Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 104 trang )

Bài giảng Kinh tế vĩ mô

CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
I. Khái niệm và đặc trƣng của kinh tế học
1. Khái niệm về kinh tế học
1.1. Khái niệm
* Lịch sử hình thành:
Khoa học kinh tế hình thành từ cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm mở đường
“Bàn về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” của Adam Smith xuất
bản năm 1776 đánh dấu sự hình thành khoa học kinh tế.
Năm 1936, John Maynard Keynes - nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra
lý thuyết chống lại lý thuyết của Adam Smith. Đây cũng là năm đánh dấu sự
hình thành kinh tế học vĩ mô. Keynes đã đưa ra 2 quy luật: trật tự của tự nhiên
và trật tự kinh tế - xã hội. Theo ông, hai trật tự kinh tế này hoàn toàn tồn tại
khách quan. Khác với quan điểm bàn tay vô hình của Adam Smith, Keynes đưa
ra quan điểm bàn tay hữu hình. Theo ông sự vận động của nền kinh tế cần có sự
can thiệp của Nhà nước, của Chính phủ.
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái
mà chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hoà bình.
Chúng ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn
sống lâu, sống khoẻ. Chúng ta muốn sống trong một căn hộ rộng rãi và đầy đủ
tiện nghi. Chúng ta muốn có thật nhiều thời gian để thưởng thức âm nhạc, chơi
thể thao, đi du lịch, giao lưu với bạn bè,…
Nhưng mỗi thứ mà chúng ta nhận được lại bị hạn chế bởi thời gian và thu
nhập hiện có. Kết quả là mọi người luôn có những mong muốn không được thoả
mãn. Việc chúng ta thất bại trong việc thoả mãn mọi mong muốn được gọi là
khan hiếm. Cả người giàu và người nghèo đều đối mặt với khan hiếm. Một nhà
triệu phú muốn chơi golf vào cuối tuần và ông ta cũng muốn tham dự buổi hội
thảo kinh doanh cũng vào cuối tuần. Nhà triệu phú cũng đối mặt với sự khan
hiếm. Một xã hội muốn xây dựng nhiều đường giao thông, cung cấp dịch vụ y tế


tốt hơn, làm sạch các dòng sông bị ô nhiễm,…Xã hội cũng đối mặt với sự khan
hiếm. Đứng trước sự khan hiếm, chúng ta phải lựa chọn. Chúng ta phải lựa chọn
giữa các phương án sẵn có. Em bé trong ví dụ trên phải lựa chọn hoặc ăn kem,
hoặc ăn kẹo cao su. Nhà triệu phú phải lựa chọn hoặc chơi golf, hoặc tham dự
1


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

hội thảo. Với tư cách là xã hội, chúng ta phải lựa chọn giữa đầu tư vào cơ sở hạ
tầng với chăm sóc sức khoẻ, quốc phòng, môi trường,…
Kinh tế học ra đời xuất phát từ sự khan hiếm.
* Khái niệm: Có thể nói kinh tế học từ khi ra đời cho đến nay đã trải qua nhiều phát
triển và cũng đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa. Theo Paul A. Samuelson và William
D. Nordhaus: “Kinh tế học là khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào
nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối
cho các thành viên của xã hội”.
Từ khái niệm trên, chúng ta cần chú ý:
+ Kinh tế học là một môn khoa học nên trước hết đòi hỏi phải đảm bảo tính
khách quan. Tuy nhiên, cũng như các môn khoa học xã hội khác, kinh tế học
không phải là môn khoa học chính xác nên nó không thể tách rời hoàn toàn quan
điểm chủ quan trong nội dung nghiên cứu.
+ Nội dung cơ bản của kinh tế học là nghiên cứu cách thức sử dụng nguồn
tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra một số loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết đáp
ứng nhu cầu của nền kinh tế.
+ Mục tiêu cuối cùng của khoa học kinh tế là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của nền kinh tế. Muốn thoả mãn được nhu cầu đòi hỏi sản xuất phải được
tăng trưởng. Do đó, nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là một nội dung quan trọng của
kinh tế học. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn lại nảy sinh vấn
đề cân bằng và mất cân bằng, tạo nên sự dao động ngắn hạn của nền kinh tế. Sự dao

động này làm cho nền kinh tế kém hiệu quả và tăng trưởng chậm. Muốn có hiệu
quả cao và tăng trưởng nhanh đòi hỏi phải hạn chế mức độ dao động đó. Song nền
kinh tế ổn định, hiệu quả cao và tăng trưởng nhanh chưa chắc đảm bảo thoả mãn tốt
nhất nhu cầu của dân chúng, khi mà sự phân phối những thành quả đó còn bất hợp lý.
Chính vì vậy, kinh tế học phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập nhằm tạo ra sự
công bằng trong việc hưởng thụ những sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra.
Kinh tế học thường được chia thành hai phân ngành lớn là kinh tế học vi
mô và kinh tế học vĩ mô.
1.2. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
- Kinh tế học vi mô (Microeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế ở
giác độ chi tiết, bộ phận riêng lẽ, nghiên cứu hành vi ứng xử của người tiêu dùng
và người sản xuất nhằm lý giải sự hình thành và vận động của giá cả từng sản
phẩm trong từng loại thị trường khác nhau.
2


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

+ Quan tâm đến người bán và người mua.
+ Quan tâm đến thị trường hàng hoá cá biệt.
- Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế
một cách tổng thể, thông qua các biến số: tổng sản phẩm quốc gia (GNP), tỷ lệ
lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, lượng cung tiền trong nền kinh tế, cán cân thanh toán,
tỷ giá hối đoái,…Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
+ Quan tâm đến vấn đề chung của nền kinh tế (sản lượng).
+ Quan tâm đến vấn đề tổng thể, không đi sâu vào hành vi của người bán,
người mua, không đi sâu vào cung cầu cụ thể.
Nếu kinh tế học vi mô quan tâm đến lượng cung, lượng cầu thì kinh tế học
vĩ mô quan tâm đến tổng cung, tổng cầu.

Cả kinh tế hcọ vi mô và kinh tế học vĩ mô đều quan tâm đến:
- Sản lượng: Vi mô: Ký hiệu sản lượng là Q: đo lường bằng hiện vật hay giá trị.
Vĩ mô: Ký hiệu sản lượng là Y: chỉ định bằng giá trị → Vì sao??
Do sản lượng trong nền kinh tế vô cùng phong phú và đa dạng, khác nhau quá xa
về hình thức nên chỉ tính bằng giá trị ( Không thể cộng xe máy với trâu, bò,…)
- Giá: Cả vi mô và vĩ mô đều ký hiệu giá là P.
Nhưng trong vi mô: đơn giá (bao nhiêu đồng/1 sản phẩm)
Vĩ mô: mức giá chung.
Tên giống, ký hiệu giống nhưng bản chất khác nhau.
So sánh kinh tế vi mô và vĩ mô:
Vĩ mô

Vi mô
1. Chủ thể

Doanh nghiệp, người tiêu Chính
dung

2. Đối tượng

phủ

hay

chính

quyền ở các địa phương

Thị trường hàng hoá cá Thị trường của quốc gia,
biệt (cung, cầu 1 sản địa phương (tổng cung,

phẩm)

3. Chỉ tiêu đánh giá kết quả

tổng cầu)

- Lợi nhuận (DN, người - Tỷ lệ lạm phát
bán)

- Tỷ lệ thất nghiệp

- Độ thoả dụng (lợi ích)
Cách tiếp cận cơ bản trong kinh tế học vĩ mô là xem xét những xu hướng
chung của nền kinh tế chứ không phải là các vấn đề liên quan đến từng đơn vị

3


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

kinh tế đơn lẽ hay từng đơn vị hành chính. Các câu hỏi lớn của đời sống kinh tế
được kinh tế vĩ mô tìm cách giải đáp như: Điều gì làm cho một nước giàu hơn hay
nghèo đi theo thời gian? Các công dân của một nước sẽ tiết kiệm bao nhiêu cho
tương lai? Tại sao mức giá ở một số nước có xu hướng tăng nhanh trong khi ở các
nước khác giá cả lại ổn định hoặc tăng chậm?,…
Một nội dung lớn trong kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu các chính sách của
Chính phủ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động chung của nền kinh tế. Đa số
các nhà kinh tế vĩ mô cho rằng những thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô
có ảnh hưởng rộng khắp và có thể dự tính được chiều hướng chung trong mức sản
xuất, việc làm, mức giá chung và thương mại quốc tế. Nhiều nhà kinh tế cho rằng

chính phủ cần chủ động sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để cải thiện thành
tựu kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng mối liên kết
giữa các chính sách này với nền kinh tế là không ổn định và không dự tính được
nên không thể sử dụng để quản lý nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Vì những thay đổi trong toàn bộ nền kinh tế phát sinh từ các quyết định của
hàng triệu cá nhân, nên chúng ta không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ
mô nếu không tính đến các quyết định kinh tế vi mô. Chẳng hạn, một nhà kinh tế
vĩ mô có thể nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế thu nhập đối với
mức sản xuất hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Để phân tích vấn đề này, nhà
kinh tế vĩ mô phải xem xét ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế đối với quyết
định chi mua hàng hoá và dịch vụ của các hộ gia đình.
Mặc dù có mối liên kết chặt chẽ giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi
mô, hai lĩnh vực nghiên cứu này vẫn có sự khác biệt. Kinh tế học vi mô và kinh tế
học vĩ mô xử lý các vấn đề khác nhau, đôi khi họ sử dụng những phương pháp
tiếp cận hoàn toàn khác nhau.
Tuỳ theo cách sử dụng mà kinh tế học được chia thành hai dạng: kinh tế
học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
- Kinh tế học thực chứng (Positive economics): Mô tả và giải thích các hiện
tượng kinh tế một cách khách quan và khoa học.
Mục tiêu của kinh tế học thực chứng là giải thích xã hội quyết định như thế
nào về sản xuất, tiêu thụ và trao đổi hàng hoá. Sự khảo sát này nhằm hai mục đích:
+ Giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế.
4


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

+ Dự đoán những phản ứng của nền kinh tế và dự đoán sự phát triển của

nền kinh tế trong tương lai.
Nó trả lời cho các câu hỏi dưới dạng: “là gì”, “là bao nhiêu”, “tại sao”,
“như thế nào”,…
- Kinh tế học chuẩn tắc (Normative economics): Đưa ra những chỉ dẫn,
những quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế
của từng cá nhân hay từng nhóm cá nhân (không có tính khoa học).
Nó giải đáp các câu hỏi dưới dạng: “tốt hay xấu”, “nên hay không nên”,
“phải làm gì”,…
Trong thực tế, thực chứng và chuẩn tắc luôn đi kèm với nhau.
Ví dụ: Người già phải chi nhiều cho bệnh tật → thực chứng (thực tế như vậy).
Chính phủ nên trợ cấp đơn thuốc cho người già → chuẩn tắc (có thể trợ cấp
hoặc không: nên)
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vào những năm 1985 - 1988 là rất nghiêm trọng
→ chuẩn tắc (có thể có đối tượng cho là nghiêm trọng, có đối tượng cho là không
nghiêm trọng).
2. Những đặc trƣng của kinh tế học
2.1. Tiền đề nghiên cứu và phát triển của kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối so
với nhu cầu của nền kinh tế, xã hội.
Nếu có thể sản xuất với một số lượng vô hạn về mọi loại hàng hoá và thoả
mãn đầy đủ được mọi nhu cầu của con người thì sẽ không có hàng hoá kinh tế và
cũng không cần thiết phải tiết kiệm hay nghiên cứu kinh tế học.
Kinh tế học ra đời bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa một bên là nguồn tài
nguyên có hạn với một bên là nhu cầu có khuynh hướng tăng vô hạn và tăng
nhanh hơn sản xuất của con người.
2.2. Tính hợp lý của kinh tế học
Đặc trưng này thể hiện ở chỗ khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế
nào đó, cần phải dựa trên những giả thiết nhất định (hợp lý) phù hợp với các mối
quan hệ kinh tế mà ta đang quan tâm.
Ví dụ: Khi muốn phân tích xem người tiêu dùng muốn mua thứ gì, với số lượng

bao nhiêu, kinh tế học đưa ra giả định là họ tìm cách mua được nhiều hàng hoá và dịch
vụ nhất, với số thu nhập có hạn của mình. Hay để giải thích xem doanh nghiệp sản xuất

5


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

cái gì, bao nhiêu và bằng cách nào, kinh tế học giả định là họ tìm cách tối đa hoá thu
nhập của mình với những ràng buộc nhất định về các yếu tố sản xuất.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tính chất hợp lý của những giả thiết này chỉ có
ý nghĩa tương đối.
2.3. Kinh tế học là bộ môn nghiên cứu mặt lượng
Việc thể hiện các kết quả nghiên cứu kinh tế bằng những con số có tầm
quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ
nhận định nó tăng lên hay giảm xuống là chưa đủ, mà còn phải xác định xem sự
thay đổi đó là bao nhiêu.
2.4. Tính toàn diện và tính tổng hợp của kinh tế học
Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ
với các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí
trên phương diện nền kinh tế thế giới.
Ví dụ: Để chống lạm phát, Ngân hàng Trung ương của một nước nào đó
quyết định giảm mức cung về tiền. Kết quả là tổng cầu giảm và cả giá cả, sản
lượng và việc làm đều giảm. Mặt khác, đồng tiền nước này lại tăng giá, hàng xuất
khẩu của họ trở nên đắt tương đối và hàng nhập khẩu của họ lại giảm tương đối.
Do đó, xuất khẩu ròng giảm, dẫn đến sản lượng và việc làm của nước này tiếp tục
giảm, còn các nước có quan hệ buôn bán với nước này lại tăng được xuất khẩu,
nên khuyến khích sản lượng và việc làm của nước họ,…
2.5. Các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác định được ở mức độ trung bình
Vì những kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau và

không thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.
3. Phƣơng pháp luận nghiên cứu của kinh tế học
Tính khoa học của một môn học được quyết định bởi cách tiếp cận vấn đề
chứ không phải bởi công cụ sử dụng, nghĩa là phải phát triển và kiểm định các lý
thuyết về phương thức vận hành của thế giới một cách khách quan và vô tư. Các
nhà kinh tế tìm cách nghiên cứu đối tượng của mình với tính khách quan của một
nhà khoa học, họ đưa ra các giả thiết thích hợp và thiết lập các mô hình để giải
thích sự vận hành của thế giới kinh tế xung quanh chúng ta.
Khác với khoa học tự nhiên, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, người
ta thường áp dụng phương pháp quan sát. Sỡ dĩ như vậy là do các hiện tượng kinh
tế hết sức phức tạp, thường xuyên biến động và chịu nhiều yếu tố tác động.

6


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Do đó, trong quá trình nghiên cứu cần phải thu thập các số liệu, tiến hành
phân tích bằng các phương pháp phân tích thích hợp.
Một phương pháp vô cùng quan trọng trong kinh tế là phương pháp trừu
tượng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định lại) để xem xét
các mối quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Khi phân tích trừu tượng như
vậy, việc sử dụng các phương pháp thống kê có ý nghĩa rất lớn.
Cuối cùng cần rút ra những kết luận, đối chiếu với thực tế, phát hiện những
điểm bất hợp lý, đề ra những giả thiết mới rồi kiểm nghiệm lại bằng thực tế để rút
ra những kết luận sát thực hơn với đời sống kinh tế.

II. Một số khái niệm cơ bản của kinh tế học
1. Các yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất và chi phí cơ hội
1.1. Các yếu tố sản xuất (Đầu vào - Inputs)

Các yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá trình sản xuất, bao gồm:
+ Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất do thiên
nhiên mang lại như: đất đai, sông ngòi, khoáng sản,…
+ Tích luỹ tư bản
Tư bản là những hàng hoá sản xuất ra để sử dụng sản xuất ra các hàng hoá
khác, bao gồm: nhà xưởng, đường xá, máy móc,…
Việc tích luỹ tư bản có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất.
+ Nguồn nhân lực
Nhiều nhà kinh tế cho rằng chất lượng đầu vào lao động - kỹ năng, kiến
thức và kỷ luật của lực lượng lao động - là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng
kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác của sản xuất như tư bản hiện vật, nguyên vật liệu,
công nghệ đều có thể mua hoặc thuê được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có
thể nhập khẩu các thiết bị viễn thông, máy tính, máy phát điện, các loại máy móc
hiện đại nhất. Nhưng những hàng tư bản này chỉ có thể được sử dụng một cách có
hiệu quả nhất nếu như con người có kỹ năng và được đào tạo, có trình độ văn hoá,
kỷ luật lao động cao làm cho năng suất lao động tăng.
+ Khoa học công nghệ

7


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Nhận xét: Trong 4 yếu tố này, hãy sắp xếp thứ tự ưu tiên lựa chọn quan
trọng nhất?? → Khó xác định, tuỳ ý kiến, quan điểm của từng cá nhân, doanh
nghiệp, từng quốc gia → Games: Bịt mắt, xé giấy.
1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF: Production Possibility Frontier)
Đường giới hạn khả năng sản xuất PPF là tập hợp các mức phối hợp tối đa
khối lượng các loại sản phẩm mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ

các nguồn lực của nền kinh tế. (Còn gọi là đường cong năng lực sản xuất)
- Điều kiện:
+ 100% các yếu tố đầu vào được sử dụng.
+ Phạm vi áp dụng: cho một doanh nghiệp hay cho một quốc gia.
Ví dụ: Giả sử chỉ có hai loại mặt hàng được sản xuất là lương thực và quần áo.
Bảng 1 thể hiện một số khả năng lựa chọn các tổ hợp hai loại hàng hoá trên
khi sử dụng hết các yếu tố sản xuất với công nghệ hiện có.
Bảng 1: Những khả năng sản xuất thay thế nhau
Khả năng sản xuất Lƣơng thực (tấn)
Quần áo (1000 bộ)
A
0
7,5
B
1
7,0
C
2
6,0
D
3
4,5
E
4
2,5
F
5
0
Bảng trên cho thấy nếu nền kinh tế chỉ sản xuất quần áo thì lượng quần áo
thu được là 7,5 nghìn bộ. Nếu sản xuất 7 nghìn bộ quần áo thì phần năng lực còn

lại sẽ sản xuất được 1 tấn lương thực. Tương tự, nếu giảm sản xuất quần áo thì sẽ
có khả năng tăng lương thực lên. Lượng quần áo giảm đến 0 thì lương thực đạt
được là 5 tấn. Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại
ta được đường PPF (Hình 1.1).
QA (1000 bộ)
A
7,5
7,0
6,0

N
M

4,5
2,5

F
0 1 2

3 4 5

LT (tấn)

Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF)
8


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Dọc theo đường cong từ A đến F, xã hội ngày càng có ít quần áo nhưng

nhiều lương thực hơn. Việc chuyển quần áo thành lương thực được thực hiện qua
việc chuyển tài nguyên sang sản xuất lương thực.
Trên thực tế, do tồn tại quy luật “năng suất cận biên giảm dần” nên đường
PPF có dạng cong.
Các điểm nằm trên đường PPF là những điểm hiệu quả, tận dụng hết khả
năng sản xuất của nền kinh tế.
Các điểm nằm phía trong đường PPF (ví dụ: điểm M) là những điểm không
hiệu quả, còn lãng phí nguồn tài nguyên.
Các điểm nằm phía ngoài đường PPF (ví dụ: điểm N) là những điểm mà
nền kinh tế hay doanh nghiệp không thể đạt được vì đòi hỏi đầu tư vượt quá
nguồn lực hiện có.
Khi nằm trên đường PPF, muốn tăng loại sản phẩm này lên đòi hỏi phải
giảm bớt loại sản phẩm khác. Theo thời gian, các nguồn lực sản xuất của mỗi
quốc gia có khuynh hướng gia tăng. Do đó, đường PPF sẽ dịch chuyển ra ngoài.
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định khả năng sản xuất tối ưu:
Gọi PL và PA là đơn giá của lương thực và quần áo.
QL và QA là sản lượng của lương thực và quần áo.
TR là tổng doanh thu.
Khả năng sản xuất tối ưu là khả năng sản xuất có tổng doanh thu cao nhất:
TR = PL.QL + PA.QA = Max
1.3. Chi phí cơ hội - Opportunity cost (Chi phí tương đối)
Do các nguồn tài nguyên là khan hiếm nên xã hội hay từng cá nhân luôn luôn
phải lựa chọn xem sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể gì trong số những hoạt động
có thể được tiến hành. Phương án thay thế tốt nhất hay có giá trị nhất mà chúng ta từ
bỏ để nhận được một thứ gọi là chi phí cơ hội của thứ được lựa chọn. Một trong
những bài học cơ bản của kinh tế học là tất cả các lựa chọn của chúng ta đều chứa
đựng chi phí. Đúng như câu ngạn ngữ Anh: “Chẳng có gì là cho không cả”.
Như vậy, chi phí cơ hội của một quyết định là lượng hàng hoá và dịch vụ
phải bỏ qua khi ta lựa chọn và thực hiện quyết định đó mà không lựa chọn thực
hiện quyết định khác trong điều kiện khan hiếm các yếu tố thực hiện quyết định.

Đó là một sự đánh đổi, nghĩa là trao đổi (hy sinh) một thứ để nhận được thứ khác.
- Chi phí cơ hội không phải là chi cho các yếu tố đầu vào (chi phí kế toán)

9


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

- Chi phí cơ hội là quan hệ trao đổi của các loại hàng hoá dịch vụ khác
nhau hay là giá trị của phương án tốt nhất phải bỏ qua.
- Chi phí cơ hội là cái giá phải trả cho một quyết định.
Chẳng hạn, hiện tại bạn đang là sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Phú
Xuân, bạn quyết định liệu có nên tiếp tục học hay dừng học. Lợi ích của việc học
tiếp là làm giàu thêm kiến thức và có được những cơ hội tốt hơn trong tương lai.
Nhưng chi phí của học tiếp là gì? Nếu dừng học và đi bán hàng tại một công ty kinh
doanh nào đó, bạn có thể nhận đủ thu nhập để ổn định cuộc sống, đi du lịch và có
nhiều thời gian giao lưu với bạn bè. Nếu học tiếp thì bạn không thể có những thứ
đó. Bạn có thể có những thứ đó sau này, và đó chính là một trong những sự hy
sinh từ việc học tiếp. Tuy nhiên, hiện tại mọi chi phí sinh hoạt, đóng học phí và
mua tài liệu đều do gia đình bạn chu cấp, và bạn không có tiền để đi du lịch. Ôn
bài, đọc tài liệu tham khảo, làm bài tập về nhà cũng đồng nghĩa với việc bạn còn ít
thời gian hơn để giao lưu với bạn bè. Chi phí cơ hội của việc học tiếp là phương
án thay thế có giá trị nhất mà bạn có thể làm nếu bạn dừng học.
Khái niệm chi phí cơ hội có thể được minh hoạ thông qua đường PPF
(Hình 1.1), giả sử quyết định sản xuất thêm lương thực từ 1 tấn ở điểm B lên 2
tấn ở điểm C, chi phí cơ hội cho quyết định này chính là số quần áo bị mất đi để
sản xuất thêm lương thực. Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của 1 tấn lương
thực là 1 nghìn bộ quần áo. Hoàn toàn tương tự, tại một điểm cho trước trên
đường PPF, muốn tăng thêm lương thực đòi hỏi phải giảm bớt quần áo, lượng
quần áo bị mất đi là chi phí cơ hội của lượng vải tăng thêm.

Ví dụ: Hai sinh viên A và B đang lựa chọn giữa 2 phương án: đi máy bay
hoặc đi tàu từ Hà nội vào TP HCMinh để về thăm gia đình.
Máy bay: Mất 1h - 1 triệu đồng
Tàu hoả: Mất 30 h - 500.000 đồng
Giả sử nếu không về thăm gia đình thì cả 2 sinh viên này đi làm thêm
Lương A: 10000đ/giờ
Lương B: 20000đ/giờ
Vận dụng chi phí cơ hội để chứng minh: A sẽ đi tàu, B đi máy bay.
* A: Nếu đi tàu: vé: 500000đ
30 giờ: 300000đ
Tổng: 800000đ
Nếu đi máy bay: Vé 1000000đ

10


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

1 giờ: 10000đ
Tổng: 1010000đ
→ A sẽ đi tàu hoả.
* B: Nếu đi tàu: 500000 + 30* 20000 = 1100000đ
Nếu đi máy bay: 1000000 + 20000 = 1020000đ
→ B đi máy bay.
2. Quy luật thu nhập giảm dần (Quy luật năng suất cận biên giảm dần)
Quy luật này cho biết số lượng đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm khi liên
tiếp đầu tư thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi trong điều
kiện các yếu tố đầu vào khác cố định.
Quy luật thu nhập giảm dần nói lên mối liên hệ không phải giữa hai loại hàng
hoá mà là giữa một đầu vào của quá trình sản xuất với đầu ra do đầu vào đó tạo ra.

Ví dụ: Bảng 2 cung cấp các số liệu về số lao động, sản lượng thóc sản xuất
ra trong vòng 1 vụ với điều kiện diện tích gieo trồng cố định là 100 ha.
Bảng 2: Quy luật năng suất cận biên giảm dần
Số lƣợng lao động L Sản lƣợng thóc M (tạ) Sản lƣợng biên lao động
(ngƣời)
MPL (tạ)
100
2500
101
2520
20
102
2535
15
103
2545
10
104
2550
5
105
2550
0
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định đầu tư đầu vào để có hiệu quả cao nhất.
MPL = ∆M/∆L
Gọi PL, PM là đơn giá đầu vào lao động và đầu ra của lúa.
∆L, ∆M: Gia tăng lao động và sản lượng lúa.
PL*∆L: Chi phí đầu tư thêm
PM*∆M: Giá trị đầu ra có thêm
Nếu PL*∆L > PM*∆M: nên giảm đầu tư.

PL*∆L < PM*∆M: nên tăng đầu tư.
PL*∆L = PM*∆M: điểm đầu tư tối ưu.
∆M/∆L = PL/PM hay MPL = PL/PM
Như vậy, khi diện tích và các yếu tố khác cố định, mỗi đầu vào lao động
tăng thêm sẽ có ngày càng ít đầu vào cố định để cùng làm việc. Do đó, những đầu
vào được bổ sung sẽ tạo ra ngày càng ít đầu ra tăng thêm.

11


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Quy luật thu nhập giảm dần không phải lúc nào cũng đúng. Trong nhiều trường
hợp, nó chỉ có hiệu lực khi đã bổ sung một số lượng rất lớn các lượng bằng nhau của
đầu vào biến thiên. Nói cách khác, lúc đầu đầu vào biến thiên có thể đem lại thu nhập
bổ sung ngày càng tăng nhưng cuối cùng quy luật thu nhập giảm dần sẽ xảy ra.
3. Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng
Quy luật này cho biết để có thêm những số lượng bằng nhau về một mặt hàng,
xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều hơn số lượng mặt hàng khác.
Trở lại hình 1, nếu nền kinh tế nằm trên đường PPF, muốn tăng thêm 1 tấn
lương thực ta phải hy sinh một lượng quần áo nhất định, nhưng muốn tăng thêm 1
tấn lương thực nữa đòi hỏi phải hy sinh một lượng quần áo lớn hơn trước. Ngược
lại, khi muốn tăng thêm một lượng quần áo nhất định đòi hỏi phải hy sinh lương
thực ngày càng nhiều.
Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao đường PPF có dạng cong lồi ra
ngoài. Các đường PPF có dạng thẳng hay lõm vào gốc toạ độ không thể mô tả
được xu hướng trên.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại như vậy và có phải quy luật này lúc nào cũng
đúng không? Giả sử việc sản xuất quần áo chủ yếu dùng đến lao động và hầu như
không dùng đến đất đai, còn việc sản xuất lương thực cần đến cả lao động và đất

đai. Nếu đất đai được coi là cố định. Tại điểm A ta thấy việc giảm đi từng đơn vị
quần áo sẽ cho phép chuyển số lao động ra khỏi ngành sản xuất quần áo để
chuyển sang ngành sản xuất lương thực. Tuy nhiên, do đất đai cố định nên theo
quy luật thu nhập giảm dần, số lao động như nhau được bổ sung cho ngành sản
xuất lương thực sẽ tạo ra ngày càng ít lương thực. Như vậy, việc hy sinh lần lượt
từng đơn vị quần áo sẽ cho ta ngày càng ít lương thực và quy luật chi phí cơ hội
ngày càng tăng đã được chứng minh.
Từ lập luận trên có thể thấy, điều kiện để tồn tại quy luật này là tỷ lệ sử dụng
đầu vào của hai loại hàng hoá phải khác nhau. Nếu tỷ lệ này như nhau thì đường giới
hạn khả năng sản xuất sẽ trở thành đường thẳng và quy luật này không đúng nữa.
4. Sản lƣợng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Sản lượng tiềm năng (Yp - Potentional output) là mức sản lượng mà nền
kinh tế đạt được tương ứng với mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (Un - natural rate of
unemployment) và tỷ lệ lạm phát vừa phải mà nền kinh tế có thể chấp nhận được.

12


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Lưu ý: Sản lượng tiềm năng (Yp) chưa phải là mức sản lượng tối đa, đồng
thời nó có khuynh hướng tăng lên theo thời gian (do khả năng sản xuất của nền
kinh tế luôn có khuynh hướng tăng lên).
Trong thực tế, sản lượng thực tế (Ya) luôn biến động xoay quanh sản lượng
tiềm năng Yp nên tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cũng biến động, tạo ra chu kỳ
kinh doanh.
Khi Ya = Yp: Nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng.
Khi Ya < Yp: Nền kinh tế đang trong trạng thái khiếm dụng. Nghĩa là lúc này
Ua> Un. Phần cao hơn (là thất nghiệp chu kỳ) có thể được ước tính theo định luật Okun.
III. Mục tiêu và các công cụ trong kinh tế vĩ mô

1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
1.1. Mục tiêu tổng quát
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia được đánh giá theo 3 dấu hiệu
chủ yếu sau:
- Ổn định nền kinh tế: Là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh
tế cấp bách như: lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong ngắn hạn, hạn chế mức độ
dao động của các chu kỳ kinh doanh. (Chống lạm phát, chống suy thoái trong
ngắn hạn, đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng tối ưu).
- Tăng trưởng kinh tế: Muốn có tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải tăng năng
lực sản xuất của quốc gia, làm cho tốc độ tăng sản lượng quốc gia đạt mức cao
nhất mà nền kinh tế đó có thể thực hiện được. (Phải làm tăng sản lượng tiềm năng
bằng cách xử lý 4 yếu tố tăng trưởng dài hạn trong hàm sản xuất: L - Labour, K Capital, R - Resource, Te - Technology).
- Công bằng trong phân phối: vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế.
Phải thực hiện công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang.
Công bằng dọc: có chế độ thù lao khác nhau cho những người lao động
khác nhau (làm và hưởng theo năng lực).
Công bằng ngang: có chế độ thù lao như nhau cho những người lao động
cùng chức năng, nhiệm vụ.
1.2. Mục tiêu cụ thể
a. Mục tiêu sản lượng:
+ Trong ngắn hạn: cần đạt mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức
sản lượng tiềm năng Yp.

13


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

+ Trong dài hạn: đạt tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc, tăng sản lượng
tiềm năng Yp.

b. Mục tiêu việc làm:
+ Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, chỉ duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên Un.
+ Tạo nhiều chỗ làm việc mới với mức thu nhập cao cho người lao động.
c. Mục tiêu ổn định giá cả:
+ Cần ổn định mức giá đồng thời hạn chế sự đột biến về giá (hạn chế
những cú sốc về giá).
+ Kiểm soát được lạm phát.
d. Mục tiêu kinh tế đối ngoại:
+ Ổn định tỷ giá hối đoái.
+ Cân bằng cán cân thanh toán.
e. Mục tiêu phân phối công bằng:
Phải phân phối và phân phối lại của cải vật chất sao cho vừa tạo điều kiện
thuận lợi để sản xuất phát triển, vừa đảm bảo công bằng xã hội.
2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Chính phủ cần phải có
những công cụ nhất định.
2.1. Chính sách tài khoá (Fiscal Policy)
Chính sách tài khoá được thực hiện bằng cách thay đổi các khoản thu chi
ngân sách của Chính phủ, nhằm hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm
mong muốn.
Chính sách tài khoá bao gồm 2 công cụ chủ yếu:
+ Chi tiêu của Chính phủ (G - Government): Chi tiêu của Chính phủ có ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể trực tiếp tác động
đến tổng cầu và sản lượng.
+ Thuế (T - Tax): Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi
tiêu của khu vực tư nhân, từ đó tác động tới tổng cầu và sản lượng.
Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và
lạm phát, phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Trong dài hạn, chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.


14


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

2.2. Chính sách tiền tệ (Monetary Policy)
Chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương thực hiện, trên cơ sở thay đổi lượng
cung tiền ứng trên thị trường, nhằm tác động đến lãi suất và từ đó ảnh hưởng tới đầu tư.
Chính sách tiền tệ bao gồm 2 công cụ chủ yếu là:
+ Cung về tiền (MS - Money Supply)
+ Lãi suất (r - interest rate)
Khi Ngân hàng trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc
giảm, tác động đến đầu tư tư nhân, do đó ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GDP thực tế trong ngắn hạn,
song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GDP tiềm năng
trong dài hạn.
2.3. Chính sách thu nhập (Incomes Policy)
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp mà Chính phủ sử
dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ những công cụ mềm dẻo
như định hướng tiền lương theo ý muốn cho đến những công cụ có tính chất cứng
rắn như kiểm soát có tính chất bắt buộc đối với tiền lương,…
2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại (Foreign Policy)
Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm việc can thiệp của Chính phủ nhằm
ổn định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp
nhận được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân
bằng, các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp
tài chính và tiền tệ khác, tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu.


15


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

CHƢƠNG II
ĐO LƢỜNG SẢN LƢỢNG VÀ MỨC GIÁ
Trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu khái niệm tổng sản phẩm trong
nước GDP, các phương pháp xác định GDP, chỉ số điều chỉnh GDP, chỉ số giá tiêu
dùng CPI và một số tài khoản quốc dân cơ bản. Và chúng ta sẽ nghiên cứu xem các
nhà kinh tế sử dụng những đại lượng này như thế nào để đánh giá tốc độ tăng trưởng
kinh tế và tỷ lệ lạm phát qua thời gian. Và trong một chừng mực nhất định cho phép
chúng ta có thể so sánh hoạt động kinh tế vĩ mô giữa các quốc gia với nhau.

I. Tổng sản phẩm trong nƣớc GDP
1. Khái niệm
Tổng sản phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia hay một địa phương trong một thời kỳ nhất định.
Để hiểu thấu đáo định nghĩa này, chúng ta cần lưu ý đến nội dung chuyển
tải của từng cụm từ một:
+ “Giá trị thị trường” là giá trị tính bằng tiền hay tính theo giá cả của hàng
hoá được người mua và người bán chấp nhận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Nói một cách nôm na là thuận mua, vừa bán.
+ Cụm từ “của tất cả” ý nói GDP tìm cách tính toán hết tất cả các hàng
hoá và dịch vụ được sản xuất và bán hợp pháp trên thị trường.
Nó bao gồm giá trị thị trường không chỉ của các sản phẩm nông nghiệp
như gạo, ngô, khoai, sắn, thịt bò, thịt lợn,… các sản phẩm công nghiệp như quần
áo, giày dép,… mà còn của các loại dịch vụ như du lịch, giáo dục, y tế,…

Tuy nhiên, một số sản phẩm không được tính trong GDP do việc đo lường
chúng quá khó khăn như: các sản phẩm tự sản tự tiêu (tự cấp tự túc) trong các hộ
gia đình (ví dụ: rau quả trong vườn nhà, các dịch vụ sữa chữa nhỏ,…). GDP cũng
không tính tới giá trị giao dịch của một số sản phẩm lưu thông bất hợp pháp hay
thuộc kinh tế ngầm như ma tuý,…
+ Cụm từ “hàng hoá và dịch vụ cuối cùng” nhằm nhấn mạnh GDP chỉ tính
giá trị của các loại hàng hoá, dịch vụ cuối cùng, không tính giá trị của các loại
hàng hoá, dịch vụ trung gian.
Như vậy, ở đây chúng ta cần phân biệt hai khái niệm: hàng hoá, dịch vụ
cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian.

16


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Hàng hoá, dịch vụ cuối cùng là những sản phẩm cuối cùng của quá trình sản
xuất và được người mua sử dụng dưới dạng sản phẩm hoàn chỉnh. Nói cách khác,
một sản phẩm được xem là hàng hoá, dịch vụ cuối cùng khi thoả mãn 2 điều kiện:
- Kết thúc quá trình sản xuất, phải là thành phẩm.
- Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế như: ăn, mặc, đầu
tư, xuất khẩu,…
Ngược lại, những hàng hoá, dịch vụ nào không thoả mãn 2 điều kiện nói
trên là hàng hoá, dịch vụ trung gian. (Đó là những sản phẩm đóng vai trò là yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất và được sử dụng hết trong quá trình đó).
Cần phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian
vì đôi khi cùng một hàng hoá có thể là hàng hoá cuối cùng của ngành này nhưng
lại là hàng hoá trung gian của ngành khác. Ví dụ: Vải là sản phẩm cuối cùng của
ngành dệt nhưng lại là sản phẩm trung gian của ngành may.
Hay các loại nông sản: Thịt lợn: Nếu phục vụ cho mục đích ăn, xuất khẩu:

hàng hoá cuối cùng → được tính vào GDP.
Nhưng nếu cũng thịt lợn thành phẩm đó được sử dụng làm nguyên liệu chế
biến cho một dây chuyền thịt hộp chẳng hạn → hàng hoá trung gian: không được
tính vào GDP.
Phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian
nhằm khắc phục hiện tượng tính trùng trong đo lường GDP.
Ví dụ: Trong ngành sản xuất xe máy. Khi tính GDP, nếu chúng ta cộng tất
cả giá trị sản lượng của cao su, lốp xe và xe máy được tạo ra trong một nền kinh tế
lại với nhau thì sẽ là vô nghĩa vì giá trị của lốp xe đã tính đến giá trị của cao su
dùng để sản xuất ra lốp xe đưa vào xe máy. Ở đây, cao su và lốp xe là những hàng
hoá trung gian.
+ “trong phạm vi một nước” có nghĩa là giá trị của tất các hàng hoá được
sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ nước nào thì tính vào GDP nước đó, bất kể hàng
hoá đó được tạo ra bởi công dân nước nào và doanh nghiệp thuộc sở hữu trong
nước hay nước ngoài. Như vậy, GDP xác định theo phạm vi lãnh thổ của một quốc
gia hay một địa phương được xác định theo 2 phần:
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà công dân của một quốc gia hay địa
phương đó tạo ra.
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng do người nước ngoài hay người địa
phương khác tạo ra ở quốc gia hay địa phương đó.

17


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Ví dụ: Các tập đoàn nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, chẳng hạn tập đoàn
Intel của Mỹ đến Việt Nam đầu tư: mọi giá trị mà Intel tạo ra trên phạm vi lãnh thổ
Việt Nam được tính vào GDP của Việt Nam.
Hay một doanh nhân người Huế ra Hà Nội làm ăn: toàn bộ giá trị sản lượng

hàng hoá và dịch vụ mà doanh nhân đó tạo ra trên phạm vi lãnh thổ Hà nội sẽ được
tính vào GDP của Hà nội chứ không phải GDP của Huế (tính vào GNP của Huế). Ở
phần sau chúng ta sẽ nghiên cứu thêm khái niệm GNP và phân biệt nó với GDP.
+ “trong một thời kỳ nhất định” nghĩa là GDP phản ánh giá trị sản lượng
tạo ra trong một khoảng thời gian cụ thể (năm, quý).

2. GDP danh nghĩa, GDP thực tế và chỉ số điều chỉnh GDP
2.1. GDP danh nghĩa (GDPn - Nominal GDP)
GDP danh nghĩa là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện
hành, hay là tổng của lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm
nhân với giá của hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm đó.
Công thức:
GDPnt   qit pit (i = 1,m)

Trong đó: qit : sản lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng i ở năm t.
p it : giá hiện hành của hàng hóa, dịch vụ cuối cùng i ở năm t.

Lưu ý: Ở đây, tính theo giá hiện hành khác với giá thời điểm.
Có thể nói, trong nền kinh tế thị trường, một năm có hàng nghìn mức giá
biến động lên xuống khác nhau. Vậy, chọn mức giá nào để tính? → mức giá
chung (phần sau chúng ta sẽ được học cụ thể hơn: DGDP và CPI).
Ví dụ: Có 10 con gà bán ở 3 thời điểm khác nhau trong năm với 3 mức giá khác
nhau: Con đầu tiên: bán giá 50.000đ, 4 con tiếp: bán giá 70.000đ, 5 con cuối: bán giá
100.000đ. → Chọn giá nào để tính? Giá cao nhất? Giá thấp nhất hay như thế nào?
Ở đây chúng ta phải sử dụng phương pháp bình quân gia quyền như trong
lý thuyết thống kê đã học:
P = (50.000*1 + 70000*4 + 100000*5)/10 = 83300 (đ/con).
Hay: lấy ví dụ 10 tấn cà phê bán ở 3 thời điểm khác nhau với 3 mức giá
khác nhau (đầu vụ, giữa vụ, cuối vụ).


2.2. GDP thực tế (GDPr - Real GDP)
GDP thực tế là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền
kinh tế được đánh giá theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc) hay là tổng

18


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

của lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm nhân với giá cố
định của các hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm gốc.
Công thức:
GDPrt   qit pio (i = 1,m)

( p io giá cố định của hàng hoá, dịch vụ i ở năm cơ sở hay năm gốc)
Trong thực tế, nếu quan sát thấy GDP danh nghĩa tăng từ năm này sang
năm khác thì chưa thể kết luận sự tăng đó là do sản lượng hàng hoá và dịch vụ
tăng hay do mức giá tăng. Nhưng nếu quan sát thấy GDP thực tế tăng thì có thể
khẳng định rằng sản lượng hàng hoá và dịch vụ đã tăng vì mức giá được tính cố
định theo năm gốc. Do đó, chỉ tiêu GDP thực tế là thước đo tốt hơn về kết quả sản
xuất của nền kinh tế theo thời gian.
Ví dụ: GDPr/00 = ∑Pi00*Qi07
GDPn07 = ∑Qi07*Pi07

So sánh cái nào lớn hơn?

GDPr07/00 = ∑ Qi07*Pi00
Thông thường, trong nền kinh tế, mức giá chung năm sau thường cao hơn
năm trước: Pi07 > Pi00 (Đó là hiện tượng mất giá)
Hầu hết mức giá chung đều tăng, ngoại trừ một số mặt hàng cá biệt, giá có

thể giảm như: máy tính, ti vi, tủ lạnh,… những sản phẩm do lỗi thời về công nghệ
nên giá rẻ. Tuy nhiên, những sản phẩm này quyền số không lớn lắm (nghĩa là phần
giá giảm xuống ít hơn phần giá tăng thêm của những mặt hàng khác nên tính chung
giá cả sẽ tăng lên). Chúng ta có thể biểu diễn trên trục thời gian:
Pt < P0

Pt = P0

Pt > P0

*
Trước

Thời điểm gốc

Sau

Tại thời điểm gốc: GDPn = GDPr (vì Pt = P0)
Trước thời điểm gốc: GDPn < GDPr (vì Pt < P0)
Sau thời điểm gốc: GDPn > GDPr (vì Pt > P0)
Lưu ý: Khi nào sử dụng GDPn, khi nào sử dụng GDPr?
- Khi so sánh quan hệ tài chính, so sánh kết quả hoạt động của các nền kinh
tế với nhau, của các địa phương hoặc các ngành trong nền kinh tế với nhau thì nên
dùng GDP danh nghĩa.
- Khi so sánh GDP qua các năm, để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế thì
phải dùng GDP thực tế.
Ở đây, chúng ta sử dụng 2 mức độ: nên dùng và phải dùng. Giải thích??
19



Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Nên dùng: có thể dùng cả 2 chỉ tiêu nhưng nên dùng GDPn thì tốt hơn.
Phải dùng: chỉ dùng GDPr, không dùng GDPn.
Ví dụ 1: Nên dùng: Giả sử, khi so sánh Việt Nam với một quốc gia siêu
cường về kinh tế như Nhật Bản:
2007: GDPn: Nhật: 4350 tỷ $

sử dụng cái này tốt hơn

Việt Nam: 71,3 tỷ $
Nếu dùng GDPr: chúng ta phải lấy thời giá cuủa1 năm nào đó làm gốc để
so sánh, chẳng hạn lấy giá năm 2000 làm gốc.
GDPr/00: Nhật: 3850 tỷ $
Việt Nam: 51 tỷ $
Sử dụng cách này vẫn có thể so sánh được nhưng không tốt bằng cách trên
vì đòi hỏi chúng ta phải liên tưởng đến chỉ giá đồng $ năm 2000.
So sánh GDPn sẽ phản ánh sát tình hình thực tế hơn.
→ Do đó nên dùng GPPn trong những trường hợp này.
Ví dụ 2: Phải dùng GDPr: (dùng GDPn không được)
Thành phố Huế

2005

2007

Qi05

Qi07


P05

P07

Cho biết: Qi05 = Qi07: cơ cấu hiện vật (các mặt hàng tạo ra) trong 2 năm
giống nhau, nhưng mức giá cả năm 2007 cao hơn 20% so với năm 2005.
Nếu so sánh bằng GDPn: (GDPn07/GDPn05)*100 = 120%, nghĩa là GDPn07
cao hơn GDPn05 20%. Điều này không đúng vì thật sự sự tăng này là do giá đội
lên. GDP qua 2 năm này thật sự không tăng thêm tí nào.
→ Do đó phải sử dụng GDPr để có thể so sánh chính xác.

2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator - DGDP)
Chỉ số điều chỉnh GDP đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng
hoá và dịch vụ được tính vào GDP.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và
GDP thực tế.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng công thức sau:
DGDP

GDPnt

*100 
GDPrt

q p
q p
t
i

t

i

t
i

0
i

*100

20


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

DGDP đo lường sự biến động của các hàng hoá, dịch vụ nói chung tính vào
GDP hay nói cách khác nó phản ánh sự tăng giảm về mặt giá cả nói chung của các
hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế.
Do đó, một số tài liệu còn gọi là chỉ số giá cả hay chỉ số giảm phát.
DGDP > 100: giá cả tăng lên → GDPn > GDPr (sau năm gốc)
DGDP < 100: giá cả giảm xuống → GDPn < GDPr (trước năm gốc)
DGDP = 100: giá cả không thay đổi → GDPn = GDPr (tại thời điểm gốc)
Trong công thức trên:
Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở nên chỉ số điều
chỉnh GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi trong việc đọc, các
nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số
giảm phát ở năm cơ sở là 100 thay vì là 1. Do đó, tỷ số giữa giữa giá trị của GDP
danh nghĩa và GDP thực tế được nhân với 100. (Nhân 100 ở công thức này là để
dễ đọc chứ không phải để tính %).
Ví dụ: Thay vì đọc 1,15 hay 0,95 người ta đọc 115 hay 95 dễ hơn.

Ý nghĩa của chỉ số điều chỉnh GDP: (DGDP sử dụng để làm gì??)
+ Dùng để qui đổi GDPn thành GDPr và ngược lại.
+ Dùng để tính tỷ lệ lạm phát (∏)
t
t 1
DGDP
 DGDP
 
*100 (%)
t 1
DGDP
t

Nhân 100 ở công thức này để tính %, khác với công thức tính DGDP
Ví dụ: Để tính tỷ lệ lạm phát năm 2007 của Việt Nam:
Π07 = (DGDP07 - DGDP06)/D06GDP *100 (%)
Không so sánh tương đối 2 số % để ra số % thứ 3 → Đó là lý do tại sao
DGDP không tính bằng %.
Nhìn vào công thức tính tỷ lệ lạm phát, chúng ta cần lưu ý:
Nếu DGDPt > DGDPt-1 → πt > 0 → lạm phát ( là tình trạng mức giá chúng của
nền kinh tế tăng lên trong một thời gian nhất định - chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể
hơn trong chương VI).
Nếu DGDP < DGDPt-1 → πt < 0 → giảm phát (là tình trạng mức giá chung của
nền kinh tế giảm xuống trong một thời gian nhất định - chương VI).
Nếu DGDP = DGDPt-1 → Về mặt toán học: πt = 0. Nhưng trên thực tế không
xảy ra trường hợp này.
Người ta không sợ lạm phát mà rất sợ giảm phát.

21



Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Lạm phát gây ra nhiều tác hại. Nhưng những tác hại mà giảm phát gây ra
lớn gấp 10, 20 lần lạm phát.
Không có giải pháp để chống giảm phát → buộc phải phòng: không để cho
giảm phát xảy ra. Nếu xảy ra giảm phát có thể làm mất nền kinh tế, mất chính trị.
Do đó, không một chính phủ nào để giảm phát xảy ra: Khi có dấu hiệu
giảm phát phải dập ngay.
Lưu ý: Trong công thức tính tỷ lệ lạm phát trên chỉ tính cho hai mốc thời
gian liền nhau (năm t và năm (t-1)). Trường hợp hai mốc thời gian so sánh cách
nhau thì công thức trên được gọi là tốc độ tăng giá, lấy tốc độ tăng giá này chia
cho khoảng cách thời gian chúng ta được tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng
thời gian đó.
Bài tập ví dụ:
Năm

PA

QA

PB

QB

2005

3

1000


7,0

180

2006

4

1200

7,5

190

2007

5

1350

8,0

210

(Cho biết: Lấy năm 2005 làm năm cơ sở)
a. Tính GDPn và GDPr của từng năm.
b. Tính tỷ lệ lạm phát năm 2006, 2007 và tỷ lệ lạm phát trung bình từ 2005 đến 2007.
2.4. Tăng trưởng kinh tế và quy tắc 70
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo

thời gian, đó là sự gia tăng của GDP thực tế theo thời gian.
Tăng trưởng bền vững là sự tăng trưởng của thế hệ hiện tại mà không làm
tổn hại (ảnh hưởng) đến sự tăng trưởng của thế hệ tương lai.
Từ các chỉ tiêu GDP, chúng ta tính được các loại tốc độ tăng trưởng kinh tế:
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên hoàn: gt =

GDPrt  GDPrt 1
*100(%)
GDPrt 1

Dạng khác của công thức trên:
gt = ((GDPrt /GDPrt-1) -1)*100 (%)
-1 thể hiện trừ gốc của nó.
Nhìn vào công thức này, nhận xét:
GDPrt > GDPrt-1: gt > 0: nền kinh tế tiến về phía trước.
GDPrt < GDPrt-1: gt < 0: nền kinh tế tăng trưởng âm.
GDPrt = GDPrt-1: gt = 0: nền kinh tế đứng im tại chỗ.
3 trường hợp này có được chấp nhận trong mọi nền kinh tế không?
22


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Về lý thuyết: có 3 trường hợp này.
Nhưng trên thực tế, bao nhiêu năm nay trên thế giới chưa có nước nào xảy
ra trường hợp nền kinh tế đứng im tại chỗ: gt = 0.
Thông thường: gt > 0.
Một số nước gặp bất trắc, rủi ro, khủng hoảng,…: gt < 0
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế định gốc:
g0 =


GDPrt 2  GDPrt1
GDPrt2
*
100
(%)
(
 1) *100(%)
=
GDPrt1
GDPrt1

Trong đó: t1: năm gốc.
t2 - t1 = 2,3,4,… (hiệu số của t2 và t1 được tính từ 2,3,… trở lên).
Về mặt số học, 2 công thức gt và g0 không khác nhau. Nhưng trong kinh tế,
2 công thức này có sự khác biệt khá tinh vi.
Nếu hiệu số t2 - t1 = 1: g0 ≡ gt
Thông thường: g0 > 0, trừ trường hợp đặc biệt: cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới (1929 - 1933,…).
Điều này càng thể hiện rõ nét trong trường hợp t2 - t1 càng lớn (5,7,…).
Tăng trưởng định gốc thường nhận giá trị dương, không nhận giá trị âm
hoặc bằng 0.
* Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: g  (t t
2

1

GDPrt2
 1) *100(%)
GDPrt1


Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân phản ánh tốc độ tăng của năm sau so
với năm trước, tính bình quân cho một giai đoạn nhiều năm (từ t1 đến t2).
Ví dụ: Có dãy số liệu GDPr của 2 nước trong khoảng thời gian sau:
2002

2003

2004

2005

2006

2007

GDPrA

50

55

52

57

59

61


GDPrB

50

51

55

52

55

61

Hãy tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của 2 nước này?
Tốc độ tăng trưởng bình quân của 2 nước này bằng nhau:
gA,B = ( 5√61/60 - 1)* 100 (%)
Nhận xét: Từ 2003 đến 2006, GDPr của 2 nước này khác nhau, nhưng tốc
độ tăng trưởng bình quân từ 2003 - 2007 của 2 nước này bằng nhau.
gA = (5√

23


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Lưu ý:
+ Độ lớn của các chỉ tiêu từ năm (t1+1) cho đến năm (t2 -1) không ảnh
hưởng đến tốc độ tăng bình quân.
+ Trường hợp tốc độ tăng dân số không tương xứng với tốc độ tăng sản

phẩm thì tăng trưởng kinh tế được tính bằng GDP thực tế bình quân đầu người.
* Tăng trưởng kép và quy tắc 70:
Ví dụ: Hiện tại, có 100 trđ, gửi Ngân hàng với lãi suất r = 17%/năm, gửi
trong thời gian 10 năm. Lãi gốc của tháng này trở thành lãi tháng sau (tính lãi
kép). Hỏi sau 10 năm (đến lúc đáo hạn) có bao nhiêu tiền?? → Quy tắc 70.
Tốc độ tăng trưởng bình quân còn đưa chúng ta đến khái niệm tăng trưởng
kép. Khái niệm này được dùng để chỉ sự tăng trưởng tích luỹ qua mỗi thời kỳ.
Tăng trưởng kép làm cho GDP của một nước tăng rất nhanh sau một khoảng thời
gian dài. Điều này cũng hàm ý nếu các nước có tốc độ tăng trưởng kép khác nhau,
thì sự khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng trưởng có thể dẫn tới sự khác biệt rất lớn
trong GDP sau một thời gian dài.
Để tính được tốc độ tăng trưởng kép, chúng ta phải khai căn, lấy logarit và
phải thực hiện nhiều phép toán. Các nhà kinh tế đã tìm ra một quy tắc đơn giản,
gần đúng để nhanh chóng hình dung ra được sau bao lâu GDP thực tế của một
nước sẽ tăng gấp đôi khi nó đạt một tốc độ tăng trưởng kép nào đó. Quá trình tìm
kiếm đã dẫn các nhà kinh tế tới quy tắc 70.
Quy tắc này nói rằng nếu một biến số tăng với tốc độ bình quân là x phần
trăm năm thì nó sẽ tăng gấp đôi sau 70/x năm.
Hệ quả: Hiệu ứng đuổi kịp (Catch - up effect)
Thuật ngữ này dùng để chỉ tình huống các nước có điểm xuất phát thấp
thường đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước có điểm xuất phát cao và khoảng
cách về thu nhập bình quân đầu người giữa họ sẽ được thu hẹp.
Một quốc gia có xuất phát điểm tương đối thấp nhưng có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao thì quốc gia đó có thể đuổi kịp quốc gia khác có xuất phát
điểm cao hơn nhưng tăng trưởng thấp hơn.
Ví dụ: 2 ô tô: 1 chiếc chạy trước với vận tốc 40 km/h; 1 chiếc chạy sau với
vận tốc 60 km/h. Hỏi sau mấy giờ xe 2 vượt xe 1?? → Sau 2 giờ xe thứ 2 vượt xe
thứ 1 (Hiệu ứng đuổi kịp)
→ Điều quan trọng (quyết định) là tăng trưởng kinh tế chứ không phải
GDP tạo ra là bao nhiêu.


24


Bài giảng Kinh tế vĩ mô

Hiệu ứng đuổi kịp có tác động đối với nước ta không? Có. So với các nước
khác trong khu vực, nước ta có điểm xuất phát thấp hơn. Số liệu thống kê cho thấy
tỷ lệ tăng trưởng của chúng ta cao hơn hầu hết các nước có trình độ phát triển cao
trong khu vực. Thực tế này chắc chắn làm cho khoảng cách về thu nhập bình quân
đầu người giữa nước ta và các nước có trình độ phát triển cao sẽ được thu hẹp,
chứ không phải “dãn ra” hay “ngày càng tụt hậu” như một số người lầm tưởng.

II. Phƣơng pháp xác định GDP
1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô
Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô là sơ đồ mô tả luồng hàng hoá, dịch vụ và
luồng tiền tệ di chuyển giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Để tìm được bản chất
bên trong của các giao dịch và đưa ra được các phương pháp tính toán GDP một
cách có cơ sở khoa học, chúng ta xét trường hợp đơn giản nhất: Nền kinh tế khép
kín, chỉ bao gồm 2 tác nhân là hộ gia đình và các doanh nghiệp.
Trong điều kiện đó, dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được trình bày ở hình 2.1:

Hình 2.1 : Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất cho các doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp dùng yếu tố sản xuất này sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ
và bán hàng hoá, dịch vụ cho hộ gia đình.
Các hộ gia đình dùng thu nhập từ các yếu tố sản xuất thanh toán cho doanh
nghiệp khi mua hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy, dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thực sự. Hàng
hoá, dịch vụ từ các doanh nghiệp sang hộ gia đình và dịch vụ yếu tố sản xuất từ hộ

gia đình sang các doanh nghiệp. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng
tiền. Các doanh nghiệp trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất, các hộ gia đình
thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ cho các doanh nghiệp.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×