Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHÂN hóa GIÀU NGHÈO ở VIỆT NAM và một số GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG PHÂN hóa GIÀU NGHÈO dưới tác ĐỘNG TOÀN cầu hóa KINH tế HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.2 KB, 17 trang )

Phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam và một số giải pháp cơ
bản nhằm khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo dưới
tác động của toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, của lực lượng sản xuất, quá trình quốc tế hoá
đời sống kinh tế - xã hội diễn ra nhanh chóng và rộng lớn hơn bao giờ hết. Sự phát
triển đó, đã làm thay đổi căn bản qui trình sản xuất của nền kinh tế - xã hội, buộc mỗi
quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ muốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống thì phải
mở cửa, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy có hiệu quả các lợi thế trong
phân công lao động và hợp tác quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Toàn
cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, chủ yếu của
quan hệ thế giới hiện nay.
Trong xu thế chung ấy, toàn cầu hoá kinh tế đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi
các quốc gia nói chung, đối với Việt Nam nói riêng phải có chiến lược hội nhập phù
hợp với nền kinh tế khu vực và thế giới. Quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế với lộ
trình hợp lý đã và đang tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Song, cũng cần phải nhận thấy rằng, toàn cầu hoá kinh tế luôn hàm chứa tính
hai mặt. Bên cạnh những cơ hội, thời cơ thuận lợi, toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt ra
nhiều nguy cơ, thách thức đối với nước ta, đặc biệt là sự phân hoá giàu nghèo ngày
càng sâu sắc trong xã hội.
Nhận thấy rõ tác động tiêu cực đó của toàn cầu hoá, Đại hội X của Đảng ta đã
khẳng định: “Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân


dân, giữa các vùng có xu hướng doãng ra”1. Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ
những vấn đề về mặt lý luận, thực tiễn xung quanh tác động tiêu cực của toàn cầu hoá
kinh tế đối với phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng và bức thiết.
1. Phân hoá giàu nghèo - hệ quả tất yếu của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng lịch sử ra đời gắn liền với chế độ tư


hữu, phân chia xã hội thành giai cấp và nhà nước. Cơ sở kinh tế của hiện tượng này là
sự bất bình đẳng trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và sự
phân phối thành quả lao động do cộng đồng làm ra. Trong các chế độ xã hội có áp bức
bóc lột, giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu, là người chiếm
giữ tư liệu sản xuất; còn giai cấp những người lao động đại biểu cho lực lượng sản xuất
phát triển, là người làm ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng lại bị giai cấp thống trị
tước đoạt, biến tài sản chung đó thành của riêng, phục vụ cho cuộc sống xa hoa truỵ
lạc, “ngồi mát ăn bát vàng”, sống trên lưng của người khác, đối lập với cuộc sống của
nhân dân lao động về lợi ích, thu nhập và mức sống, tạo ra hố sâu về phân hoá giàu
nghèo. Khi nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa, Mác và Ăngghen đã vạch trần bản
chất bóc lột giá trị thặng dư của giai cấp tư sản đối với người lao động, làm cho mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ngày càng gay gắt, không thể điều hoà,
đối lập về lợi ích. Bên cạnh đó, trong xã hội cũng có một số người do cơ may, gặp thời
hoặc có kinh nghiệm trong làm ăn đã phất lên nhanh chóng trở thành người giàu có…
Tất cả những hiện tượng ấy, làm cho xã hội ngày càng có sự phân hoá gia tăng về thu
nhập, mức sống chính là hố sâu ngăn cách giàu nghèo.
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế trên cơ sở quốc
tế hoá kinh tế, làm cho hoạt động kinh tế của một nước đã vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, từ đó làm cho hoạt động kinh tế và vận hành kinh tế có nội dung và ý nghĩa quốc
tế thì càng làm cho sự phân hoá giàu nghèo thêm sâu sắc, doãng cách giữa những nước
. ĐCSVN văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 63.

1


giàu với những nước nghèo và giữa những người giàu với những người nghèo trong
một quốc gia, dân tộc ngày một lớn. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan,
nhưng luôn hàm chứa tính hai mặt, vừa mang đến cơ hội vừa tạo ra thách thức. Xét về
tổng thể, toàn cầu hoá kinh tế có thể sẽ làm nảy sinh ra những bất cân bằng mới như,
sự bất cân bằng khi các nước tham gia vào quyết sách, sự bất cân bằng trong địa vị

giữa các nước, sự bất cân bằng trong lợi ích… Vì thế, toàn cầu hoá kinh tế sẽ mang
đến khoảng cách chênh lệch về phát triển kinh tế giữa các khu vực, các nước và trong
mỗi quốc gia, mỗi nhóm dân cư rộng hơn, dẫn đến phân hoá hai cực càng nghiêm
trọng hơn. Sự chênh lệch này, một mặt là do quá trình toàn cầu hoá đang bị các nước
tư bản phát triển thao túng, chi phối, nhằm phục vụ cho lợi ích của chính họ, buộc thế
giới cùng các nền kinh tế nhỏ, yếu phải cuốn theo, chấp nhận luật chơi mà các nước tư
bản phát triển đặt ra; mặt khác, trong quá trình toàn cầu hoá, nền kinh tế của mỗi nước
cũng tham gia và hưởng lợi từ nền kinh tế toàn cầu, song vị thế và khả năng, tiềm lực
của nền kinh tế mỗi nước lại khác nhau, nên lợi ích thu được từ toàn cầu hoá cũng khác
nhau. Do tính chất thâm nhập vào nhau, chi phối và phụ thuộc lẫn nhau, cạnh tranh
trực diện với nhau, nên những nền kinh tế mạnh sẽ là những nước thu lợi lớn, còn
những nền kinh tế nhỏ, kém phát triển tất yếu sẽ thu lợi ít hơn, thậm chí còn chịu thua
thiệt, bị ăn chặn, cướp đoạt lợi nhuận một cách vừa tinh vi vừa trắng trợn của các nước
tư bản phát triển. Tình trạng đó, làm cho các nước giàu lại càng giàu thêm và các nước
nghèo lại càng nghèo đi dẫn tới sự phân hoá càng trở nên sâu sắc. Theo một báo cáo
của Liên Hợp Quốc về phát triển con người năm 2000, trong vòng 5 năm( 1995 2000), 200 người giàu nhất thế giới đã nhân đôi tài sản của mình lên hơn 1000 tỉ USD;
cũng thời gian đó 1,3 tỉ người sống dưới mức nghèo khổ với thu nhập dưới 1 USD/
ngày. Trong khi các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỉ người bằng 1/5 dân
số thế giới đang chiếm 86 % GDP toàn cầu và 4/5 thị trường xuất khẩu thì các nước
nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới chỉ tạo ra được 1% GDP toàn cầu và chỉ chiếm
0,4 % kim ngạch xuất khẩu. Tỉ lệ khoảng cách GDP trên đầu người giữa các nước giàu


nhất và những nước nghèo nhất ngày càng gia tăng nhanh chóng, từ 31/1 vào những
năm 60, lên 61/1 vào những năm 90 và hiện nay là 74/1. “Đánh giá của Ngân hàng
Thế giới, năm 2004, GDP và GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 1.677 tỉ
USD và 1.290 USD/người; tương tự, con số này của Malaixia là 117 tỉ USD và 4.650
USD/người, của Philíppin là 97 tỉ USD và 1.170 USD/người, của Thái Lan là 159 tỉ
USD và 1.540 USD/người, của Việt Nam là 45 tỉ USD và 562 USD/người”1. . Thế
giới bị phân hoá thành hai cực giàu nghèo rõ rệt, điều này không chỉ biểu hiện ở sự

chênh lệch giữa các nước với nhau mà ngay trong một quốc gia cũng có sự phân hoá
rõ nét giữa những người giàu và người nghèo. Tính ngay ở các nước tư bản phát triển,
tình trạng phân hoá giàu nghèo cũng rất nhức nhối. Chẳng hạn như nước Mỹ, một siêu
cường kinh tế hàng đầu thế giới, tình trạng phân hoá giàu nghèo rất nghiêm trọng, sự
chênh lệch về tài sản giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn. Từ năm 1979 đến
năm 1999 sự chênh lệch giữa thu nhập bình quân của 5% gia đình giàu nhất nước Mỹ
với thu nhập bình quân của 20% gia đình nghèo nhất đã từ 10 lần tăng lên đến 19 lần.
Hiện nay, 15% số người giàu nhất nước Mỹ kiểm soát 85% GDP, còn 85% dân số chỉ
kiểm soát 15% GDP.
Vấn đề nghèo khó, đói rách và không có nhà ở ngày càng trầm trọng.
Theo báo cáo hàng năm của Hội nghị thị trưởng các thành phố Mỹ công bố
tháng 12/2001, trong các thành phố chủ yếu của Mỹ số người chị đói rách
không có nhà ở tăng nhanh trong năm 2001. Tại 27 thành phố điều tra, số
người yêu cầu cứu tế thực phẩm khẩn cấp tăng 24%, yêu cầu về nhà ở tăng
14%. Nguyên nhân gây nên đói kém là do thu nhập thấp, thất nghiệp, giá thuê
nhà cao, kinh tế suy giảm, chi phí y tế cao, cải cách phúc lợi…Ngày
2/11/2001, Bộ Lao động Mỹ cho biết số người dựa vào cứu tế để sống lên tới
4,02 triệu người - kỷ lục mới trong 19 năm qua. Khoảng 75 vạn người sống
trong tình trạng không có nhà ở thường xuyên. Hơn 2 triệu người Mỹ đã trải
. ĐCSVN Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 163.

1


qua cảnh không có nhà ở. Ban đêm những người này thường phải ngủ ở
những nơi không an toàn như đầu đường, trong thùng xe, trại tị nạn, công
viên…Không những thế, tại Mỹ giá trị tính mạng của người giàu và người
nghèo cũng khác nhau. Theo tờ “Giải phóng” của Pháp, sau sự kiện
11/9/2001, Quĩ bồi thường liên bang mà Mỹ xây dựng đã xác định phương
pháp phát tiền bồi thường cho người bị thiệt hại trong sự kiện này là căn cứ

vào tuổi tác, lương và số người trong gia đình để xác định mức bồi thường,
sau đó cộng thêm mức bồi thường về mặt tinh thần. Kết quả dựa theo phương
pháp này khiến mọi người ngạc nhiên: Nếu người bị hại là phụ nữ thì chồng
và con được bồi thường 500 nghìn USD, nhưng nếu người bị hại là nhà quản
lý kinh doanh ở phố Uôn thì được bồi thường 4,3 triệu USD. Sự chênh lệch
bồi thường này đã bị phản ứng mạnh mẽ, buộc chính phủ Mỹ cũng phải sửa
đổi cách làm.
Qua đây cho chúng ta thấy rằng, sự phân hoá giàu nghèo, sự gia tăng
bất công không chỉ đơn thuần là hệ quả tất yếu của toàn cầu hoá kinh tế mà
còn tuỳ thuộc vào bản chất chế độ chính trị, kinh tế và phân phối thu nhập.
Tuy nhiên điều cần khẳng định là, toàn cầu hoá đã làm đẩy nhanh và sâu sắc
tình trạng phân hoá giàu nghèo, do nó tạo ra cơ hội, lợi thế và lợi nhuận
không ngang bằng nhau giữa các chủ thể tham gia. Với sự thao túng của các
nước tư bản phát triển, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia nhằm mục đích
tối đa hoá lợi nhuận, tối thiểu hoá chi phí và lao động đã làm cho hai cực giàu
nghèo trên thế giới ngày một rõ rệt hơn. Kết quả là, những nước giàu, người
giàu ngày thêm giàu lên và những nước nghèo, người nghèo ngày một nghèo
đi.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải xem xét một căn nguyên khác
dẫn đến tình trạng phân hoá thế giới là do sự yếu kém của đời sống kinh tế ở
những quốc gia chậm phát triển, đi cùng với nó là trình độ dân trí thấp, vốn ít,


khoa học - công nghệ chậm phát triển, lạc hậu, cộng thêm với hiện tượng
chảy máu chất xám, chưa có lộ trình và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…
cũng làm cho các nước này ngày càng chênh lệch về khoảng cách giàu nghèo
với các nước phát triển. Ví như chỉ tính riêng nửa cuối thập niên 90 của thế kỷ
XX, hàng năm có tới 7 vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, trình độ cao của các
nước chậm phát triển và đang phát triển bị thu hút sang các nước tư bản làm
việc. Nhờ đó mà các nước phát triển có thể tiết kiệm được hàng năm từ 35 40 tỉ USD. Đây là một nghịch lý, làm cho các nước nghèo lại phải gánh nặng

thêm chi phí đào tạo cho các nước giàu và bị bóc lột chất xám một cách tinh
vi trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế. Vì thế làm cho phong trào đấu tranh
chống toàn cầu hoá cũng lan rộng khắp nơi trên thế giới, không chỉ giữa các
nước nghèo chống các nước giàu, mà ngay trong nội bộ các nước, đặc biệt là
ở các nước tư bản phát triển cũng diễn ra gay gắt nhằm chống lại sự áp đặt
kinh tế của các nước lớn, các tập đoàn kinh tế tư bản đầu xỏ để thiết lập quan
hệ kinh tế công bằng, bình đẳng vì sự phát triển lành mạnh của mỗi quốc
gia, dân tộc và sự tiến bộ của con người trong xu thề toàn cầu hoá kinh tế
thế giới hiện nay.
2. Tình trạng phân hoá giàu nghèo ở nước ta dưới tác động của
quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Từ phân tích trên cho chúng ta thấy rằng, toàn cầu hoá kinh tế đã làm
gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các nước cũng như trong phạm vi
mỗi nước. Việt Nam là một nước nghèo đang trong quá trình phát triển, “mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” 1, đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Thế nhưng sự
tham gia, hội nhập vào đời sống kinh tế thế giới của nước ta trong những
năm vừa qua, bên cạnh những mặt tích cực, thời cơ, thuận lợi thì toàn cầu
. ĐCSVN Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 112.

1


hoá kinh tế cũng đặt ra cho chúng ta nhiều nguy cơ và thách thức, trong đó
có sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét. Tình trạng này, cần phải được
xem xét một cách khách quan không phải khi nước ta tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực thì sự phân hoá giàu nghèo mới diễn ra mà nó đã
nảy sinh từ trước. Nhưng điều cần nói là do nước ta tham gia, hội nhập toàn
cầu hoá kinh tế trong điều kiện trình độ dân trí thấp, nền kinh tế chủ yếu là
sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh chưa cao, cơ sở hạ tầng thấp

kém… càng làm cho sự gia tăng về khoảng cách giàu nghèo nhanh hơn, tạo
ra sự chênh lệch lớn về mức sống và thu nhập giữa các lực lượng lao động
trong xã hội. Đây là một bất lợi, một khó khăn, thử thách đối với Việt Nam
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặc dù, nhờ thành tựu của 20 năm đổi mới, thu nhập và mức sống của
các tàng lớp dân cư đều tăng nhanh, song quá trình phân hoá giàu nghèo
giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng diễn ra nhanh chóng và phổ biến,
thể hiện ở mức chênh lệch giữa nhóm giàu nhất so với nhóm nghèo nhất
ngày càng tăng. Tính đến năm 2002, nếu so sánh 20% số hộ có thu nhập cao
nhất so với nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất thì chênh lệch là 8,14
lần; nếu so sánh 10% thì chênh lệch là 13,86 lần; còn nếu so sánh 5% thì
chênh lệch tăng lên 19,85 lần.
Sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
cũng khá rõ nét. Trên 90% số hộ nghèo nhất sống ở nông thôn, trong đó gần
1/3 là nông thôn miền núi, trung du phía Bắc; gần 2/3 số người thuộc nhóm
giàu nhất sống ở các vùng đô thị, trong đó gần 1/3 sống ở Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Mức chênh lệch thu nhập giữa khu vực đô thị và nông
thôn năm 1993 là 1,96 lần, đến năm 1998 tăng lên 3,66 lần và năm 2002 là
2,24 lần. Mức thu nhập bình quân đầu người vùng giàu nhất so với vùng
nghèo nhất năm 1992 - 1993 chênh lệch nhau 2,48 lần, đến năm 1998 tăng


lên 3,44 lần và năm 2002 là 3,18 lần… 1. Như vậy, từ năm 1993 đến 1998
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp dân cư có xu
hướng tăng liên tục, nhưng từ năm 1998 đến 2002 tăng chậm lại do tác động
tích cực của cơ chế, chính sách và đầu tư mạnh vào phát triển nông nghiệp,
nông thôn, vùng nghèo và xoá đói, giảm nghèo. Điều này, giúp chúng ta có
sự nhìn nhận đúng đắn về bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Tuy nhiên, mức độ phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay vẫn được

cộng đồng quốc tế đánh giá là ở mức thấp so với các nước đang phát triển. Ở
Việt Nam, chênh lệch giàu nghèo giữa 20% nhóm dân số có thu nhập cao
nhất so với 20% nhóm dân số có thu nhập thấp nhất chưa quá 10 lần, trong
khi đó mức chung của thế giới là 30 lần (năm 1960), 32 lần (năm 1970), 45
lần (năm 1980), 59 lần ( năm 1989) và 67 lần (năm 1999) 2.
Từ những thống kê trên cho chúng ta thấy rằng, phân cực giàu nghèo
là một hiện tượng xã hội đang diễn ra khá phổ biến ở nước ta, nhưng còn ở
mức độ cho phép, được cuộc sống thừa nhận và mọi người dân chấp nhận,
chưa trở thành mâu thuẫn lợi ích trong nội bộ nhân dân, quan hệ xã hội lành
mạnh, đồng thuận là yếu tố tích cực, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Do đó, cần tiếp tục khuyến khích không hạn chế làm giàu và đẩy mạnh
xoá đói, giảm nghèo, nhằm giữ vững khoảng cách giàu nghèo trong giới hạn
tối ưu, không để trở thành vấn đề xã hội bức xúc. Tuy nhiên, cần phải chỉ ra
nguyên nhân của nó để có giải pháp khắc phục.
Phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội tổng hợp chịu
tác động qua lại và đan xen nhau của nhiều yếu tố rất phức tạp. Bởi vậy,
nguyên nhân của hiện tượng gia tăng phân hoá giàu nghèo cũng rất đa dạng

. 20 năm đổi mới thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và phát triển văn hoá, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 177.
. Sdd, tr. 178.

1
2


và khác nhau. Trong phạm vi bài viết, chỉ nêu lên một số nguyên nhân cơ
bản từ tác động của toàn cầu hoá đối với hiện tượng này.
Nguyên nhân khách quan cơ bản đầu tiên do toàn cầu hoá tác động
đến phân hoá giàu nghèo là bắt nguồn từ quá trình tham gia kinh tế thị
trường của nước ta. Khi còn nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, phát

triển kinh tế đa thành phần và sản xuất hàng hoá thì sự phân hoá giàu nghèo
là một hiện tượng khách quan. Nếu để qui luật kinh tế thị trường điều tiết
một cách tự phát thì mức chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa
các vùng sẽ ngày càng xa hơn. Với mô hình phát triển của nước ta là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý, can thiệp và điều
tiết của Nhà nước là rất quan trọng và ngày càng tăng nhằm hạn chế sự gia tăng
khoảng cách giàu nghèo và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch này.
Trong kinh tế thị trường, nguyên nhân trực tiếp của phân hoá giàu nghèo
là từ quan hệ phân phối thu nhập. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phân phối theo lao động là nguyên tắc và là một trong những đặc trưng quan
trọng của chủ nghĩa xã hội. Nhưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
những năm trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp, với một
chính sách phân phối bình quân quá lâu đã làm hạn chế tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”1. Điều đó có nghĩa
là dưới chủ nghĩa xã hội, để thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng, vẫn phải
thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu kinh tế của bất bình đẳng trong thu nhập và
mức sống, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao
động, chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo trong một giới hạn cho phép là một
. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 88.

1


thực tế khách quan và tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, với quan điểm tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội trong từng bước phát triển, nếu Nhà nước có chính sách phát triển
kinh tế, tăng trưởng có lợi hơn cho người nghèo và thực hiện chính sách xã hội,

chính sách văn hoá đúng đắn vì hạnh phúc của nhân dân thì có thể phát huy mặt
tích cực của phân hoá giàu nghèo, tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế, đồng thời hạn chế sự bất bình đẳng xã hội, chính là hạn chế tác động tiêu
cực của toàn cầu hoá kinh tế đối với hiện tượng này.
Một nguyên nhân khác là toàn cầu hoá kinh tế khi xâm nhập vào Việt
Nam đã tạo ra những cơ hội không ngang bằng nhau cho các doanh nghiệp
trong sản xuất, kinh doanh và cạnh tranh. Đối với nước ta hiện nay, phần đa
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có qui mô vừa và nhỏ, nên
còn hạn chế về nhiều mặt kể cả khả năng quản lý, kinh doanh lẫn năng lực
sản xuất và cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Các doanh nghiệp Việt
Nam sau một thời gian dài hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung và
bao cấp, với một chính sách phân phối bình quân quá lâu đã làm hạn chế
tính năng động, sáng tạo và năng lực sản xuất, kinh doanh. Khi chuyển sang
cơ chế mới hoạch toán, kinh doanh theo kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
của chúng ta bắt nhịp còn chậm, nhiều lúng túng… Vì vậy, khả năng tham
gia, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là phải cạnh tranh gay gắt với các doanh
nghiệp nước ngoài lại càng khó khăn. Đây chính là thách thức lớn nhất đối
với các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện
nay. Cho nên vấn đề đặt ra, doanh nghiệp nào kịp thời đổi mới, thích nghi
với cơ chế mới, tỉnh táo, nhanh nhạy trong kinh tế thị trường, khai thác tốt
những lợi thế trong nước và những cơ hội do toàn cầu hoá mang đến thì tồn
tại, phát triển. Ngược lại, những doanh nghiệp nào không đủ khả năng thích


ứng kịp, không có năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và
quốc tế thì sẽ làm ăn thua lỗ và dẫn đến bị phá sản.
Thực tế cho thấy trong những năm qua, không ít doanh nghiệp Việt
Nam làm ăn ngày một tiến tới, khẳng định được uy tín và thương hiệu với
khách hàng trong và ngoài nước, nhưng bên cạnh đó cũng không ít doanh
nghiệp bị lao đao, làm ăn thua lỗ và phá sản. Hậu quả là, những ông chủ của

các doanh nghiệp này bị trắng tay, người lao động bị mất công ăn việc làm,
đời sống gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, rơi vào hàng ngũ những người
nghèo khổ. Mặt khác, do qui luật nghiệt ngã của kinh tế thị trường, mở cửa
và hội nhập làm cho tính khốc liệt trong cạnh tranh kinh tế thêm gay gắt tạo
ra ưu thế cho các doanh nghiệp lớn, mạnh về vốn, công nghệ hiện đại, làm
ăn phát đạt, ngày càng mở rộng sản xuất và giàu có. Đó chính là con đường
làm cho người giàu càng giàu thêm và người nghèo lại càng nghèo đi, tạo ra
sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các bộ phận trong dân cư.
Phân hoá giàu nghèo còn bắt nguồn từ qui luật phát triển không đều
giữa các vùng, miền trong thu hút đầu tư của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Do vị trí địa lý, điều kiện làm ăn ở từng vùng, miền khác nhau nên thu hút
đầu tư cũng khác nhau. Vùng có điều kiện kinh tế - xã hội, tự nhiên thuận lợi
phát triển nhanh, năng suất lao động cao, hấp dẫn thu hút các nguồn vốn đầu
tư, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến kết quả thu nhập của dân
cư cao hơn so với những vùng khó khăn và kém phát triển hơn. Trong kinh
tế thị trường, cạnh tranh ngày càng quyết liệt, trong khi đó khả năng cạnh
tranh của nền kinh tế giữa các vùng là không như nhau, nên sự chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các vùng càng lớn, các vùng chậm phát triển có nguy
cơ tụt hậu càng xa.
Phân hoá giàu nghèo là một thực tế khách quan, nhưng để hạn chế sự
gia tăng và tránh sự phân hoá giàu nghèo quá giới hạn cho phép nhằm giữ


vững định hướng xã hội chủ nghĩa lại phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố
và nguyên nhân chủ quan. Trong đó, chủ yếu là quá trình tham gia toàn cầu
hóa kinh tế, chính sách đầu tư của chúng ta chưa bảo đảm tăng trưởng trên
diện rộng, nhất là đầu tư cho phát triển nông thôn, các vùng khó khăn; vai
trò điều tiết của chính sách phân phối vĩ mô còn nhiều hạn chế, chưa loại trừ
được yếu tố lợi thế so sánh về ngành, nghề, điều tiết thu nhập cá nhân chưa
có kết quả, tự do chạy theo lợi nhuận của toàn cầu hoá kinh tế. Chi tiêu cho

phát triển xã hội và phúc lợi xã hội, nhất là y tế, giáo dục, văn hoá…còn
nghiêng về lợi nhuận cho người giàu, nhóm người có thu nhập thấp và ở
miền núi khó có cơ hội tiếp cận, đặc biệt là dịch vụ xã hội và phúc lợi xã hội
chất lượng cao; hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển mạnh nhằm bảo vệ,
hỗ trợ cho người nghèo khắc phục các rủi ru trong làm ăn của cơ chế thị
trường và những rủi ro xã hội khác như dịch bệnh, thiên tai… Cuộc đấu
tranh chống làm giàu phi pháp do buôn lậu và tham nhũng gây ra chưa có
kết quả; xoá đói, giảm nghèo chưa thật sự vững chắc và chưa gắn với phát
triển, tỉ lệ tái nghèo còn cao, nhất là ở vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu
số đời sống còn rất khó khăn. Điều này đã được Đảng ta chỉ rõ: “Kết quả
xoá đói, giảm nghèo chưa thật sự vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn lớn.
Khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân,
giữa các vùng có xu hướng doãng ra” 1.
3. Một số giải pháp cơ bản khắc phục tình trạng phân hoá giàu
nghèo dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế đối với nước ta
hiện nay.
Từ những nguyên nhân trên đã cho chúng ta thấy rằng, tác động của
toàn cầu hoá kinh tế đến sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta hiện nay là khách
quan. Song kết quả của những tác động đó đến mức độ nào còn tuỳ thuộc
. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 63.

1


vào nỗ lực chủ quan của nước ta. Nếu chúng ta nhận thức đúng và đưa ra
những giải pháp phù hợp thì tác động tích cực sẽ được nâng lên, thách thức
sẽ bị hạn chế và ngược lại, nếu không nhận thức đúng, hệ thống giải pháp
không đồng bộ, không sát thực tế thì tác động tiêu cực sẽ phát huy và tác
động tích cực sẽ bị hạn chế. Muốn khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo
thành công phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, đồng thời đột phá vào các

khâu trọng yếu, giải quyết tận gốc các nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ quá
trình toàn cầu hoá kinh tế đối với hiện tượng này. Trong đó, cần tập trung
vào một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động.
Xuất phát từ đặc điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu,
đa số người nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa… Vì vậy, để nâng cao thu nhập, mức sống cho nhân dân, giảm
bớt sự cách biệt về phân hoá giàu nghèo giữa các vùng miền, các khu vực
trong cả nước thì chúng ta không thể không tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn, miền núi. Chính công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn, miền núi sẽ làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh
tế ở các khu vực này theo hướng công, nông nghiệp và dịch vụ; giải quyết
được công ăn việc làm cho lực lượng lao động nông thôn, miền núi, khắc
phục được tình trạng lao động nông nhàn; tăng thu nhập, nâng cao mức sống
cho họ; mở ra những điều kiện, cơ hội thuận lợi để mọi người dân vươn lên
thực hiện xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng.
Bên cạnh đó, quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn còn phải định hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa
phương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Phải có
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, của từng địa


phương, nhất là vùng nghèo, xã nghèo, trong đó tập trung phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm, các vùng khó khăn như vùng Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ. Xây dựng các vùng nguyên liệu phục vụ cho sản
xuất trong nước và xuất khẩu, tăng cường đầu tư xây dựng các nhà máy chế
biến nông sản ở các địa phương trên cả nước, tìm đầu ra cho sản phẩm nông
nghiệp…Có thể nói rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay đang tạo ra những điều kiện, cơ hội thuận lợi để đẩy nhanh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; mở rộng thị trường
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp - một ưu thế của nước ta; tạo ra nhiều việc
làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và mức sống cho nhân dân góp
phần giảm bớt tỉ lệ người nghèo, hộ nghèo, thu hẹp dần khoảng các giàu
nghèo trong cả nước.
Hai là, Nhà nước phải có chính sách điều tiết thu nhập, kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động kinh tế trong quá trình hội nhập, ngăn chặn tình
trạng làm giàu bất chính.
Xét ở một góc độ nào đó, toàn cầu hoá đã tạo ra cơ may cho một số
người giàu lên nhanh chóng, nhưng cũng để lại nhiều rủi ro làm cho một bộ
phận trong xã hội nghèo đi nhanh chóng. Đối với những người có vốn gặp
điều kiện làm ăn thuận lợi, mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh, thu lợi
nhuận cao sẽ giàu lên nhanh chóng; còn với những người ít vốn, qui mô sản
xuất nhỏ, lẻ, thiếu kinh nghiệm trong làm ăn, trước sự cạnh tranh gay gắt của
cơ chế thị trường, toàn cầu hoá kinh tế lại càng gặp nhiều khó khăn, thách
thức, thậm chí bị phá sản, trắng tay. Trong xã hội ta, đa phần những người
lao động chân chính là những người nông dân, những người công nhân trong
các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ hoặc những công chức nhà nước làm việc
trong khối hành chính sự nghiệp, làm công ăn lương… Thu nhập của họ cơ
bản, chủ yếu chỉ bảo đảm cho duy trì cuộc sống tối thiểu, thậm chí nhiều gia


đình nông dân, công nhân còn nghèo nàn, thiếu thốn, không đủ tiền nuôi con
ăn học. Vì vậy, trước tác động của toàn cầu hoá kinh tế, của hội nhập quốc tế
hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có chính sách điều tiết thu nhập
trong xã hội; phải có những pháp lệnh rõ ràng, minh bạch hoá các thu nhập
cá nhân. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tham ô lãng, thực hiện
việc kê khai hoá tài sản cá nhân của những người có chức có quyền; đánh
thuế thu nhập với những người có thu nhập cao; kiểm soát chặt chẽ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, chống tình trạng khai man, khai

khống, trốn lậu thuế giá trị gia tăng và xử lý nghiêm các hành vi trên theo
đúng pháp luật. Cùng với những biện pháp đó, Nhà nước phải sớm hoàn
thiện chế độ, chính sách tiền lương cho các đối tượng có liên quan; thực hiện
nhiều hình thức phân phối lại trong xã hội; quan tâm trợ cấp cho những đối
tượng chính sách, người già, người cô đơn không nơi nương tựa; đa dạng
hoá các chính sách an sinh xã hội, hình thành quĩ phát triển cộng đồng, trước
hết ở thôn bản thuộc các xã đặc biệt khó khăn, các xã nghèo thuộc vùng có tỉ
lệ hộ nghèo cao…Có như vậy mới từng bước khắc phục được hố sâu khoảng
cách giàu nghèo, thực hiện được tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Ba là, tăng cường khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội
lực và ngoại lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm
nghèo ở nước ta hiện nay.
Một trong những biện pháp quan trọng để xoá đói giảm nghèo là phát
huy nguồn nội lực, bảo đảm điều kiện vật chất cho khắc phục tình trạng
phân hoá giàu nghèo. Phải coi đầu tư cho giảm nghèo là đầu tư cho con
người, đầu tư cho phát triển. Ngoài tăng sự hỗ trợ, đầu tư từ ngân sách Nhà
nước, cần có cơ chế thông thoáng, đa dạng hoá các nguồn theo hướng xã
hội hoá, huy động các nguồn lực tại chỗ, của các tổ chức đoàn thể, doanh


nghiệp, nhất là tổng công ty lớn và cộng đồng phục vụ cho phát triển kinh
tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo.
Cùng với khai thác phát huy sức mạnh nội lực, trước tác động của
toàn cầu hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nước ta đang có
nhiều cơ hội, thuận lợi để thu hút các nguồn vốn và đầu tư từ bên ngoài
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là khi chúng ta đã vào WTO
thì cơ hội đó lại càng rõ nét. Các nguồn vốn có thể thu hút thông qua con
đường tín dụng ưu đãi đầu tư FDI, ODA, các khoản vay của WB, ADB hay
từ viện trợ hoặc vay của các nước, các tổ chức phi chính phủ khác sẽ là

điều kiện tốt để chúng ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật
nuôi có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hoá. Đồng thời tạo điều
kiện cho Nhà nước thực hiện chính sách đầu tư và hỗ trợ đầu tư giải quyết
dứt điểm về cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo, trước hết là thuỷ lợi
nhỏ, trường học, trạm xá, đường dân sinh, điện, nước sinh hoạt, trung tâm
cụm xã…Do đó, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nếu chúng ta không
có chiến lược thu hút và khai thác tốt các nguồn tài chính từ bên ngoài thì
sẽ bở lỡ cơ hội quốc tế quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói
giảm nghèo, khắc phục một bước tình trạng phân hoá giàu nghèo đang diễn
ra nhanh ở nước ta.
Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong thực hiện
xoá đói giảm nghèo góp phần khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo.
Muốn khắc phục được khoảng cách phân hoá giàu nghèo, đòi hỏi phải
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương,
nhất là cấp cơ sở xã, phường, huyện, đưa chương trình giảm nghèo vào nghị
quyết của cấp uỷ, hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân, gắn xoá đói giảm nghèo
với phát triển kinh tế - xã hội trong xây dựng kế hoạch và phân bổ nguồn lực;
huy động sự tham gia của các đoàn thể, thành viên của Mặt trận Tổ quốc( Công


đoàn, Phụ nữ, Thanh niên, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh…), tiếp tục phát
động hưởng ứng “Ngày vì người nghèo”; nâng cao năng lực quản lý, tổ chức
triển khai xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các xã đặc biệt khó khăn; đẩy mạnh cải
cách hành chính, đưa công nghệ thông tin vào quản lý, theo dõi, giám sát hộ
nghèo, đồng thời phải kiểm tra hướng dẫn, thực hiện công khai minh bạch, dân
chủ về các nguồn vốn phục vụ cho xoá đói giảm nghèo.
Phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính lịch sử,
trong sự tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đã và
đang là cho hiện tượng này diễn ra thêm sâu sắc, với bản chất ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta kiên quyết tìm
mọi biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, giảm thiểu tình trạng phân hoá giàu nghèo,
“thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội vì mục tiêu
phát triển con người”1, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

. ĐCSVN Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 77.

1



×