Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

vận dụng quan điểm của đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.39 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
BỘ MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở nước
ta hiện nay.


MỤC LỤC
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1. Văn hóa là gì?
2. Văn hóa kinh doanh là gì?
3. Vai trò của văn hóa trong kinh doanh
a, Văn hoá với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển
b, Các yếu tố văn hoá với tư cách là những biểu hiện của trình độ cao trong sinh hoạt
xã hội
c, Các yếu tố văn hóa tạo sự phát triển cho kinh doanh
II. Thực trạng
1. Tại sao phải xây dựng văn hóa kinh doanh?
2.Thực trạng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta
a, Đặc điểm nền văn hóa kinh doanh ở nước ta qua từng giai đoạn
b, Thành tựu và hạn chế
3. Chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
C. Kết luận



A. Lời mở đầu
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc đổi mới nền kinh tế, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.Trước nhiệm vụ quan trọng đó, Đảng ta đã xác định cần
phải xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này sẽ góp phần
đắc lực vào việc khai thác những nhân tố tích cực hạn chế nhân tố tiêu cực của mối quan
hệ hàng hóa –tiền tệ trong xã hội, nó sẽ giữ vai trò góp phần hình thành một con đường
phát triển phù hợp với đặc điểm của dân tộc và xu hướng phát triển của thế giới. Đồng
thời nó sẽ giúp tạo dựng văn hóa trong kinh doanh (yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững
cho các chủ thể kinh doanh), góp phần quan trọng vào việc tạo dựng thương hiệu, uy tín,
làm tăng lợi thế cạnh tranh cho nền kinh tế của cả một đất nước. Trước thực tế đó, đòi hỏi
chúng ta phải “vận dụng các quan điểm của đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến


đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện
nay.”

B. Nội dung
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Văn hóa là gì?
Theo Edouard Herriot nhận xét: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả,
là cái thiếu khi người ta đã học tất cả”. vậy để nhận diện văn hóa là gì, ta cần vạch ra
được những thuộc tính của nó.
Thứ nhất: văn hóa là cái thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài người và do
con người sinh ra. Văn hóa dùng để chỉ đặc điểm và nhân tố nhân tính, nhân văn chung
của con người, nó có trong tất cả các mối quan hệ, hoạt động và sản phẩm của con người.


Thứ hai: đối với một công đồng, dân tộc,văn hóa luôn có tính đặc thufnos được thể

hiện ra như một kiểu sống( lối sống kiểu ứng sử và hành động….) riêng biệt và ổn định
của họ trong lịch sử, nó có tính dị tồn vá qua nhiều thế hệ.
Thứ ba: cốt lõi của văn hóa và có nhân tố quy định tính đặc thu của kiểu sống khác
nhau trong xã hội là bảng giá trị của họ.
Đó là một hệ thống các giá trị, gồm bà loại giá trị chân – thiện- mĩ với nội dung có
nhiều yếu tố khác nhau ở mỗi cộng đồng người.
Từ sự phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa: văn hóa là các nguồn lực nội sinh của
con người, là kiểu sống và bảng giá trị của các tổ chức, cộng đồng người, trung tâm là
các giá trị chân thiện mỹ.
♣ Quan điểm của Đảng ta: Văn hoá Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh
thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.
♣ Quan điểm của đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua
tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy,
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm
vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ
sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng sau này. Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Nền văn hóa mà Đảng
ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra nghị quyết riêng về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa tiên


tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội"1.
Tháng 7-2004, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Kết luận
Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt

Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của
Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh
tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”
Kế thừa, bổ sung và phát huy kết quả đạt được, Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển văn hoá, con người Việt
Nam, đồng thời đề ra nhiệm vụ tổng quát: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở 6
nhiệm vụ, 4 nhóm giải pháp của Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI, Nghị quyết Đại hội
XII đã nghiên cứu, sắp xếp tổng hợp lại thành 7 nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với giai
đoạn hiện nay và sắp tới, nhất là vấn đề xây dựng nhân cách, đạo đức con người.
Nếu như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI và các văn kiện của Đảng trước đây xác
định quan điểm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn
hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội và nói đến yếu tố con người như là một
nguồn lực quan trọng trong phát triển, thì Nghị quyết Đại hội XII đã bổ sung nhân tố xây
dựng con người gắn với xây dựng văn hoá làm nền tảng tinh thần với hàm ý văn hoá và
con người là cặp đôi biện chứng, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hoá và thụ
hưởng các giá trị, sản phẩm văn hoá. Ngoài ra, yếu tố con người đề cập lần này là những
con người rất cụ thể, con người phải có nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng,
trách nhiệm xã hội…, việc xây dựng con người phải thông qua hoạt động thực tiễn, cụ
thể của từng người, chứ không nói chung chung nữa.


Tại Đại hội XII của Đảng, khi nói về phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tạo điều
kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ,
năng lực, kỹ năng sáng tạo; khoẻ về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công
dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật”. Điều này có nghĩa phát triển văn hóa thì không
thể tách rời phát triển con người. Về mặt lý luận, nói tới văn hóa là nói tới con người, vì

vậy mọi hoạt động văn hóa, dù phát triển đa dạng, phong phú như thế nào đều phải
hướng tới, phải quy tụ vào mục tiêu xây dựng, nuôi dưỡng con người.
Ngoài yếu tố văn hóa liên quan đến phát triển nhân cách và trí tuệ con người thì Báo cáo
chính trị Đại hội XII cũng đề cập những điểm rất mới đó là văn hóa trong kinh tế, văn
hóa trong chính trị, đề cập đến chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, phát triển công
nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa…
Văn hóa chính trị, văn hoá Đảng cũng là một bộ phận của văn hóa dân tộc, bộ phận tiên
tiến nhất, ưu tú nhất, bởi: “Đảng là đạo đức, là văn minh”. Văn hoá trong Đảng, văn hoá
trong chính trị càng gắn chặt, càng sâu sắc bao nhiêu, thì hiệu quả mang lại cao bấy
nhiêu, bởi trong bất kỳ thời đại nào, văn hóa, nhân cách, đạo đức, nhân phẩm không thể
tách rời con người.
Trong hội nhập văn hoá, vấn đề là phải tìm hiểu yếu tố nào là truyền thống, cốt lõi của
văn hóa Việt Nam, trên cơ sở đó ta xây dựng cốt cách của mình, đồng thời tiếp nhận có
chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Còn trong kinh
tế, UNESCO từng chỉ ra rằng, nền kinh tế nào mà chỉ quan tâm phát triển kinh tế, bỏ
quên yếu tố con người, yếu tố văn hóa thì sẽ dẫn đến hệ lụy là kinh tế không phát triển
được mà xã hội cũng có nhiều điều bất an. Bởi văn hoá là sư chắt lọc, là sự kết tinh, bồi
lắng: “Mưa dầm thấm lâu”, nhưng sự suy thoái của các giá trị truyền thống văn hoá
thường diễn ra rất nhanh, nếu không có những kế sách đủ mạnh, đặc biệt là những quốc
gia đang trên đường hội nhập.


Có thể thấy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa ngày càng chiếm
vị trí đặc biệt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện tầm nhìn sáng
suốt của Đảng về quá trình phát triển bền vững đất nước. Đây là điểm tưởng như không
mới, song, thật sự là một việc vô cùng quan trọng trong điều kiện xã hội hiện nay, nhằm
thực hiện mục tiêu xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành văn hóa,

mà là của tất cả các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ,
sâu sắc và triển khai nghiêm túc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, từ đó
hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, đào tạo cũng như hoạt động kinh tế, chính trị vào
việc xây dựng con người, làm cho yếu tố con người thực sự trở thành nhân tố quyết định
sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Kế thừa kiến thức của các môn học trước, văn hóa được dùng theo nghĩa rộng: “ Văn
hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc
Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước”, nhưng chủ yếu là sử dụng
theo nghĩa hẹp: “ Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội”, “ Văn hóa là hệ các giá trị,
truyền thống, lối sống”, “ Văn hóa là năng lực sáng tạo” của một dân tộc, “Văn hóa là
bản sắc” của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với các dân tộc khác…
2. Văn hóa kinh doanh là gì?
Văn hóa kinh doanh hay văn hóa thương mại là những giá trị văn hóa gắn liền với hoạt
động kinh doanh ( mua bán, khâu gạch nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng) một món hàng
hóa( một thương phẩm / dịch vụ) cụ thể trong toàn cảnh mối quan hệ văn hóa xã hội khác
nhau của nó. Đó là hai mặt mâu thuẫn ( văn hóa: giá trị >< kinh doanh: lợi nhuận) nhưng
thống nhất: giá trị văn hóa thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản phẩm,
trong thông tin quảng cáo sản phẩm, trong trưng bày cửa hàng sản phẩm, trong phong
cách giao tiếp ứng sử của người bán đối với người mua, trong tâm lý và thị hiếu tiêu


dùng, rộng ra là trong cả quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh với toàn bộ các khâu, các
điều kiện liên quan của nó… nhằm tạo ra các chất lượng hiệu quả kinh doanh nhất định.
Văn hóa kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố kinh doanh vào việc sử dụng các hoạt
động kinh doanh của chủ thể, cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá
trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn địnhvà đặc thù của họ.
Đối với một người làm kinh doanh hay tổ chức kinh doanh cụ thể thì văn hóa tồn tại
tiềm ẩn trong họ như một nguồn lực hệ giá trị… mà muốn khơi dậy phát huy cần có thời
gian, môi trường và sự tác động phù hợp. Văn hóa kinh doanh của các nhà kinh doanh
được nhân biết trên hai qua điểm chính.

Một là: các nhân tố văn hóa( hệ giá trị, tâm lý dân tộc, triết lý chung mà chủ thể lựa
chọn từ văn hóa dân tộc) được vận dụng từ quá trình kinh doanh tạo ra các giá trị hàng
hóa và dịnh vụ phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng có văn hóa.
Hai là: các giá trị sản phẩm văn hóa như hệ giá trị văn hóa triết lý tập tục riêng nghệ
thuật…. mà chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình hoạt động và làm kinh doanh của
họ, có tác dụng cổ vũ biểu dương dối với kiểu kinh doanh có văn hóa mà họ đang theo
đuổi. gói gọn lại là đây là lối sống văn hóa của của chủ thể kinh doanh.
Nền văn hóa kinh doanh: Xét về bản chất kinh doanh không chỉ gói gọn trong khâu lưu
thông, phân phối các chiến lược, thâm nhập thị trường đối với các sản phẩm của mình mà
nó còn bao quát các khâu có quan hệ hữu cơ nhau tính từ sản suất cho tới tiêu dùng. Có
nghĩa rằng xây dựng nền văn hóa kinh doanh là một việc làm có thực tế mà mục tiêu cụ
thể là nhằm làm cho toàn bộ quá trình sản suất kinh doanh, tức yếu tố đóng vai trò rất
quyết định đối với nền sản suất của đất nước ngày càng mang tính văn hóa cao thể hiện
cả ba mặt:
- Văn hóa doanh nhân: văn hóa thể hiện ở đội ngũ con người tham gia sản xuất kinh
doanh chủ yếu thể hiện ở trinh độ khoa học kỹ thuật, công nghệ và vốn tri thức tổng hợp,
ở kinh nghiệm thực tiễn và các kỹ năng, phương pháp tác nghiệp, ở năng lực tổ chức sản


suất kinh doanh và sự nhạy bén với thị trường, đạo đức làm việc và phẩm hạnh làm
người, ở ý thức công dân và sự giác ngộ về tính tị.
- Văn hóa thị trường: thể hiện trong cơ cấu tổ chức, hệ thống pháp chế, các chính sách
chế độ, trong mọi hình thức hoạt động tổ chức liên quan đến quá trình sản xuất kinh
doanh, gồm cả sự cạnh tranh tất cả nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi tốt
đẹp…
- Văn hóa doanh nghiệp: tập chung và tỏa sáng trong các thiết chế, các đơn vị tổ chức
sản xuất kinh doanh thể hiện qua các biểu chưng chung thuộc về hình thức cùng các yếu
tố tạo nên thương hiệu của doanh nghiệp qua năng lực, phẩm chất, trình độ tổ chức sản
xuất kinh doanh tạo ra chất lượng sản phẩm và những thành tích, truyền thông qua phong
cách giao tiếp ứng xử cùa toàn đơn vị trong quá trình sản xuất kinh doanh…

=> Ba mặt trên là ba mặt ba bộ phận hợp thành một nền văn hóa kinh doanh theo nghĩa
toàn vẹn nhất, trong dó vị trí mang tính chất quyết định là đầu mối trung tâm của quá
trình xây dựng nền văn hóa kinh doanh hiện nay.
3. Vai trò của văn hóa trong kinh doanh
a, Văn hoá với tư cách là tri thức, kiến thức tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển
Sản xuất kinh doanh chính là quá trình con người sử dụng các tri thức, kiến thức tích
luỹ được để tạo ra các giá trị vật chất mới. Các tri thức này có thể biểu hiện dưới hình
thái ý thức, gắn liền với tư liệu sản xuất và người lao động. Khối lượng các tri thức, kiến
thức đó bản thân nó đã là các giá trị văn hoá, đồng thời nó cũng được huy động và sử
dụng vào sản xuất – kinh doanh trong môi trường văn hoá. Nếu không có môi trường văn
hoá trong sản xuất – kinh doanh thì không thể sử dụng được các tri thức, kiến thức đó, và
đương nhiên không thể tạo ra hiệu quả sản xuất, không thể phát triển sản xuất – kinh
doanh.


Với quan hệ giữa tri thức và kinh doanh như vậy, bắt buộc các giá trị văn hoá dưới
dạng tri thức, kiến thức phải được đảm bảo vào sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo cho
quá trình sản xuất kinh doanh được phát triển.
b, Các yếu tố văn hoá với tư cách là những biểu hiện của trình độ cao trong sinh hoạt xã
hội
Sản xuất kinh doanh không chỉ là quá trình con người sử dụng các tư liệu sản xuất và
chiếm hữu vật chất mà con là các mối quan hệ giữa con người với con người. Sản xuất
kinh doanh là sự hợp tác và phân công lao động, đây là quan hệ cơ bản ở cả phạm vi hẹp
và phạm vi rộng. Giải quyết tốt mối quan hệ đó là đảm bảo điều kiện thành công của quá
trình sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân con người trong các mối quan hệ đó có những
đặc điểm tâm lý khác nhau, nguyện vọng lợi ích khác nhau, khác nhau cả về tuổi tác, về
những đặc thù mang tính dân tộc, tôn giáo....sự khác nhau đó dẫn đến sự khác nhau trong
sinh hoạt xã hội. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, những sự khác biệt về sinh hoạt
trong xã hội tuy không phải là yếu tố của quá trình đó, nhưng luôn thường trực ở mỗi con

người, mới chỉ lộ ra qua quá trình giao tiếp. Nếu quá trình giao tiếp không nắm bắt được
sự khác biệt đó sẽ dẫn đến những điều biểu hiện, hoặc xung đột về suy nghĩ và hành
động. Mỗi người trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu có trình độ am hiểu sâu sắc về
sinh hoạt xã hội sẽ tạo ra được các ấn tượng, các mối quan hệ tốt đẹp với người khác, tạo
được bầu không khí thoải mái tin tưởng lẫn nhau trong tập thể lao động, đảm bảo quan hệ
kinh doanh dễ dàng.
Các di sản văn hoá của một nền văn minh cổ xưa có vai trò tạo ra động lực tinh thần
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích so sánh các quá trình phát triển và tồn tại của một nền văn minh giúp cho con
người hiện đại nhìn lại từ quá khứ, biết được khả năng của chính dân tộc mình, từ đó xem
xét hiện tượng và hướng tới tương lai.
c, Các yếu tố văn hóa tạo sự phát triển cho kinh doanh


Các yếu tố văn hoá trong kinh doanh tạo sự phát triển hài hoà, lành mạnh của mỗi quốc
gia, tạo ra sức sống của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, tạo ra sức mạnh
cộng đồng cho phát triển, tạo điều kiện cho tái sản xuất lao động, góp phần nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh...
Mọi nền sản xuất, suy cho cùng đều nhằm thoả mãn ngày càng cao các lợi ích vật chất
và tinh thần của con người. Đó vừa là mục tiêu, vừa là động cơ thúc đẩy hành động của
con người. Nếu quá trình kinh doanh chỉ vì lợi nhuận đơn thuần như vậy thì về mặt kinh
tế, quốc gia đó sẽ phát triển lệch lạc những ngành và lĩnh vực ít lợi nhuận sẽ không phát
triển được và do vậy không thể đáp ứng được mọi nhu cầu của con người. Về mặt xã hội,
con người sẽ mất nhân cách đạo đức xã hội xuống cấp, tội ác gia tăng.
Nói đến kinh doanh, là nói đến việc sử dụng tri thức và kiến thức. Sử dụng tri thức đó
đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa cá nhân, các cộng đồng người để khai thác hết
kho tàng tri thức đó phục vụ cho sản xuất kinh doanh, trí tuệ của mỗi người sẽ bổ sung
cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự kết hợp đó là nét
đẹp văn hoá trong kinh doanh và chính nó tạo ra sức mạnh của tập thể, của cộng đồng.
Phục vụ đáp ứng những nhu cầu cụ thể của con người về sản phẩm hàng hoá và dịch

vụ. Những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đó ngoài yêu cầu về số lượng và chất lượng
nhất định còn đòi hỏi những yêu cầu về thẩm mỹ, tính tiện lợi khi sử dụng. Có thể coi đó
là những đòi hỏi của văn hoá tiêu dùng, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nào đáp ứng
được những đòi hỏi đó là đáp ứng văn minh tiêu dùng và sẽ có sức sống trên thị trường.
Để đạt được điều đó, sản xuất kinh doanh phải gắn liền với các yếu tố văn hoá, thông qua
việc tiếp cận các yếu tố văn hoá mà chọn lọc và vật chất hoá chúng trong sản phẩm của
mình cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoà là món ăn tinh thần không thể thiếu của đời sống con người, như
những nhu cầu vật chất khác. Trong quá trình hoạt động lao động, sự căng thẳng về cơ
bắp và thần kinh diễn ra thường xuyên, gây ra mệt mỏi và căng thẳng về tâm lý. Đưa các
yếu tố văn hoá vào sản xuất kinh doanh từ việc thiết kế nơi làm việc, các thiết bị và dụng


cụ làm việc sẽ giảm bớt được trầm uất của những căng thẳng đó. Đặc biệt đưa các hình
thức hoạt động văn hoá vào trước giờ làm việc có thể tạo ra hứng phấn lao động, vào thời
gian nghỉ ngơi và cuối giờ làm việc có thể nhanh chóng xoá đi sự căng thẳng và mệt mỏi
về tâm lý giúp con người nhanh chóng phục hồi sức lực hơn.

II. THỰC TRẠNG
1. Tại sao phải xây dựng văn hóa kinh doanh?
Xây dựng văn hóa kinh doanh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Văn hóa kinh doanh góp phần thúc đẩy sự phát triển
bền vững của doanh nghiệp, thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, văn hóa kinh doanh là nguồn lực cho sự phát triển của doanh nghiệp
- Trong tổ chức và quản lý kinh doanh
Vai trò văn hóa thể hiện ở sự lựa chọn phương hướng kinh doanh, sự hiểu biết về sản
phẩm, dịch vụ, về những mối quan hệ giữa người với người trong tổ chức, về việc biết
tuân theo các nguyên tắc và quy luật của thị trường; ở việc phát triển và bảo hộ những
văn hóa có bản sắc dân tộc. Ngoài ra văn hóa kinh doanh còn được thể hiện thông qua
việc hướng dẫn và định hướng tiêu dùng thông qua chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, một

phong cách văn hóa trong kinh doanh,… Khi tất cả những yếu tố văn hóa đó kết tinh vào
hoạt động kinh doanh tạo thành phương thức kinh doanh có văn hóa thì đây là một nguồn
lực rất quan trọng để phát triển kinh doanh.

Nếu không có môi

trường sản xuất văn hóa trong sản xuất kinh doanh thì không thể sử dụng các tri thức,
kiến thức về kinh doanh và đương nhiên không thể tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ, dẫn
tới không tạo ra hiệu quả và không thể phát triển kinh doanh được.
- Trong giao tiếp kinh doanh
Đặc biệt là trong mối quan hệ giữa mua và bán, khi giao tiếp với khách hàng, văn hóa
kinh doanh thực sự trở thành một nguồn lực vô cùng quan trọng đối với chủ thể kinh


doanh trong quá trình hoạt động. Trong thái độ với đối tác kinh doanh, đối thủ cạnh tranh
mà có văn hóa chúng ta sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo ra các cơ
hội cho sự tồn tại và phát triển lâu dài.
- Trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể kinh doanh.
Văn hóa kinh doanh là sự gánh vác, tự nguyện những nghĩa vụ, trách nhiệm vượt lên
những trách nhiệm về kinh tế và pháp lý thỏa mãn được những mong muốn của xã hội.
Thứ hai, văn hóa kinh doanh là phương thức phát triển kinh doanh bền vững.
Trong hoạt động kinh doanh thì động cơ kiếm được nhiều lợi nhuận là động cơ quan
trọng nhất. Nhưng động cơ để các nhà kinh doanh kiếm lợi không chỉ vì nhu cầu sinh lý
mà còn vì những nhu cầu cấp cao đó là nhu cầu mong muốn được xã hội tôn trọng, mong
muốn được tự thể hiện và sáng tạo.
Kinh doanh phi văn hóa có thể khiến chủ thể kinh doanh giàu có hơn vì họ tìm mọi
cách để trốn tránh pháp luật, …Kiểu kinh doanh này không thể lâu bền,vì đó là lối kinh
doanh chụp giật, ăn xổi nên nếu bị khách hàng phát hiện sẽ bị tẩy chay, xã hội lên án.
Kinh doanh có văn hóa không thể giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả ngay vì nó
chú trọng đến việc đầu tư lâu dài, việc giữ gìn chữ tín. Khi đã bước qua giai đoạn khó

khăn thử thách ban đầu thì các nguồn đầu tư lâu dài như nhân lực, công nghệ,… phát huy
tác dụng và chủ thể kinh doanh sẽ có những bước phát triển lâu dài, bền vững.
Thứ ba, văn hóa kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh tế.
Khi trao đổi thương mại quốc tế sẽ tạo ra cơ hội tiếp xúc giữa các nền văn hóa khác
nhau của các nước, và việc văn hóa quốc gia đến kinh doanh là điều quan trọng quyết
định đến thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Thông qua việc tìm kiếm và
cung cấp hàng hóa cho thị trường quốc tế, giới thiệu những nét đẹp những tinh hoa của
dân tộc mình cho bạn bè thế giới.
2. Thực trạng nền văn hóa kinh doanh ở nước ta


a, Đặc điểm nền văn hóa kinh doanh của nước ta qua từng giai đoạn
* Văn hóa kinh doanh cổ truyền Việt Nam:
Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động kinh tế phổ biến là sản xuất nông
nghiệp tự cung tự cấp. Trong thời kỳ phong kiến, rất ít người giỏi về kinh doanh, khi
phân tích nguyên nhân không phát triển của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt
Nam nói chung, đã đưa ra một số nguyên nhân như sau:
- Người mình không có thương phẩm, tức là sản xuất kém, ít hàng hoá có uy tín.
- Không có thương hội, tức là không biết liên kết với nhau trong kinh doanh.
- Không có tín thực, tức là không biết giữ chữ tín.
- Không có kiên tâm, ít theo đuổi một việc gì đến cùng.
- Không biết trọng nghề, do chỉ chú trọng vào nghề nông, bỏ qua việc tìm hiểu và nâng
cao các nghề khác.
- Không có thương học, tức là không có kiến thức về kinh doanh.
Như vậy, trong văn hóa cổ truyền của chúng ta, yếu tố tích cực, phù hợp với kinh
doanh có phần ít hơn những yếu tố tiêu cực.
* Văn hóa kinh doanh Việt Nam trước thời kỳ đổi mới:
- Dưới thời Pháp thuộc: Sự giao lưu với văn hoá Pháp đã để lại một dấu ấn sâu đậm cho
văn hóa kinh doanh Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, kinh doanh trở thành
một ngành độc lập, không phụ thuộc vào nông nghiệp. Các ngành sản xuất công nghiệp

và tiểu thủ công nghiệp đều phát triển hơn trước. Thời kỳ này đã xuất hiện một tầng lớp
tư sản dân tộc, giành lại được độc quyền thương mại từ tay tư sản nước ngoài và bắt đầu
gây dựng lòng tự hào được làm nhà kinh doanh. Thương mại và ngoại thương đều phát
triển nhanh chóng. Đặc biệt, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX Việt Nam, dưới tên là
xứ Đông Pháp, đã đứng thứ hai thế giới về về xuất khẩu gạo, chỉ sau Mianma.


- Trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam bị phân chia thành hai miền: miền Bắc được giải
phóng khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền
Nam bị chiếm đóng, thay đổi theo chế độ thực dân mới của Mỹ. Do sự khác biệt này mà
văn hóa kinh doanh ở miền Bắc và miền Nam cũng phát triển theo những chiều hướng
khác nhau.
Văn hóa kinh doanh miền Bắc mang đặc tính của văn hóa kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, coi trọng công bằng xã hội nhưng không coi trọng hiệu quả, tiêm nhiễm bệnh chủ
quan, duy ý chí, cơ chế quản lý cồng kềnh, mang nặng tính quan liêu, coi rẻ kinh doanh
và thương nhân.
Ở miền Nam, qua giao lưu với văn hoá Mỹ, văn hóa kinh doanh nơi đây tiếp thu được
một số kiến thức, yếu tố cần thiết cho kinh tế thị trường như cơ sở hạ tầng, công nghệ,
kiến thức kinh doanh hiện đại, tác phong làm việc công nghiệp … nhưng cũng tiêm
nhiễm tâm lý vọng ngoại khá nặng nề , nhất là tôn sùng những gì của Mỹ, cùng một số
thói xấu khác như chủ nghĩa thực dụng, lối sống gấp, thích hưởng thụ, xa rời bản sắc dân
tộc…
- Sau năm 1975, đất nước thống nhất, hai miền Nam, Bắc cùng bước vào con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, hai nền văn hóa kinh doanh dần hoà hợp với nhau, trở thành một
nền văn hóa kinh doanh thống nhất trong toàn quốc nhưng vẫn bảo tồn một số khác biệt
giữa hai miền. Nền văn hóa kinh doanh này tuy có bổ sung cho văn hóa kinh doanh cổ
truyền một số ưu điểm như: coi trọng công bằng xã hội, nâng cao vị thế cho phụ nữ, có
tinh thần vượt khó vươn lên… nhưng lại làm tăng lên một số yếu tố tiêu cực cho kinh
doanh như: tâm lý coi rẻ nghề buôn nói chung và kinh doanh nói riêng, tính chủ quan
duy ý chí, cơ chế tổ chức quan liêu, thiếu hiệu quả, tính cứng nhắc, kém năng động với

thị trường… Đây là một trở ngại khá nặng nề cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các
nhà kinh doanh Việt Nam nói riêng khi bước vào cơ chế thị trường.
* VHKD Việt Nam thời kỳ đổi mới:


Thời kỳ đổi mới đã mang lại một luồng sinh khí mới cho hoạt động kinh doanh và đã
làm thay đổi cơ bản văn hóa kinh doanh Việt Nam. Ảnh hưởng của kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế đến văn hóa kinh doanh Việt Nam có thể xem xét theo hai
hướng:
♣ Những tác động tích cực
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa kinh doanh Việt Nam có 4
đặc điểm nổi bật:
- Tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thể thành viên
doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành.
- Tính quy phạm: văn hóa kinh doanh có công năng điều chỉnh kết hợp: trong trường hợp
lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công nhân viên chức phải phục tùng
các quy phạm, quy định của văn hóa kinh doanh đã đề ra, đồng thời doanh nghiệp cũng
phải biết lắng nghe và cố gắng giải quyết hài hòa để xóa bỏ xung đột.
- Tính độc đáo: Doanh nghiệp đều cố gắng xây dựng văn hóa kinh doanh độc đáo trên cơ
sở văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa kinh doanh phải bảo
đảm tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa các doanh nghiệp khác
nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình.
- Tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa kinh doanh mới
được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa.
Bên cạnh đó, vai trò của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói riêng đã được cải
thiện đáng kể trong con mắt xã hội. Trong cuộc điều tra xã hội học ở thành phố Hồ Chí
Minh, số người được hỏi đã cho rằng, "Kinh doanh là một nghề có ích cho xã hội" chiếm
94%, "Người biết làm giàu là người đáng quý trọng" chiếm 74%. Việc nhiều người có
bằng cấp cao, thậm chí từng làm cán bộ quản lý trong cơ quan nhà nước vẫn chọn nghề
kinh doanh, chứng tỏ xã hội đã thừa nhận tầm quan trọng của nghề này. Đây là một

chuyển biến đáng kể so với quan niệm truyền thống "nhất sĩ, nhì nông" của Việt Nam.


Trình độ chung của doanh nhân cũng được cải thiện đáng kể. Theo kết quả điều tra của
đề tài KX.07.14 thì số giám đốc có trình độ đại học chiếm 77%. Không chỉ những người
có học hành mới bắt tay vào kinh doanh, mà ngay cả những người đang là doanh nhân
cũng mong muốn được học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Điều này chứng tỏ doanh
nhân hiện nay đã ý thức được tầm quan trọng của kiến thức khi tiến hành kinh doanh,
nhất là trong thời buổi mở cửa và hội nhập.
Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã được cải thiện đáng kể. Khi được
hỏi về động cơ kinh doanh, 41,4% số doanh nhân trả lời là "muốn làm gì có ích cho xã
hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự quyết định công việc của mình"; 13,5% là do "muốn
phát huy tối đa khả năng của mình"; 16,4% do "muốn tiếp tục công việc của gia đình hiện
nay"; 9,7% do "muốn kiếm nhiều tiền hơn"; 5,1% do "công việc trước đây không thích
hợp" và 1,3% do "không có việc làm". Những con số này cho thấy doanh nhân Việt Nam
có trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao. Điều này khẳng định rằng, doanh nghiệp kinh
doanh không chỉ vì mục đích cá nhân, mặc dù động cơ này hoàn toàn là chính đáng.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam
phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình kinh doanh mới ra đời như các xí nghiệp liên doanh
với nước ngoài, các hình thức kinh doanh quốc tế. Lợi nhuận thu được từ kinh doanh
cũng tăng lên, góp phần khẳng định và nâng cao vai trò của kinh doanh nói chung và
doanh nhân nói riêng trong xã hội Việt Nam.
Tiến trình hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế
giới, môi trường kinh doanh được mở rộng, sôi động, đã tạo điều kiện cho các doanh
nhân Việt Nam có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh
phù hợp với yêu cầu của thị trường. Các doanh nhân Việt Nam được tiếp xúc với các kỹ
năng hoàn toàn mới như marketing, xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ… làm phong phú thêm cho kho tàng kiến thức về kinh doanh của người Việt Nam.
Quá trình cọ xát với thị trường quốc tế đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc của người Việt
Nam, giúp các doanh nhân Việt Nam xích lại gần nhau, khiến họ kinh doanh không chỉ vì



lợi nhuận mà còn để tôn vinh Việt Nam trên thị trường quốc tế. Các công ty của Việt Nam
có thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài như Trung nguyên, Legamex, Vinataba… đều
khẳng định: mục đích bảo vệ thương hiệu của họ không phải chỉ để thu được lợi nhuận,
mà còn để bảo vệ uy tín của dân tộc.
♣ Những tác động tiêu cực
Tác động tiêu cực lớn nhất của cơ chế thị trường đến văn hóa kinh doanh Việt Nam chính
là sự chao đảo về các hệ thống giá trị trong mỗi con người Việt Nam nói riêng và xã hội
Việt Nam nói chung. Việt Nam vốn là một nước có nền văn hoá nông nghiệp, trọng tĩnh,
với hệ thống các giá trị thiên về tinh thần hơn là vật chất, như thích hoà hiếu, trọng tình,
ham danh hơn ham lợi, trọng thể diện… Những yếu tố này, một mặt cản trở sự phát triển
kinh tế của đất nước, mặt khác lại giúp cho tôn ti, trật tự trong xã hội được bảo đảm, các
giá trị đạo đức ít bị xáo trộn.
Khi bước vào cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh được Nhà nước khuyến khích, một
số thương nhân giàu lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều người trẻ tuổi thành công trên
thương trường. Thực tế này đã làm đảo lộn những quan niệm truyền thống, tôn ti, trật tự
cũng không còn được coi trọng như trước vì kinh nghiệm của lớp người đi trước bị cho là
không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Sự khủng hoảng này là tất yếu khi chúng ta từ mô
hình kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên,
điều đáng nói là, trong khi những giá trị tinh thần cũ bị chê bỏ, thì chưa có những giá trị
tinh thần mới để lấp vào chỗ trống đó. Vì thế, trong xã hội, điều tốt và điều xấu nhiều khi
lẫn lộn, con người Việt Nam bị chao đảo, thiếu chuẩn mực để hướng tới. Điều này cũng
ảnh hưởng nhiều đến văn hóa kinh doanh Việt Nam. Xuất phát từ thực tế là nhiều doanh
nghiệp thành công không phải bằng con đường làm ăn chân chính, đã làm một số doanh
nhân mất lòng tin, mặt khác, môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa ổn định, chưa
ủng hộ những doanh nhân làm ăn nghiêm chỉnh. Điều này nảy sinh tư tưởng làm ăn gian
dối, đánh quả, chụp giật… trong các doanh nhân, thậm chí còn có quan niệm rằng, ở Việt
Nam chỉ có làm ăn lắt léo mới có thể trụ được trên thương trường. Cách nghĩ như vậy, về



lâu dài sẽ ảnh hưởng nguy hiểm đến nền tảng đạo đức xã hội và hình ảnh của đất nước
Việt Nam trên trường quốc tế.
Các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, văn hoá Việt Nam khá ôn hoà. Chúng ta không quá
khắt khe về tôn giáo như người Trung Đông, không có kỷ luật để khép mình vào tập thể
như người Nhật Bản, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người Italia, không
tự hào về chủng tộc như người Hoa… Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính
khoan dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có
điểm tựa vững chắc về tinh thần. Số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt
Nam kinh doanh không bắt nguồn từ truyền thống gia đình, lại xuất thân từ những gia
đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến thức và trình độ.
Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã làm nhiều doanh nhân có tham
vọng không giới hạn trong việc làm giàu và tích luỹ tư bản.
Ví dụ như những vụ án kinh tế gần đây như Lã Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Bé Tư, vụ
công ty Đông Nam …, đã cho thấy khi quyền lực, cơ hội được đặt vào tay những con
người hạn chế về trình độ và tư cách đạo đức, thì có thể làm nảy sinh những tham vọng
tội lỗi vô hạn đến như thế nào. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính,
nhưng việc mưu cầu lợi nhuận đến mức bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn như vậy
quả là một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng văn hóa kinh doanh của Việt Nam.
Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn
hạn, hay thay đổi và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Vì vậy,
theo nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, bối cảnh và môi trường kinh tế Việt Nam thuộc
loại "xã hội thiếu chữ tín". Trong bối cảnh kinh tế thị trường, khi các mối quan hệ được
mở rộng, điểm yếu này càng có nguy cơ bộc lộ rõ ràng, thể hiện ở tầm vĩ mô là việc các
chính sách của Chính phủ thường hay thay đổi, và khi thay đổi lại không cần tính đến
quyền lợi của những người có liên quan. Còn ở tầm vi mô, theo nhiều nhà kinh doanh
nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do
khách quan để khước từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với



các đối tác nước ngoài. Chừng nào các nhà quản lý và doanh nhân Việt Nam còn chưa
nhận ra tầm quan trọng của chữ tín trong mọi mối quan hệ, thì chúng ta còn khó lấy được
niềm tin của đối tác. Thậm chí, về lâu dài, sẽ có ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của Việt
Nam trên thị trường thế giới. Đặc biệt là các mặt hàng xuất khẩu nông sản như gạo, cà
phê, tiêu, điều…các doanh nghiệp nhỏ, lẻ làm ăn theo kiểu chụp giật, thiếu tinh thần cộng
đồng, thiếu tính liên kết dẫn đến việc bị các thương nhân nước ngoài ép giá, một số
doanh nghiệp chào bán với giá thấp làm cho giá cả mặt bằng trên thị trường giảm xuống.
Việt Nam là đất nước đang phát triển, với cơ chế mở cửa với nhiều chính sách thu hút
đầu tư trong và ngoài nước, vì vậy các khu công nghiệp, các nhà máy được đưa vào hoạt
động ngày càng nhiều. Tuy nhiên, với hàng trăm khu công nghiệp đang hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam nhưng lại có rất ít doanh nghiệp có hệ thống xử lý chất thải đúng quy
định, có nhiều doanh nghiệp đã có hệ thống xử lý chất thải tuy nhiên không đưa vào vận
hành bởi vì việc đầu tư, vận hành hệ thống bảo vệ môi trường sẽ làm giảm đáng kể lợi
nhuận của doanh nghiệp. Hệ lụy là môi trường sống xung quanh doanh nghiệp bị hủy
diệt, xuất hiện ngày càng nhiều làng ung thư, ngày càng nhiều dòng sông chết…Tuy
nhiên, giá trị mà một doanh nghiệp không thực hiện cam kết bảo vệ môi trường mất đi
lớn hơn rất nhiều so với mức lợi nhuận thu được trước mắt từ việc xả thải ra môi trường.
Đó là lòng tin trên thị trường. Công ty Vedan Việt Nam là một ví dụ điển hình về hậu quả
của việc không thực hiện cam kết bảo vệ môi trường. Là một doanh nghiệp lớn, sản phẩm
tràn ngập thị trường tuy nhiên lại không sử dụng hệ thống xử lý chất thải mà cho xả thải
trực tiếp ra môi trường gây chết sông Thị Vải, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
cộng đồng. Hậu quả là ngoài việc công ty Vedan Việt Nam bị xử lý và bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật thì từ đó cộng đồng người Việt Nam cũng đã đồng loạt
tẩy chay các sản phẩm của Vedan.
Thiết nghĩ, để bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững thì ngoài việc các doanh
nghiệp cần xây dựng đạo đức kinh doanh gắn với trách nhiệm xã hội thì các cơ quan quản
lý cần thực thi các biện pháp mạnh tay, đồng loạt với tất cả các doanh nghiệp không đảm
bảo quy định về cam kết bảo vệ môi trường.



Nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới chỉ bắt
đầu, văn hóa kinh doanh Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như thử thách
to lớn trên bước đường phát triển sắp tới. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ
những mặt mạnh và yếu trong văn hóa kinh doanh Việt Nam, từ đó phát huy những mặt
tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực do tác động của cơ chế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế với văn hoá Việt Nam nói chung và văn hóa kinh doanh nói riêng để có
thể tích cực, chủ động trong hội nhập, đảm bảo xây dựng một nền văn hóa kinh doanh
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI
b, Thành tựu và hạn chế
* Thành tựu
Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh dần dần xoá đi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung và đã vươn lên phát huy
mạnh mẽ các tiềm lực của mình.
- Về mặt nông nghiệp, nước ta đạt được nhiều thành tựu nổi bất với các thời kỳ trước.
Sản lượng lương thực phát triển tốt bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo
nguồn xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới...
- Về công nghiệp, nhìn chung các sản phẩm quan trọng có tác động đến các ngành kinh tế
đều tăng khá như điện, sắt thép, phân bón...chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giành
được sự tín nhiệm của người tiêu dùng, gần 100 mặt hàng được bình chọn là hàng Việt
Nam chất lượng cao, có chỗ đứng trên thị trường. Có thể nói hàng Việt Nam chất lượng
cao đã đáp ứng được phần nào nhu cầu, thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng ở hai
khía cạnh: sản phẩm tiêu dùng và vật phẩm văn hoá.
- Trong lĩnh vực dịch vụ, ngành thương mại đã đạt có sự tăng trưởng vượt bậc. Xuất khẩu
tăng đều qua các năm.


=> Qua đó, thấy được nét văn hoá trong kinh doanh được thể hiện rõ ở các điểm: kinh
doanh đạt năng suất cao, giá thành hạ, tạo ra nhiều sản phẩm (giá trị) và giá trị thặng dư
cho xã hội, sản phẩm đạt chất lượng cao, được xã hội và người tiêu dùng trong và ngoài

nước chấp nhậ n, hoạt động kinh doanh đảm bảo chính sách, tuân thủ pháp luật, làm tròn
nghĩa vụ với nhà nước (thuế) tạo ra lòng tin (chữ tín) vững chắc, ổn định đối với khách
hàng trong và ngoài nước. Các đơn vị như nông trường Sông Hậu Cần Thơ...Công ty mía
đường Lam Sơn (Thanh Hoá). Công ty sữa Việt Nam Vinamilk là những điển hình về văn
hoá kinh doanh.
* Hạn chế
- Thiếu tính liên kết cộng đồng. Hiện nay, không ít doanh nghiệp không thể cởi mở, liên
kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ
quả là không những không nâng cao sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua tranh
bán, thậm chí hạ uy tín của nhau.
- Nhẹ chữ tín. Giữ chữ tín là điều kiện của thành công, sự thất bại đối với doanh nghiệp,
doanh nhân không giữ chữ tín là sự thất bại báo trước, thời gian chỉ có thể là sớm hay
muộn mà thôi. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam
không coi trọng chữ tín, hay việc dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực hiện
cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Từ cá nhân đến
cơ chế, phải đau lòng nhận ra là người Việt chưa tin người Việt.
- Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém
thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi
nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt
hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu, sau đó các doanh nghiệp thường tìm cách
xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn
nhau và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục
diện chung. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh
doanh ở quy mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường. Những


doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng chỉ tương đương với những doanh nghiệp vừa và
nhỏ của các nước phát triển.
- Tầm nhìn hạn hẹp tư duy ngắn hạn. Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân
Việt Nam thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa

số các doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng
đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia
vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới. Vì thiếu tầm nhìn nên doanh
nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu
tư vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh nghiệp
nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn ở Việt Nam thì
nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang
tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán mà quên đi các lĩnh
vực kinh doanh cốt lõi.
- Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt” , dựa dẫm. Ở nước ta đặc tính coi trọng quan hệ cá
nhân, xu hướng cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào bảo hộ của nhà nước
vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một
hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người
kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc người mua với người có thẩm quyền quyết
định của bên đối tác mua hoặc bán một số lại câu kết với những người xấu trong bộ máy
nhà nước. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào
năng lực. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài, mạnh hơn là cả năng lực,
và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều từ
quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí
dùng cả quyền lực chính sách để bóp méo lực lượng thị trường… chính là những hiện
tượng phổ biến, gây bức xúc trong toàn xã hội.
3. Chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam


Xây dựng nền văn hóa kinh doanh là chúng ta xây dựng một nền kinh tế trong đó phải
biết ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới nền kinh doanh bằng cách mở
rộng giao lưu, tiếp thu những điều hay của nền kinh tế thế giới mà trước hết là tập trung
lấy phát triển văn hóa doanh nghiệp làm điểm tựa đầu tiên.
Một số giải pháp cho chiến lược xây dựng nền văn hóa kinh doanh ở Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh

Môi trường kinh doanh là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất tới việc xây dựng văn hóa kinh
doanh của doanh nghiệp. Cũng giống như mỗi cá nhân, nếu sống trong một tập thể tốt,
một môi trường xã hội lành mạnh thì cá nhân đó có nhiều khả năng hình thành nhân cách
tốt. Vì vậy, Nhà nước trước hết phải xây dựng được khuôn khổ hành lang pháp lý chặt
chẽ, công bằng, bảo đảm những doanh nghiệp có hành vi thiếu văn hóa kinh doanh, như
gây ô nhiễm môi trường, làm hàng giả, hàng kém chất lượng gây ảnh hưởng đến người
tiêu dùng, những doanh nghiệp không tôn trọng lợi ích của người lao động, trốn thuế,…
đều bị xử lý một cách công minh, nghiêm khắc. Ngược lại, pháp luật cũng cần có những
quy định có tính chất khuyến khích, động viên, ưu đãi những doanh nghiệp làm đúng
pháp luật, có nhiều đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Chỉ có một khuôn khổ pháp lý
hoàn chỉnh tạo nên một môi trường kinh doanh lành mạnh mới là “mảnh đất màu mỡ” để
nuôi dưỡng và phát triển văn hóa kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp.
Thứ hai, nâng tầm văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan công quyền
Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, cần phải chống tiêu cực trong bộ máy quyền lực,
loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy Đảng và Nhà nước từ trung
ương đến các địa phương, các ngành, các cấp, làm cho bộ máy Đảng, Nhà nước trong
sạch, thực sự công minh trong thi hành pháp luật mới có thể có được môi trường kinh
doanh công bằng, bình đẳng và thực sự xây dựng được văn hóa kinh doanh. Bởi lẽ,
không thể đòi hỏi doanh nghiệp trong sạch nếu bộ máy nhà nước còn có tham nhũng,
cũng như không thể đòi hỏi doanh nghiệp phải có văn hóa trong khi viên chức nhà nước
lại ứng xử tư lợi và thiếu văn hóa. Nếu trong đội ngũ cán bộ, công chức có một bộ phận


×