Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm, nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144 KB, 11 trang )

Quan điểm, nội dung vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay
TT HCM hình thành và phát triển gắn liền với quá trình lịch sử cách mạng
nước ta và cách mạng thế giới trong thế kỷ 20.
Qua các giai đoạn cách mạng, TT HCM được Đảng ta nhận thức ngày càng
toàn diện và sâu sắc. Đảng ta khẳng định: “TT HCM là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lenin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi.” cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, TT HCM là nền
tảng TT và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, mặc dù tình hình trong nước và
thế giới có những thay đổi nhanh chóng và sâu sắc, nhưng tính đúng đắn, sức
sống, sự sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam và xu thế
thời đại của TT HCM vẫn còn nguyên giá trị.
1. Bối cảnh lịch sử mới
Tình hình thế giới ngày nay đã và đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc về
nhiều mặt. Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế trở thành tất yếu của xu thế hợp tác, liên kết giữa các
ngành, các quốc gia và các khu vực trên thế giới với nhiều cấp độ; Hòa bình,
phát triển, dân chủ hóa các quan hệ quốc tế trở thành xu thế của thời đại. Cục
diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn cùng với những mâu thuẫn mới nảy sinh,
làm cho căng thẳng trong quan hệ quốc tế, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai,
chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp lật đổ, khủng bố, diễn ra phức
tạp. Kinh tế thế giới dường như có sự phục hội sau đại suy thoái, khủng hoảng
tài chính (2009-2013). / Đất nước ta cũng đang đứng trước những thuận lợi và
khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen nhau. Những thành tựu, kinh nghiệm



hơn nửa thế kỷ đổi mới (1986 – 2013) đã tạo ra thế và lực, sức mạnh tổng hợp
lớn hơn nhiều so với trước. Đồng thời, các khó khăn, thách thức không giảm
mà ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt tình trạng suy thoái về chính trị, TT, đạo
đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân
dân với Đảng và Nhà nước. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của
chủ nghia xã hội, tự diễn biến, tự chuyển hóa có những diễn biến phức tạp.
Trước bối cảnh mới đòi hỏi chúng ta vận dụng, phát triển sáng tạo TT HCM
trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
2. Quan điểm, phương hướng chỉ đạo vận dụng, phát triển TT HCM/Quan điểm vận dụng
Một là: Lý luận gắn với thực tiễn. /HCM thường nhắc nhở: ‘‘Phải nâng cao sự
tu dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết kinh nghiệm của Đảng ta, phân
tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới
dần dần hiểu được qui luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được
những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa
thích hợp với tình hình nước ta’’. Rõ ràng, theo HCM cần phải gắn lý luận với
thực tế thông qua việc thực tế hóa lý luận và lý luận hóa thực tế, chỉ có như vậy
mới vận dụng sáng tạo và phát triển thành công, không chỉ TT HCM mà cả Chủ
nghĩa Mác – Lênin cho phù hợp điều kiện mới, yêu cầu mới hiện nay.
Hai là: Quan điểm lịch sử và cụ thể.
TT HCM là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, chịu sự ước định của
điều kiện lịch sử đó. Nghiên cứu để nhận thức hay vận dụng một quan điểm
hoặc một câu nói nào đó của Người cần thiết phải đặt nó trong bối cảnh cụ thể:
Nói với ai, nhằm mục đích gì, do đâu hay vì sao mà nói, viết như thế để không
dẫn đến những suy diễn hay qui kết nhầm lẫn, sai lệch với TT của Người. Cần
chú ý rằng HCM không chỉ là một chiến lược gia vĩ đại mà còn là một nhà chỉ
đạo chiến lược, một nhà sách lược tài giỏi. Tùy đối tượng, hoàn cảnh cụ thể mà
Người có cách xử lý linh hoạt, sáng tạo riêng.



Ba là: q điểm toàn diện và hệ thống.
TT HCM là một hệ thống đề cập toàn diện đến các vấn đề của con người và xã
hội Việt Nam. Bản thân Người khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, xã hội
hay con người luôn nhìn qua các mối quan hệ nhiều chiều để thấy toàn diện của
vấn đề, đồng thời cũng nhìn toàn diện các vấn đề như: Kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội; quá khứ hiện tại, tương lai; truyền thống và hiện đại; dân tộc và quốc tế; cá
nhân, tập thể, cộng đồng; thời, thế, lực; thiên thời, địa lợi, nhân hòa; nhận thức,
TT, phương pháp, phong cách; tình cảm, đạo đức, nhân cách, lối sống; lý luận và
thực tiễn, nói và làm, quyền lợi và nghĩa vụ,.v.v. Người thường nhắc cán bộ, đảng
viên trong công tác, công việc phải có cái nhìn toàn cục, tránh chủ quan phiến
diện, cục bộ. Vận dụng, phát triển TT HCM trước hết là vận dụng, phát triển cách
nhìn toàn diện về mình, về người, về vật, về việc của Người. Mặt khác là hoàn
thiện nội dung toàn diện của hệ thống các chữ dân trong ‘‘ham muốn tột bực’’
của Người.
Bốn là: Q điểm kế thừa và phát triển.
TT HCM là sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa TT của dân tộc và nhân
loại. Bản chất TT HCM là khoa học, cách mạng và sáng tạo nên luôn luôn mới
với tư cách là nguyên lý và những nguyên tắc phương pháp luận trong suy
nghĩ, giải quyết vấn đề. Nhưng cũng có nhiều vấn đề, sinh thời HCM chưa có
điều kiện đề cập đến. Vì vậy, chúng ta phải biết kế thừa để phát triển, vừa kế
thừa vừa phát triển và phát triển trung thành với TT HCM. Trung thành ở đây
không phải là khư khư giữ nguyên các câu chữ cũ mà là trung thành với mục
tiêu lý tưởng, với lôgic phát triển tư duy của HCM, để sáng tạo ra những luận
điểm mới, nội dung mới, cách làm mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới.
Nghĩa là tìm ra những vấn đề có tính qui luật và qui luật của cách mạng Việt
Nam thời kỳ hậu HCM.
Quán triệt những quan điểm trên, bằng phương pháp biện chứng duy vật và
lịch sử, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phát
triển bền vững, ổn định làm cái bất biến và sử dụng linh hoạt các hình thức,



cách làm, giải pháp trong sự vạn biến sôi động của cuộc sống, chắc chắn sẽ
thành công.
3. Nội dung vận dụng, phát triển sáng tạo TT HCM trong bối cảnh hiện nay
* Kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./Độc lập dân tộc là điều
kiên tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vì rằng, thế giới đã và đang thay đổi nhiều, song cuộc đấu tranh cho độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn diễn ra gay gắt. Sau sự đổ vỡ của hệ thống xã
hội chủ nghĩa, các xu hướng dân tộc vị kỷ, cực đoan trỗi dậy mạnh mẽ dẫn đến
các cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc đẫm máu... Bên cạnh đó các cường quốc
công nghệ đang thực hiện âm mưu biến các nước chậm phát triển thành bãi thải
công nghệ, hòng kìm hãm các nước này trong vòng lc hậu dễ bề thao túng, bóc
lột. Ở ta các thế lực phản động trong và ngoài nước cấu kết với nhau kích động
hận thù và theo đuổi mưu toan xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Vấn đề độc lập dân
tộc, bảo vệ chủ quyền đất nước, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, giữ gìn từng tấc
núi, tấc sông… luôn luôn đặt ra như một ý thức thường trực không được một
phút lơ là. Nền độc lập dân tộc chỉ được bảo vệ vững chắc khi và chỉ khi nước
ta giàu, mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó cũng là mục tiêu phản ánh
đầy đủ quan niệm của HCM và Đảng ta về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Tiếp tục nâng cao nhận thức về giá trị bất hủ của chân lý ‘‘Không có gì quí hơn độc
lập, tự do’’. /Muốn vậy, phải đẩy mạnh giáo dục và phát huy chủ nghĩa yêu
nước, khơi dậy ý thức tự lực tự cường của dân tộc, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua
thử thách, khó khăn tạo động lực phát triển nhanh, mạnh nhưng phải bền vững,
ổn định. Trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
huy chủ nghĩa yêu nước tất nhiên phức tạp, khó khăn hơn so với thời kỳ khi Tổ
quốc bị xâm lăng. Nhất là khi ta hội nhập thế giới, nếu không có lòng yêu nước
và tinh thần dân tộc độc lập thì cũng dễ đánh mất chủ quyền quốc gia và bản

sắc văn hóa dân tộc, sẽ rơi vào nguy cơ ‘‘tái thuộc địa hóa’’ở dạng mới. Chân
lý ‘‘không có gì quí hơn độc lập, tự do” phải được thể hiện thành chủ nghĩa


yêu nước Việt Nam hiện đại gắn liền lý tưởng độc lập dân tộc với lý tưởng xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chân lý không có gì quí hơn độc lập, tự do không
phải thuần túy nói về độc lập dân tộc mà tự do là một vấn đề rất lớn. Chủ nghĩa
tư bản chưa giải quyết được tự do cho mỗi con người và các dân tộc. Vì vậy,
thực hiện Di chúc của HCM ‘‘xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới” là độc lập, tự do của Việt Nam và cũng là chủ nghĩa xã hội
của Việt Nam.
* Xây dựng và phát huy động lực cách mạng trong đổi mới
Xác định đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, mọi chủ trương chính sách phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, cái gì lợi
cho dân phải hết sức làm cái gì hại đến dân phải hết sức tránh.
Giải quyết tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân (tam nông) để ổn định xã
hội, đồng thời cũng là để xây dựng cơ sở của khối đoàn kết dân tộc, của liên minh
công nông trí, nhằm khắc phục và hạn chế khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách
giữa nông thôn và thành thị. Vì đến 70% dân số nước ta hiện nay là nông dân,
sống ở nông thôn, dựa chủ yếu vào nông nghiệp.
Mở rộng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc làm cho chiến lược đại đoàn kết
HCM đạt thắng lợi mới rực rỡ hơn. Tìm những hình thức mới, biện pháp sinh
động, hiệu quả nhằm phát huy động lực con người, động lực đoàn kết dân tộc
và chủ nghĩa yêu nước; giải quyết tốt: Dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí
trong xã hội, sớm đưa đất nước sánh vai các cường quốc năm châu. Mở rộng
quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và bản sắc dân tộc.
* Củng cố hệ thống chính trị vững chắc
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Đảng phải thực sự là đạo đức văn

minh, vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân, tôn trọng
quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện đúng cơ chế dân chủ: Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra trong xây dựng Đảng cũng như trong phát triển đất


nước. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội để dân chủ thực
sự là “Chìa khóa vạn năng, có thể giải quyết mọi khó khăn”.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện quyền lực nhà nước là
thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Xây dựng và củng cố vững chắc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy vai trò
của Mặt trận trong việc tăng cường sức mạnh khối đoàn kết toàn dân tộc, để
Mặt trận thực sự là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân và hoàn thành có hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội.
* Học tập và làm theo TT, tấm gương HCM
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM: Phát huy tính độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong phát triển kinh tế cũng như khi tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài; tránh vay mượn, sao chép, rơi vào chủ nghĩa giáo điều; nâng cao trình
độ tổng kết thực tiễn (đất nước, thời đại), rút ra những vấn đề lý luận mới, tìm
ra qui luật và những vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam, từ đó
vạch được chiến lược phát triển toàn diện, hệ thống, lâu dài cho đất nước, đồng
thời tích cực phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra.
Chỉ đạo thực hiện cuộc vận động học tập, làm theo TT HCM thành phong trào
cách mạng thiết thực, đúng nghĩa là nền tảng TT và kim chỉ nam hành động.
Học và vận dụng sáng tạo phương pháp cách mạng “dĩ bất biến ứng vạn biến”
trong xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ quốc tế đang biến động khôn
lường, có sự chuyển hóa giữa bạn và thù, giữa đối tượng và đối tác như hiên
nay. Mọi người Việt Nam học và làm theo tấm gương đạo đức HCM là nghĩa
vụ và trách nhiệm lâu dài. Cán bộ, đảng viên phải rèn luyện thành người tận

trung với nước, tận hiếu với dân theo gương Chủ tịch HCM. Học và làm theo
Bác không phải là bắt chước các hành vi đạo đức mà học và làm theo cái ở đời
và làm người, ở việc sống toàn vẹn và trọn vẹn với dân với nước.


Phần II. Sự phát triển TT HCM trong giai đoạn hiện nay.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch HCM thường xuyên
quan tâm đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng mãi mãi là
một Đảng đạo đức và văn minh.Với Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là
nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính thường xuyên của Đảng cầm
quyền.
1. TT HCM về đảng cộng sản cầm quyền
Đảng cộng sản lãnh đạo cách mạng phải giành chính quyền, trở thành đảng
cầm quyền. Vấn đề cơ bản của các cuộc cách mạng là vấn đề nhà nước, trong
cách mạng vô sản, đảng cộng sản xác định nhiệm vụ trước hết là lãnh đạo quần
chúng lật đổ chính quyền của giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền, đưa
đảng cộng sản trở thành đảng cầm quyền.
HCM thường dùng các mệnh đề Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính
quyền… nhưng nội hàm của các mệnh đề đó là đảng cầm quyền. Trong Di
chúc lịch sử Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
TT Hồ Chi Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch,vững mạnh
chiếm một vị trí quan trọng trong toàn bộ di sản TT của Người và bao gồm
những quan điểm cụ thể như sau:
Một là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng TT và kim chỉ nam cho hành
động
Hai là, tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng: Gồm 4 nguyên tắc là
Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;

Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Nguyên tắc đoàn kết nhất trí trong Đảng
Ba là, về tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ
Bốn là, giữ vững và tăng cường mối quan hệ gắn bó Đảng với nhân dân


2. Vận dụng, phát triển TT HCM trong công tác xây dựng đảng hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần vận dụng, phát triển TT HCM vào công
tác xây dựng Đảng. Cụ thể là:
* Yêu cầu khách quan phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong
thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong sự nghiệp đổi mới là vấn đề được
Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI tới
nay. Quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt được Đảng khẳng định rõ là phát triển
kinh tế là trọng tâm. Xây dựng Đảng là then chốt. Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tưởng HCM là nền tảng TT lý luận, kim chỉ nam cho hành động. Độc
lập dân tộc, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng mà Đảng và cả
dân tộc lựa chọn, vì vậy, “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả
dân tộc; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc”.
Vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng là thành quả cách mạng mà nhiều
thế hệ cán bộ đảng viên và quần chúng hy sinh phấn đấu, được quần chúng và
cả dân tộc tin tưởng ủy thác. Đảng không bao giờ hy sinh thành quả cách
mạng, đi ngược lại niềm tin và sự ủy thác của nhân dân và dân tộc. Vì vậy,
Đảng ta khẳng định dứt khoát: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng”.
Đảng cầm quyền lãnh đạo cả hệ thống chính trị mà Đảng là một thành viên.
Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân làm chủ, vì vậy quyền lực của Đảng là quyền
lực chính trị; Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích
cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các
đoàn thể quần chúng. “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để

Mặt trận và các đoàn thể hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và
phản biện xã hội”.


Nhân dân ta, dân tộc ta yêu mến Đảng ,quyết tâm bảo vệ Đảng đồng thời tin
tưởng vào quan điểm, đường lối đổi mới định hướng XHCN của Đảng, nhưng
cũng đòi hỏi những vấn đề về lý luận phải được giải đáp một cách khoa học. Cách
mạng Việt Nam đang có nhiều thời cơ lớn, nhưng cũng đang đứng trước những
nguy cơ, thách thức không nhỏ đòi hỏi phải phấn đấu, kiên trì đấu tranh để vượt
qua. Đảng và Nhà nước chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế trong xu hướng toàn
cầu hóa khi chủ nghĩa tư bản còn phát huy lợi thế về khoa học -kỹ thuật, công
nghệ và tiềm lực kinh tế, giải quyết có hiệu quả một số vấn đề về an sinh xã hội
trong khi mô hình CNXH hiện thực bộc lộ những yếu kém, bất cập, nhiều đảng
cộng sản mất vị thế đảng cầm quyền, phong trào cộng sản đang trong giai đoạn
khủng hoảng đòi hỏi cán bộ đảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Vì
vậy vấn đề xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH, đưa sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN là đòi
hỏi khách quan, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
* Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng cầm quyền trong
thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã khẳng định: “Phải
xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh
đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ của đảng
cầm quyền trong thời kỳ mới là vấn đề cực kỳ quan trọng, nhưng cũng gian khổ
đòi hỏi toàn Đảng, mọi cán bộ đảng viên phải phấn đấu bởi chúng ta có nhiều
thành tựu nhưng cũng đứng trước những khó khăn thách thức không nhỏ. Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu
kém trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số
vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội ở nước ta. Tình trạng suy thoái về chính trị TT, đạo đức lối sống trong đội ngũ
không nhỏ cán bộ đảng viên; tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu chưa bị đẩy lùi và
diễn biến phức tạp; công tác cán bộ còn chậm đổi mới...


Để công tác xây dựng Đảng thật sự chuyển biến, có trọng tâm nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định tám nhiệm vụ quan trọng. Đó
là:
- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị.
- Nâng cao chất lượng công tác TT lý luận.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
- Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.
- Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XI) đã thảo luận và ra nghị quyết Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Hội nghị nhận định, thành tựu 25
đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp
to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhưng “công tác xây dựng Đảng vẫn còn
không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua
nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của
Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Hội nghị nhấn mạnh, những tồn tại, khuyết
điểm, yếu kém đó là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thoái về TT chính trị, đạo đức lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai
nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh
lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên

tắc…”. Công tác qui hoạch cán bộ, kể cả cán bộ trung ương cấp chiến lược còn
hụt hẫng, chắp vá, thiếu chủ động, không đồng bộ. Một số nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách bị vi phạm.


Tồn tại tình hình trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là những
nguyên nhân chủ quan như sự tu dưỡng rèn luyện của đảng viên còn thiếu; việc
tổ chức thực hiện nghị quyết, chính sách của Đảng yếu; công tác kiểm tra, kỷ
luật Đảng chưa nghiêm.
Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị khẳng
định phải làm tốt ba vấn đề cấp bách:
“Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về TT
chính trị, đạo đức lối sống của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trước hết là cán bộ quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của quần chúng nhân dân đối
với Đảng.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách
nhất”.
Với truyền thống cách mạng kiên cường, được TT HCM soi sáng, Đảng Cộng
sản Việt Nam nhất định sẽ thành công trong việc khắc phục những khuyết
điểm, yếu kém, xây dựng Đảng thật sự đạo đức, văn minh, đưa sự nghiệp đổi
mới tới thành công.




×