình
tượng ngọn núi và ngọn sóng có hai màu chủ yếu là trắng và màu xanh gần như
đen, màu trắng của bọt biển gần như tung hoành trên các ngọn sóng tương hợp,

14

14


này bọt biển và tuyết đề sinh ra từ một nguyên tố vật chất chung là “nước” như
vậy màu sắc thì tương đồng. Nhưng sự đối lập giữa hai trạng thái, một tĩnh một
động lại gây ra sự căng thẳng dựu dội. Nhịp điệu mạnh mẽ táo bạo của bức tranh
còn tăng tốc với sự lặp đi lặp lại của đường nét của ba ngọn sóng với ba chiếc
thuyền trên đó ba đoàn ngư phủ một, hai, lại ba có chuyển hóa màu nhiệm ở bức
tranh này cho dù tất cả lại rất giản dị, chỉ có thể bởi vì họa sĩ đã nắm cốt cách của
cảnh vật. Thiên nhiên vĩnh hằng nơi đây như đang đùa giỡn với con người nhỏ bé
vậy.
Nét tĩnh ở đây là đường bao xung quanh ngọn sóng, những vệt sóng đang
trào lên chúng ta có thể nhìn ra đó là nhờ nét động, những điều mà tác giả muốn
gửi gắm trong bức tranh yếu tố đường nét đã góp phần vào thành công đó của tác
phẩm.

Như vậy chúng ta thấy được yếu tố đường nét được thể hiện trong tác
phẩm nó đóng góp vai trò quan trọng trong sự thành công về nội dung mà tác
giả muốn thể hiện nó.
2.2.2. Nét chiều thẳng đứng.
Đường kẻ chiều thẳng đứng có cảm giác cao vời vợi , đó là từ những
hình ảnh quen thuộc như cây lớn, đỉnh cao, tháp nhọn. trụ đỡ…Đường nét
thẳng đứng có cảm giác thê lương lạnh lẽo, đó là từ những cảnh mưa rơi, thác
đổ; cũng có cảm giác sức sống vươn lên phát triển, đó là cảnh tượng rừng sâu,
cỏ rậm.
Chúng ta bắt gặp trong những tác phẩm “Thâm xuyên Vạn Niên kiều hạ”
cảnh “Núi Phú Sĩ nhìn từ cầu Vạn Niên ở Fukagawa”, (H.2) Edo, ( Bức thứ 4
trong bộ tranh “Ba sáu cảnh núi Phú Sĩ” của Hô-ku-sai) lớp cảnh đầu tiên rất
đặc biệt, đó là những nét tĩnh thể hiện hình ảnh chiếc cầu đóng một cách nhẹ
nhàn mảnh khảnh, để mở một không gian rộng mở một không gian phía xa,
nơi có núi Phú Sĩ lặng lẽ đóng ở đó. Chiếc cầu vồng cao lên tạo ra một khoảng
trống ở giữa hai cột cầu với đường nét thẳng đứng, tạo cảm giác cao vời mà
trắc, rất gần gũi với chúng ta, từ đó thị giác hướng vào hình ảnh núi Phú Sĩ

15

15


hiện lên bình lặng mà hiên ngang…như thế một phong cảnh được nhìn qua
khung cửa số.
Đối với tác phẩm “ Võ Châu Thiên Trụ” (H.3) cảnh núi Phú Sĩ nhìn từ
Senju ở tỉnh Musasi ( Bức thứ 7 trong bộ tranh “Ba sáu cảnh núi Phú Sĩ” của
Hô-ku-sai) Cũng với góc nhìn núi Phú Sĩ qua khe của những nét thẳng Khẻo
khắn của những chiếc cột có cảm giác cột trụ cao vời, và để nhìn được lớp cảnh
phía sau, để thấy ngọn núi Phú Sĩ xa xa hiện lên thanh cao mà lặng lẽ.

Ngoài ra chúng ta có thể bắt gặp đường nét thẳng đứng trong kiến trúc
tôn giáo nhiều hơn đường nét ngang bằng, như cột trụ của chùa chiền, nhà thờ,
đại điện; những mảng rũ, những chân đèn không đâu là không ngưng đọng
không khí nghiêm trang thần thánh .
Đường nét đứng có tính cách ấm áp, nam tính chủ động. Hàm nghĩa mà
trường phái hội họa trừu tượng phú cho đường nét , ở mức độ rất lớn là phản
ánh những tình cảm, suy tư của người họa sĩ, chưa được công nhận phổ biến
.Nếu nhìn từ góc độ tượng trưng mỹ học, đường đứng là lý tính đường ngang
nhiều cảm tính. Cho nên trong tranh để làm rõ sự trầm tư, tĩnh mặc, lạnh lẽo,
nếu dùng đường nét thẳng đứng sẽ có sức biểu hiện tốt hơn đường nằm ngang.
2.2.3.Nét ngang.
Thị giác liên kết với đường nét với tính trạng của sự vật, cho nên, chiều
hướng cơ bản của đường nét đặc biệt là nét xếp chiếm một diện tích nhất định
trên mặt tranh . Đường nét xếp lớp theo chiều ngang tạo ra cảm giác yên bình
ổn định, nó bắt nguồn từ hình tượng quen thuộc như ruộng, vườn, bãi cỏ… Cảm
giác tĩnh lặng, đứng yên bắt nguồn từ cánh đồng bằng phẳng lặng như gương,
còn cảm giác yên hòa bắt nguồn từ nơi tràn lan hơi mây nước.
Đường nét ngang có tính cách lạnh lẽo, nữ tính, bị động .
Xem bộ tranh “36 cảnh núi Phú Sĩ” của họa sĩ Hokusai ta sẽ bắt gặp
những bức tranh tác giả sử dụng những nét ngang tạo cảm giác bình yên như
bức 32 cảnh “ núi Phú Sĩ nhìn từ làng Sekiya trên bờ Sumida”. (H.4) Cánh đồng
mênh mang phẳng lặng, đằng xa là sừng sững núi Phú Sĩ hiên ngang trên nên
trời xanh ngắt.

16

16


Tác giả không sử dụng qua nhiều nét ngang mà chỉ gợi vài đường nét

nhưng đã đạt cao trong tác phẩm với nội dung và họa sĩ muốn gửi gắm. Hay
trong bức thứ 28 cảnh “Núi Phú Sĩ nhìn từ vịnh Tago ở Ejiri” (H.5) Hokusai tạo
ba lớp tranh tách hẳn nhau ra bằng màu đất xen giữa đó là bãi biển; tách lớp
cảnh bắt cả của vợ chồng làng chài với cảnh làng chài với lớp núi Phú Sĩ, đường
nét ngang được tác giả sử dụng ở đây là gợi ra một bờ biển rộng mênh mông
đến núi Phú Sĩ hiện lên sừng sững bao bọc làng chài.
Với hòa sắc nhẹ nhàng sử dụng kết hợp đường nét ngang để thể hiện bãi
biển , đã thể hiện được nội dung mà tác giả người xem thấy được vẻ đẹp của
núi Phú Sĩ uy nghi thế nào?
2.2.4. Nét xiên.
Đường xiên là đường giàu cảm giác với góc độ đa dạng . Đường cong
xiên không ổn định nhưng lại có tính chất linh hoạt. Những đường xiên, từng
vệt cong cong xiên dẫn dắt thị giác vào sâu trong tranh.
Chúng ta bắt gặp đường nét trong bộ tranh “53 chặng đường Tokaido”
là bộ tranh khắc gỗ màu Nhật Bản của họa sĩ Utagawa Hiroshige là thể loại
tranh màu truyền thống Ukiyo-e gồm 55 bức tranh được ông sáng tác sau
chuyến du hành dọc tuyến đường Tookaido vào năm 1832, Tokaido là tuyến
đường huyết mạch nối liền thủ của các Shogun là Edo với kinh đô phong kiến
Nhật Bản là Kyoto, trên tuyến đường này người ta cho xây dựng 53 trạm nghỉ
để làm nơi dừng chân cho khách qua đường. Phong cảnh dọc Tokaido và các
trạm nghỉ của nó đã trở thành đề tài sáng tác của nhiều nghệ sĩ Nhật Bản
trong đó bộ tranh 55 bức của Hiroshige “53 chặng đường Tokaido” được coi là
đại diện tiêu biểu của dòng tranh Ukiyo-e.
Với tác phẩm “Đội mưa ở Sodo” Trạm nghỉ 45 (H. 6) bức tranh mô tả
một buổi chiều mưa mùa hè với sự xuất hiện của ba người đang cố gắng leo lên
sườn đồi, trong khi đó hai người khác thì đang đi xuống cố tìm chỗ trú chân.Ở
đây tác giả sử dụng thật khôn khéo những đường nét chéo thể hiện những hạt
mưa rào đầu cơn cùng với gió vào mùa hè, những hạt mưa kết hợp với rừng
cây cũng bị gió cuốn theo , dẫn dắt thị giác vào sau trong tranh, trên không có


17

17


rất nhiều đường xiên, biểu hiện một cách dầy đặc cái mưa lạnh ập vào con
người.
Đường nét có vai trò quan trọng trong thể hiển nội dung tác phẩm của
bất kì tác giả nào, Hokusai cũng như Hiroshige kết hợp nhiều kiểu đường nét
khác nhau mới có thể hoàn thiện một bức tranh phong cảnh, muốn thể hiện
một cánh đồng mênh mông ta sử dụng nét ngang, những cây trụ cột vững chắc
phải đi với nét thẳng,… Thật vậy không chỉ là đường nét trong tranh đồ họa mà
ngay ngoài cuộc sống các kiểu đường nét là rất gần gũi, thân quen. Chúng ta có
nhìn ra hay không là do cảm quan của mỗi con người.
2.3. Đường nét cách thể hiện.
Đường nét là phương pháp biểu hiển lắng luyện cao độ, vẽ nét cũng mô
phỏng theo đường bao, khối mặt và chất liệu của sự vật khách quan; quan
trọng hơn là người họa sĩ tái hiện nhận thức, lý giải tình cảm của mình, đối với
sự vật mà nó biểu hiện sự sống được nghệ thuật hóa, vì thế tất là phải chú
trọng, giản lược, thêm bớt và biến đổi. Căn cứ hiệu quả biểu hiện khác nhau,
người ta chia cách vẽ nét ra làm bốn kiểu khác nhau.
2.3.1. Nét vẽ cơ giới.
Nét vẽ cơ giới là kiểu như dùng những dụng cụ máy móc vẽ bản vẽ bằng
máy tính, vẽ ra tác phẩm hình và mặt phẳng. Đường nét ở đây là để chỉ những
đường nét rất chỉnh tề, chất trang trí mạnh. Như từng miếng ván, rồi dây
thừng hay cà nhân vật trong bức thứ 10 “ Vĩ Châu Bất Nhị kiến nguyên” ( H.7)
cảnh “ núi Phú sĩ nhìn từ tỉnh Owari” trong bộ tranh “36 cảnh núi Phú Sĩ” của
Hô-ku-Sai tất cả đều suôn sẻ và có tính trang sức hóa, vẽ đường nét ở đây rất
sáng không chồng chéo lên nhau, như đường kẻ hình vòng tròn của máy nước,
từng chi tiết từng mảnh ván nhỏ ghép vào nhau, đến cách đồng mênh mông,

mảng màu xanh của rừng cây, đường nét mỗi sự vật được thể hiện đều rất tinh
tế mà khác biệt, riêng lẻ,tác giả tuân thủ luật xa gần thể hiện đường nét ở gần
thì tỏ, ở xa thì mờ, bấy nhiêu đó đã tạo nên một bức tranh về núi Phú Sĩ hiện
lên lặng lẽ mà thanh cao, đằng sau cánh đồng bát ngát, rừng cây xanh ngắt .
Tác giả muốn hướng chúng ta tập chung vào sự vật gần mà tâm chungt thể

18

18


hiện vật ở xa hơn,họa sĩ tưởng như tạo khung của sổ để ngắm nhìn xa xa Núi
Phú Sĩ.
Cách thể hiện nét phong phú cũng góp phần tạo nên nội dung cũng như
vẻ đẹp của tác phẩm.
2.3.2. Nét kiểu tự nhiên.
Đường nét kiểu tự nhiên là đường nét chất phác, ngây ngô thô mộc, kết
hợp với cách tạo hình diễn ý không theo quy luật thấu thị.Họa sĩ Hô-ku-Sai với
bộ tranh “36 cảnh núi Phú Sĩ” trong đó có bức thứ 17( H.8) “Shishu Suwa-ko”
(cảnh núi Phú Sĩ nhìn từ hồ Suwa ở tỉnh Shinano) các tạo hình ở đây đường nét
đều ngây vụng thú vị như cách thể hiện các bụi cây và cây, giữa núi và hồ
.Nhưng với hình ảnh núi Phú Sĩ tác giả thay đổi đường nét, hiệu ứng khác hẳn
núi Phú sĩ vẫn hiên ngang, bất khuất trước thiên nhiên. Nếu nhìn kỹ chúng ta
còn có thấy tác giả sử dụng cách lệch bản in. Thủ pháp này làm tăng thêm chất
quê mùa dân dã, tăng thêm vẻ nhốn nháo trên mặt tranh. Nhưng tất cả những
hiệu quả đó, không có cái nào là không do đường nét tạo ra, hay thử bằng
đường nét thanh mảnh, bay bướm, chắc chắn cái chất quê mùa sẽ giảm hẳn.

19


19


2.3.3. Nét kiểu cá tính.
Đường nét kiểu cá tính là chỉ đường nét phát huy cá tính và tình cảm,
các loại biến hóa mà đường nét này biểu hiện thoáng hoạt, mềm mại rung
động, khô rít…như chung ta đã nói về Hokusai và Hiroshige hai họa sĩ đều yêu
thích vẽ về thiên nhiên phong cảnh danh lam thắng cảnh của đất nước, nhưng
cá tính hai ông là hoàn toàn khác nhau,thể hiện trong bố cục, màu sắc và đặc
biệt là đường nét nói lên cá tính một con người là rõ nhất.
Ngoài ra còn nhiều kiểu thể hiện nét như: Thể hiện nét vẽ trôi chảy;
Đường nét trôi chảy là đường nét tương đối linh hoạt, đường nét được tổ hợp
dài ngắn khác nhau mà tạo ra hiệu quả khác nhau.Nét mạnh mẽ; Đường nét
mạnh mẽ thường đem lại cho thị giác sự kích thích khác thường. Nét rung
động; Đường nét rung động phá vỡ mô thức lưu thoáng trôi chảy của truyền
thống. Nét bi thương; Đường nét bi thương là từ trình mịch , để chỉ đường nét
thô mảnh xen nhau vụn vỡ đứt nối. Nét kiểu lý trí; kiểu đường nét dụng bút và
thủ pháp, vận dụng bút lên xuống đưa đẩy đều rất thông minh, đường nét gây
cảm giác lúc nặng lúc nhẹ. Riêng kiêu đường nét này không sử dụng trong
tranh khắc gỗ khi in bằng máy, sẽ không đạt được hiệu quả mà in máy mang
lại.
2. 4. Sự kết hợp giữa nét và các yếu tố cơ bản của nghệ thuật thể
hiện trong tranh khắc gỗ Nhật Bản.
2.4.1. Nét và không gian.
Như chúng ta đã biết nét là tập hợp các điểm hình thành các đường nét
hay là quỹ đạo của một điểm di động trong không gian, trong hội họa và trong
đồ họa, nét là quy ước của con người để phân định ranh giới giữa cả hình thể
của sự vật và không gian xung quanh trên mặt phẳng. Sự tách biệt giữa vật thể
này với vật thể khác trong không gian trước hết là ở giới hạn bao quanh hình
ấy.

Các đường nét gợi lên sự duy trì của sự chuyển động, một đường nét như
thể dẫn ngang qua mặt tranh hoặc tiến sâu vào trong giúp chỉ ra sự hiện diện
của không gian. Ta thấy phải chăng đường nét tạo ra một không gian trên bề

20

20


mặt hai chiều. Một không gian ảo mà ta tưởng như có một sự xuất hiện chiều
thứ ba trên mặt phẳng hai chiều đó là gần, xa, đặc, rỗng … khả năng nét thể
hiện nét tăng lên nhiều. Khi sử dụng sự thay đổi về phương hướng của nét như
nét cong. Tính chất động của nét là do hướng, thay đổ được sự rộng rãi trong
lĩnh vực Mỹ Thuật nhất là trong nghệ thuật đồ họa.
Không gian không phải là hư không, vật lý học xem không gian là một
thực thể. Hội họa là nghệ thuật mặt phẳng, mà trong lịch sử hội họa không gian
cũng là phần lớn được biểu hiện. Trong quan niệm không gian truyền thống: sử
dụng nét vẽ bao quanh ranh giới của hình dạng vật thể là đã biểu thị sự tồn tại
lẫn nhau giữa không gian và vật thể; khoảng trống trắng trên mặt tranh chứa
đựng nhiều yếu tố bí ẩn không thể nói hết, dẫn người ta vào sự suy tưởng vô
hạn. không gian gọi là thấu thị tuyến tính
Như trong bộ tranh “ 53 thư chặng đường thiên lý Tokaido” của
Hiroshige có bức tranh “Ishiyakushi” trạm nghỉ 44 (H. 9) Bức tranh thể hiện
một làng nhỏ ở dưới chân đồi có nhà cửa lấp ló sau những rặng cây, có cách
đồng với nhũng người nông dân nào làm đất, làm cỏ, khiêng gồng với công việc
thân quen... yếu tố không gian và nét được thể hiện ở đây chỉ hướng và mật độ
của cây cối ở gần to tỏ nét, xa dân thay đổi chiều hướng nét thể hiện cũng như
biểu cảm của nét . Tác giả cho người xem thấy một phong cảnh có không gian
và sức sống.
Dùng phương hướng của đường nét để biểu hiện chiều sâu không gian.

Yếu tố net trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản có đường nét mảnh và
tinh vi. Nếu như hòa sắc là yếu quan trọng của chất liệu sơn dầu thì đối với
khắc gỗ lại phải phô diễn kỹ năng, kỹ sảo nét phối hợp với mảng hình và trên
nền dẫn đến kết quả cuối cùng là những tác phẩm khắc gỗ hay và đẹp với
nhưng đặc trưng là: Mộc vị và đao vị, mộc vị là khí đóng trên tranh mang tinh
thần của gỗ (mộc) chất của gỗ, còn đao vị là hơi thở của nhát dao, mang cảm
xúc tình cảm của người tác giả. Tùy thuộc vào mức độ và cách thể hiện mà tạo
ra được phong phú chất biểu cảm của nhát dao (đường nét)

21

21


Đường nét góp phần quan trọng trong việc xây dựng một bức tranh, nó
xuất hiện từ khi tác phẩm mới bắt đầu cho đến khi hoàn thành. Nhất là trong
lĩnh vực đồ họa mà tranh khắc gỗ là điển hình, giới hạn hình mà quan trọng là
góp phần tạo ra không gian và chiều sâu của tác phẩm.

22

22


2.4.2. Nét và hình khối.
Khi nói tới hình thù người ta hay liên tưởng đến khái niệm hình trứu
tượng. Trong đó bao gồm hình học, hình thị giác, hình tâm lý. Từ các hình cơ
bản đó mỗi ngành học lại có sự nhì nhận và phát triển theo hướng riêng, vậy
đối với Mỹ thuật là hình gì? Hình khối có liên quan đến nét ? Hiện nay có rất
nhiều chất liệu mới cũng như giải pháp tạo nên sự phong phú và sự đa dạng và

hình thể.Ở rất nhiều bức tranh trong “ 36 cảnh núi Phú Sĩ” (H.10,11) của
Hokusai như bức 30 “Núi Phú Sĩ nhìn từ Yoshida ở Tokaido” và bức 35 “ Núi
Phú Sĩ nhìn từ hồ Kawaguchi ở tỉnh Kai” hai tác phẩm đều vẽ về núi Phú Sĩ bức
30 góc nhìn xa hơn vì thầy hình núi hiện lên rất là nhỏ, còn bức 35 nhìn vào bức
tranh ta có cảm giác nhìn đến núi Phú Sĩ tương đối gần , mỗi bức tranh đều có
rất nhiều hình khối của từng sự vật như cây cối, núi đồi, …gần hay xa những
hình khối ấy phải có đường nét cố định tạo được hình thù mà tác giả chủ định
muốn thẻ hiện
Các họa sĩ Nhật Bản đã sử dụng nét như các yếu tố biểu đạt chính cho
tranh khắc gỗ phong cảnh của họ. Sự sắp xếp các hình thể hay quan hệ giữa các
hình thể hay quan hệ giữa các hình thể đó tạo nên khoảng cách, các khoảng
cách đó gợi lên không gian trong tác phẩm.
Trong tự nhiên không tồn tại mối quan hệ hình tượng và bối cảnh, hình
và nền hay nét và hình khối. Khi thị giác con người chú ý đến sự vật, thường
thường tập chung vào một điểm, và coi mọi thứ xung quanh là bối cảnh và môi
trường. Chính vì vậy các họa sĩ lợi dụng ranh giới của thị giác đêm sự chú ý đó
làm rõ lên hình khối, do nét tạo thành. Để khống chế phạm vi hoạt động thị giác,
bối cảnh của hội họa, về cơ bản đều bị giới hạn qua đường nét. Các nhà tâm lý
học thị giác đã làm thí nghiệm đối với kết cấu hình khối và nét hình thành một
số quy luật . Các nhà nghệ thuật lại không thỏa thãn, qua tìm tòi và sáng tạo, đã
hình thành quy luật mới làm phong phú và mở rộng nội dung, lĩnh vực của nghệ
thuật thị giác .
Hình khối có tính nhô nổi, mật độ cao, có cảm giác đầy chặt, có hình dạng
rõ ràng, có đường nét bao quanh hoặc đường ranh giới. Còn phần nền có tính

23

23



lùi lại phía sau, mật độ thấp, không có cảm giác đầy chặt, hình dạng tương đối
rời rạc, vì không có đường nét và đường ranh giới cố định.
Tóm lại hình khối có tính ngưng tụ nhờ có sự cố định của đường nét, đem
lại cho người ta ấn tượng mạnh, đối với những tác phẩm hội họa có bối cảnh
đơn giản hình vẽ rõ ràng.
Khi mức độ ánh sáng của hình khối và nền gần như nhau thì đường nét
phải rõ ràng,
2.4.3. Nét và màu sắc.
Để nhận biết được vật thể xung quanh, cần phải có ánh sáng, tối đen một
mảng sẽ không nhìn thấy được cho nên:
Một là, vật thể trong bóng tối phải cố độ sáng mới có thể hiển hiện sự tồn
tại của mình;
Hai là, phải có độ sáng nhất định thì mói có thể hiển ra hình dạng vật
thể;
Ba là, ánh sáng tương đối sáng, thì mới nhìn rõ màu sắc và chi tiết cụ
thể;
Bốn là yếu tố quan trọng hơn cả khi độ sáng của vật thể và khung nền
chung quanh như nhau thì vật thể phải có đường nét giới hạn, sẽ có thể phân
biệt được với xung quanh.
Những hiện tượng trên đây là những cái thường thấy trong cuộc sống,
vì vậy, yêu cầu trước tiên của hội họa là phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản về
hình và nền phải có sự khác biệt về độ sáng, sự khác biệt càng lớn thì càng rõ,
nếu sự khác biệt không lớn thì phải dùng đường nét để đạt được sự khác biệt.
Trong tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản với những hòa sắc nhẹ nhàng
để phân biệt giữa các sự vật trong một tác phẩm, như trong tranh của
Hiroshige “ 53 chặng đường Tokaido” Trạm 25 “Nissaka” (H.12) màu trời và
đất gàn như tượng tụ nhau làm sao để phân biệt đươc? Cách tốt nhất sử dụng
yếu tố đường nét đậm lên người xem có thể dễ dàng hiểu nội dung hơn.

24


24


Tranh khắc gỗ phong cảnh Nhật Bản sử dụng đường nét tinh tế kết hợp
với, màu sắc hài hòa, bố cục rõ ràng có tác phẩm đã trở thành biểu tượng của
đất nước Nhật Bản.

Chương 3
Vai trò nét trong đồ họa nói chung và trong tranh khắc gỗ nói riêng.
3.1. Vai trò của nét trong đồ họa.
3.1.1. Đồ họa độc lập.
Ở thể loại nay bao gồm các loại tranh vẽ sử dụng ngôn ngữ đặc trưng là
nét hoặc kết hợp bảng trắng đên như bút chì, bút sắt, mực nho… Những tác
phẩm này chỉ khác nhau ở ngôn ngữ đặc trưng. Tất cả những đặc điểm một thể
loại như vẽ tay, độc bản thì lại giông hội họa. Ngoài ra còn tranh khắc, ở thể
loại này họa sĩ phải sử dụng bản thân khắc gỗ, kim loại, thạch cao…để in tranh.
Như vậy, tranh không được vẽ trực tiếp như hội họa, hay tranh đồ họa mang
tính độc bản, Muốn có tác phẩm các họa sĩ phải sáng tạo ra các bản khắc gỗ,
bản khắc kim loại…Từ những bản khắc đó có nhiều tác giả có thể in và nhân
thành nhiều bản, Khả nắng nhân bản là một trong những đặc trưng của loại
thể loại đồ họa độc.
Trong tranh khắc gỗ : Khắc gỗ là một thể loại có nguồn gốc tất xa xưa ở
châu Á cũng như châu Âu, ngày càng cùng với sự tiến bộ và phát triển của khoa
học, càng có nhiều tranh khắc ra đời, song tranh khắc gỗ vẫn là loại được yêu
thích và mang giá trị thẩm mĩ rất độc đáo… (H.13) Bức 25 Núi Phú Sĩ nhìn từ
Shimomeguro.
Trong tranh khắc kim loại : Đối với thể loại này lại cần kỹ thuật khác, có
rất nhiều cách để tạo bản khắc kim loại. Với mỗi kim loại khác nhau sẽ đưa ra
thẩm mĩ phù hợp với thể loại đó. Ví như đồng là kim loại quý và cứng hơn kẽm,


25

25


×