Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

HỎI đáp tư TƯỞNG NHÂN VĂN ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.28 KB, 135 trang )

1

Hỏi - Đáp :
Tư tưởng đạo đức + nhân văn Hồ Chí Minh.
Câu 1. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau như thế
nào ? Nguồn gốc hình thành đạo đức mới ?
Hồ Chí Minh chỉ rõ: đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. “Đạo đức
cũ như đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân
đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” 1. Hình ảnh đó chứng tỏ, đạo đức
mới khác hẳn về chất so vớ đạo đức cũ.
Đạo đức phong kiến trói buộc nhân dân lao động vào những lễ giáo hủ bại,
phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ty trật tự, hết sức hà khắc của chế độ phong kiến.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính
nhưng khơng bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền
lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện, làm
gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân” 2. Vậy là, tuy có cùng khái
niệm của tiêu chí đạo đức, nhưng đạo đức cách mạng khác hẳn về bản chất so với
đạo đức cũ ở nội dung, ở lợi ích cho quần chúng nhân dân và được nhân dân hưởng
ứng.
Đạo đức cách mạng cũng đối lập với đạo đức tư sản, bởi đạo đức tư sản phục
vụ lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, cực đoan, lối sống vì tiền và coi
tiền là tất cả, chúng kìm hãm và làm tha hoá con người.
Đạo đức cách mạng cũng xa lạ với đạo đức của giai cấp tiểu tư sản, bởi đạo
đức tiểu tư sản kìm hãm con người trong những lợi ích riêng tư tủn mủn, cục bộ
hẹp hòi cũng như trong vòng gia trưởng nhỏ bé.
Đạo đức cách mạng cũng khác với đạo đức tôn giáo, bởi đạo đức tôn giáo
khuyên con người khắc kỷ, cam chịu, chấp nhận số phận trần tục để hướng về một
cuộc sống tốt đẹp hơn khi linh hồn ở chốn thiên đàng hay chốn niết bàn.
1, 2
2


Hồ Chí Minh tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 320 - 321


2

Đạo đức mơi, đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh khởi xướng và dày công
bồi dưỡng, xây dựng, củng cố mang bản chất giai cấp công nhân. Đạo đức đó kế
thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại, lấy
nội dung tư tưởng đạo đức Chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng cơ bản và định
hướng cho phát triển nền đạo đức mới. Người nói: đó " khơng phải là đạo đức thủ
cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi người" 1. Như vậy, đạo đức mới luôn
luôn đứng vững chắc trong quần chúng nhân dân, được quần chúng nhân dân
hưởng ứng và phục vụ cho đời sống nhân dân, phục vụ cho sự phát triển xã hội.
Đạo đức mới đề cập một cách toàn diện đến mọi đối tượng: cơng nhân, nơng dân,
trí thức, văn nghệ sĩ, từ các cụ phụ lão đến nhi đồng; đồng bào các dân tộc, tôn
giáo, đảng viên, quần chúng nhân dân…; Trên mọi lĩnh vực như sinh hoạt, lao
động, học tập…; Trên mọi phạm vi từ hẹp đến rộng, từ gia đình đến xã hội, từ
quốc gia đến quốc tế… Đạo đức mới đã trở thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và
dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do và CNXH, vì hồ bình, hợp tác và
phát triển với các dân tộc trên toàn thế giới.
Đạo đức mới- đạo đức Hồ Chí Minh, hình thành từ những nguồn cơ bản sau
đây:
Một là, nền tảng đạo đức truyền thống dân tộc, kể cả đạo đức Nho giáo, Phật
giáo, Lão giáo đã Việt hóa, được Người kế thừa và phát triển cho phù hợp với yêu
cầu thực tiễn đất nước và thời đại.
Truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam là sản phẩm của một quá trình phát
triển lâu dài qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh sinh tồn chống thiên tai khắc
nghiệt và chống hoạ xâm lăng bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Trong suốt chiều
dài lịch sử đó đã bồi đắp lên những truyền thống đạo đức tốt đẹp như cần cù, anh

dũng, hoà hợp dân tộc, đoàn kết, với nhân cách khoan dung độ lượng, q trọng
1

Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 5. Nxb CTQG. H 2002. tr 252.


3

con người… đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước hết sức sâu sắc. Tuy vậy, do hàng
ngàn năm dân tộc ta dưới chế độ phong kiến, hàng trăm năm dưới sự thống trị của
đế quốc,

Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự lạc hậu, khơng phù hợp với tình hình

mới của đạo đức cũ. Người nhận định rằng: nếu biết kế thừa và phát triển thì nhiều
khái niệm tuy cũ nhưng vẫn có thể tồn tại, bởi nó mang những nội dung mới. Theo
đó, những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư hoặc nhân, nghĩa, trí,
dũng v.v. đã được Người kế thừa và phát triển với những nội dung hoàn toàn mới.
Người đặc biệt quan tâm đến chủ nghĩa yêu nước và lòng nhân ái truyền thống dân
tộc, bởi theo Người đó là đặc trưng bản chất mang đậm bản sắc Việt Nam. Như
vậy, Hồ Chí Minh đánh giá cao truyền thống của dân tộc, tiếp thu, khai thác, nâng
cao đạo đức đó lên một trình độ mới, chất mới.
Sinh ra và lớn lên trên quê hương, đất nước, giầu truyền thống yêu nước,
trước cảnh nhân dân lầm than, nơ lệ. Hồ Chí Minh đã sống bằng cả tâm hồn dân
tộc, đau nỗi đau dân tộc, Người luôn ln ước mong ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Nỗi đau mất nước đó, với ước vọng vì dân, cùng với những
giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, đã thôi thúc Người đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin, đến với đạo đức cách mạng vô sản.
Hai là, nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác Lênin, hạt
nhân tư tưởng đạo đức mới - đạo đức Hồ Chí Minh.

Nếu đạo đức truyền thống là cội nguồn mở đầu cho việc hình thành đạo đức
Hồ Chí Minh thì những nội dung cơ bản tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
Lênin là một nguồn có ý nghĩa quyết định đến định hướng sự phát triển nền đạo
đức cách mạng theo mục tiêu XHCN. Người đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác- Lênin
một nền đạo đức cộng sản, một luân lý cộng sản, mà cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực, ở đó, đạo đức mác xít vì hạnh phúc, tự do, bình đẳng, bác ái thật sự của
con người. Cùng với tiếp thu tư tưởng đạo đức cách mạng mác xít, Hồ Chí Minh
cịn nhận thấy những người thầy của mình tiêu biểu cho tấm gương đạo đức mới,


4

đạo đức cách mạng. Vì thế, khi V.I Lênin qua đời, Hồ Chí Minh viết: “ Khơng phải
chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao
động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của
người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim
của họ hướng về Người khơng gì ngăn cản nổi”1. Điều đó cho thấy, khơng những
học thuyết Mác Lênin, mà ngay cả phẩm chất đạo đức của các Ông đã ảnh hưởng
lớn lao đến Hồ Chí Minh biết nhường nào. Vì thế, những nội dung cơ bản tư tưởng
đạo đức chủ nghĩa Mác Lênin, tuy không phải là cội nguồn mở đầu, nhưng là
nguồn cơ bản định hướng phát triển của nền đạo đức Hồ Chí Minh. Thực tiễn
chứng minh rằng, trong quá trình chỉ đạo thực hiện cuộc cách mạng đạo đức ở Việt
Nam, Hồ Chí Minh khơng bao giờ xa rời định hướng này.
Ba là, tinh hoa đạo đức nhân loại đã được Hồ Chí Minh chọn lọc, kế thừa
làm phong phú nền đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu cách mạng và bản sắc dân
tộc Việt Nam.
Q trình tiến hóa của lồi người cũng là quá trình phát triển nền đạo đức
theo hướng tiến bộ về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ, nhân quyền, nhân đạo…
Thành tựu về di sản đạo đức đó đã được Người quan tâm nghiên cứu và tìm ra hạt
nhân hợp lý trong xây dựng nền đạo đức mới. Hồ Chí Minh đánh giá cao tư tưởng

của Khổng Tử, Người nói: "Đạo đức của Ơng, học vấn của Ơng và những kiến
thức của Ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục" 2. Tuy
vậy, Người tiếp thu trong sự lựa chọn tinh hoa, có phê phán. Người nói: "Khổng
Tử tuy có nhiều điều khơng đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên
học"3. Đối với phương Tây, nơi có nền văn minh nhân loại phát triển rực rỡ, Người
cũng quan tâm tới tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Mỹ, Anh, Pháp, Nga v.v.
Trên tinh thần gạn đục khơi trong… Những giá trị đạo đức tốt đẹp đó đã làm cho
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 1, Nxb CTQG, H 2002, tr 295
Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 2. Nxb CTQG. H 2002. tr 452.
3
Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 2. Nxb CTQG. H 2002. tr 453.
2


5

hành trang tư tưởng đạo đức của Người thêm phong phú và Người đã sử dụng vào
xây dựng đạo đức mới với những nội dung mới.
Tóm lại, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng đạo đức của giai
cấp vô sản, đạo đức Mác- Lênin, mang bản chất cách mạng và khoa học triệt để,
đậm đà truyền thống đạo đức Việt Nam và kết hợp những tinh hoa đạo đức nhân
loại.
Câu 2. Phân tích vai trị đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ?
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là cội nguồn, là gốc, là nền tảng của
xã hội, của cán bộ, đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, là người cách mạng trước hết
phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp mới có ý thức sâu sắc phục vụ giai cấp,
phục vụ dân tộc, mới giữ vững được Chủ nghĩa Mác- Lênin và đưa chủ nghĩa MácLênin vào cuộc sống. Phải có đức để đi đến cái trí và khi có đức, có trí thì làm cho
chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối, phương pháp cách mạng trở nên phong phú,

sáng tạo và đảm bảo cho người cách mạng vững vàng trong mọi tình huống. Người
viết: “Cũng như sơng có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” 1. Người cịn
nói: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ vẻ vang”2. Cũng cần nói rõ hơn, trong khi khẳng định đức là gốc, là
nền tảng, Hồ Chí Minh khơng coi nhẹ mặt "tài". Theo Người, đó là hai mặt của
một vấn đề ln có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy: "Đức", "Tài"; "hồng",
"chuyên" là phẩm chất và năng lực bắt buộc phải có với mỗi cán bộ, đảng viên.
Với vai trị đó, đạo đức cách mạng là một nguyên nhân dẫn đến thành công của
cách mạng nước ta và việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng trở
thành nhiệm vụ thường xuyên của tồn Đảng, tồn dân.

1
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 252.
Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H 2002, tr 283.


6

Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, đạo đức cách mạng đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền tảng
tinh thần xã hội, là động lực và nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta
vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành thắng lợi trong mọi thời kỳ cách mạng.
Ngày nay, tuy cịn có biểu hiện nhất định về suy thoái đạo đức, lối sống trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên, nhưng nhìn chung đạo đức cách mạng vẫn là xu thế chủ
đạo, quyết định chiều hướng phát triển của nền đạo đức xã hội nước ta.
Đạo đức cách mạng quyết định đến giữ vững sự lãnh đạo cách mạng của

Đảng cầm quyền. Bởi đạo đức của cán bộ, đảng viên ảnh hưởng đến sự thu phục
quần chúng của Đảng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã sớm cảnh báo về hai nguy cơ: sai
lầm về đường lối và suy thoái đạo đức của Đảng. Khắc phục những nguy cơ đó,
Người yêu cầu Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”. Viết Di Chúc Người còn
căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch…” 1. Thực hiện lời dậy đó, Đảng ta mới có
dân, mới nắm được dân, tức là xây dựng và củng cố được niềm tin của nhân dân
vào Đảng. Đó cũng là thành trì bất khả xâm phạm bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng
và là nguồn sức mạnh để Đảng hồn thành sứ mạng lịch sử của mình.
Đạo đức cách mạng giữ vai trị trọng yếu trong hồn thành nhiệm vụ của
người cách mạng. Sở dĩ xác định như vậy, bởi làm cách mạng, cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới là nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, lâu dài, phức tạp, gian khổ. Muốn
hoàn thành nhiệm vụ đó, khơng chỉ địi hỏi năng lực cách mạng mà cần phải có
đạo đức cách mạng mới có được lịng trung thành, ý chí chiến đấu, dám xả thân,
qn mình vì sự nghiệp cách mạng… Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu đội ngũ cán bộ,
đảng viên, phải phấn đấu để có cả đức và tài, hai mặt đó đều quan trọng, thiếu mặt
nào cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ.
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2002, tr 498.


7

Chủ tịch Hồ Chí Minh ln chăm lo giữ gìn và phát triển đạo đức, bởi nó có
vai trị quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của dân tộc, với sự nghiệp cách
mạng nước ta. Người đặc biệt quan tâm mở rộng đạo đức cách mạng trong cán bộ,
đảng viên, nhất là khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Theo Người, nếu cán bộ
cách mạng “có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng

khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai
cấp, của dân tộc và của lồi người mà khơng ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng
của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng khơng
tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”1.
Câu 3. Nêu rõ phạm vi bao quát của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ?
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách tồn diện. Hầu như
Người khơng bỏ sót đối tượng nào, lĩnh vực nào, với phạm vi từ hẹp đến rộng.
Ngay cả mối quan hệ chủ yếu của mỗi người cũng được Hồ Chí Minh chỉ ra một
cách cụ thể.
Hồ Chí Minh quan tâm đến mọi đối tượng: cơng nhân, nơng dân, trí thức;
các cháu thiếu niên nhi đồng, thanh niên, phụ nữ, các cụ phụ lão; đồng bào các
dân tộc, tôn giáo, các nhà tu hành; các văn nghệ sĩ, nhà báo, các lực lượng vũ
trang… Tóm lại, Người quan tâm đến tất cả khơng bỏ sót một đối tượng nào của
xã hội. Tuy nhiên, trong sự quan tâm chung đó, Người đặc biệt chú ý tới đạo đức
cán bộ, đảng viên, bởi sự đầu tầu, gương mẫu, của đội ngũ này có tác dụng nịng
cốt, dẫn đầu thực hiện đạo đức cơng dân, đạo đức xã hội. Người cho rằng: “Quần
chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” 2. Vì thế, cán bộ, đảng viên
khơng những phải có đạo đức cách mạng, mà cịn phải là những người truyền bá
đạo đức mới. Hồ Chí Minh khơng chỉ dẫn đạo đức cho từng đối tượng một cách
chung chung mà rất cụ thể, sinh động. Ta thường thấy Người chỉ dẫn cần, kiệm,
1
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H 2002 tr 284.
Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 552.


8


liêm, chính ở nhiều địa phương, ngành, giới, nhưng nội dung, yêu cầu cụ thể thì
khác nhau, phù hợp với từng đối tượng. Chính vì sự sát hợp đó mà đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh khơng cao xa, mọi đối tượng đều coi đó như
chính u cầu mong muốn của mình, quyết tâm thực hiện.
Đạo đức cách mạng cũng được Hồ Chí Minh phổ cập ở mọi lĩnh vực hoạt
động của con người: từ cá nhân đến tập thể ở các lĩnh vực sinh hoạt, học tập, lao
động, chiến đấu, lãnh đạo, chỉ huy, quản lý… Trong sự bao quát đó, Người chú ý
nhiều hơn đến lao động, chiến đấu, lãnh đạo, quản lý… bởi những lĩnh vực này
thường xuyên trực tiếp tác động đến đời sống và các lĩnh vực khác. Người yêu cầu
người lao động phải có kỷ luật, có kỹ thuật, phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Chiến
đấu, Người cho đó là việc binh, mà “binh là việc lớn của nước”. Vì thế, “phải luôn
luôn phát triển cái kỷ luật nghiêm như sắt, cái tinh thần vững như đồng, cái chí khí
quật cường tất thắng, cái đạo đức: trí, dũng, liêm, trung của quân giải phóng” 1. Với
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý bên cạnh việc bồi dưỡng năng lực làm việc,
Người đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức, mà nổi lên là chống chủ nghĩa cá
nhân, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, trong đội ngũ này. Người nhấn mạnh, cán
bộ, đảng viên phải “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là
điều chủ chốt nhất”2, phải gần dân, nguyện làm “đầy tớ” trung thành của nhân
dân… Những vấn đề này đã được chỉ ra rất sớm và là bài học “vỡ lòng” Người dậy
cho cán bộ.
Đạo đức cách mạng cũng được Hồ Chí Minh đề cập trên mọi phạm vi: gia
đình, xã hội, giai cấp, dân tộc, quốc gia, quốc tế, địa phương, trung ương, từ xóm,
phố đến các vùng, miền và trong cả nước. Cũng như các lĩnh vực hoạt động của
con người, phạm vi đạo đức cũng được Người chỉ dẫn rất cụ thể, không chung
chung. Mỗi lần đến thăm và làm việc ở địa phương, đơn vị, cơng trường, xí

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 330.

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H 2002, tr 285.


9

nghiệp… Người đều biểu dương những ưu điểm, thành tích đã làm được, đồng thời
chỉ rõ những khuyết điểm, những vấn đề cần khắc phục.
Với đạo đức của cán bộ đảng viên, Người thường lưu tâm tới ba mối quan
hệ chủ yếu: đối với mình, đối với người và đối với việc. Giảng giải “Tư cách một
người cách mệnh” cho lớp người yêu nước đầu tiên những năm 1925 – 1927,
Người đã nói ba điều ấy. Năm 1948, trong thư gửi Hội nghị Chính trị viên, mối
quan hệ chủ yếu này cũng được Người chỉ dẫn rất cụ thể và nhấn mạnh: “tư cách
người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên
tốt thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên khơng hồn thành nhiệm vụ, thì bộ đội ấy
khơng tốt”1. Theo phương hướng đó Người cịn chỉ dẫn tư cách người công an, tư
cách người tướng, bổn phận người đảng viên… Vậy là, không phải chỉ trong phạm
vi lớn như quốc gia, quốc tế, mà trong phạm vi hẹp ở bản thân cán bộ, đảng viên
cũng được Người đề cập một cách rõ ràng, cụ thể.
Như vậy, không phải chỉ nội dung đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh phong phú, sinh động, mà phạm vi bao quát cũng rất rộng lớn ở nhiều đối
tượng, nhiều lĩnh vực, từ con người đến toàn xã hội, quốc gia và quốc tế.
Câu 4. Trình bày những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời
đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh ?
Trải qua dựng nước và giữ nước, nhất là công cuộc chống xâm lược Pháp,
Mỹ và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đã hun đúc nên người Việt
Nam những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, trong đó nổi lên những phẩm chất cơ bản
như: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người sống có nghĩa, tình; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng.
Trung với nước, hiếu với dân:
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc, đã được Hồ Chí Minh kế

thừa và phát triển lên tầm cao mới, với nội dung mới.
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 392.


10

Trung với nước, là trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân, với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trung với nước, là biết đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết; phải có ý chí quyết tâm
phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh”; có tinh thần thực hiện nghiêm chỉnh chủ trương, chính sách, pháp luật…
của Đảng, Nhà nước.
Hiếu với dân, là một lòng một dạ phụng sự nhân dân; tin tưởng vào sức
mạnh của quần chúng, gần gũi, gắn bó “máu, thịt” với nhân dân; với cán bộ đảng
viên là biết tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt mục tiêu cách mạng, chăm
lo tới đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một tốt hơn. Theo tinh thần
đó thì phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trung, hiếu vốn là khái niệm cũ, nội dung hạn hẹp “trung với vua, hiếu với
cha mẹ”, đã được Hồ Chí Minh mở rộng vơi nội dung mang tính cách mạng, khoa
học. Đó là phẩm chất hàng đầu thuộc về đạo đức cách mạng mà người Việt Nam
cần có, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên, thể hiện mối quan hệ và nghĩa vụ của cá
nhân với cộng đồng và đất nước.
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình:
Dân tộc ta có truyền thống nhân nghĩa, phẩm chất cao q đó đã được Hồ
Chí Minh kế thừa và kết hợp với chủ nghĩa nhân văn nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản, để hình thành một phẩm chất đạo đức của người Việt Nam trong thời đại
mới.
Yêu thương con người là tình cảm rộng lớn, đó là nguồn sức mạnh, ý chí

mãnh liệt giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh hằng mong
thực hiện ham muốn tột bậc của mình là nước được độc lập, dân được tự do, ai
cũng được hưởng hạnh phúc. Đó là động lực làm cho tình yêu thương con người
trở thành hiện thực và Người làm tất cả những gì có thể làm được để dân được ấm
no, hạnh phúc. Như vậy, người Việt Nam, nhất là cán bộ, đảng viên phải có tình


11

u thương con người, sống có nghĩa, có tình mới trở thành người có đạo đức cách
mạng. Yêu thương con người phải biết và dám đấu tranh giải phóng con người,
đồng thời phải có tinh thần nhân đạo cao cả, đó là tinh thần làm việc vì mọi người,
vì nhân loại, giúp đỡ những người khó khăn, bất hạnh khi gặp hoạn loạn, thiên tai.
Yêu thương con người còn được thể hiện trong các mối quan hệ giữa mình
với người khác, với bạn bè, đồng chí, đồng đội. Trong các mối quan hệ đó phải
nghiêm khắc, chặt chẽ với mình, đồng thời rộng rãi, độ lượng, khoan dung với
người khác; khơng đề cao mình, hạ thấp đồng chí; phải sống chân thành, thủy
chung, có tình, có lý, giúp nhau cùng tiến bộ.
Yêu thương con người phải có thái độ đúng đắn với những người lầm
đường, lạc lối, những người mắc sai lầm, khuyết điểm. Cần giúp họ nhận rõ sai
lầm, khuyết điểm bằng sự cởi mở, chân thành thông qua tự phê bình và phê bình,
nó khác với thái độ “dĩ hòa vi quý”, bao che sai lầm, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp
chung. Tình thương yêu con người sẽ thức tỉnh lương tri, khơi dậy tinh thần tự
trọng, tự lực, tự cường, giúp họ trở lại con người tốt.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư:
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng, gắn liền với hoạt động hàng ngày của
mọi người. Tuy là những khái niệm cũ, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào những yêu
cầu và nội dung mới, phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Cần là cần cù, siêng năng, biết tự lực cánh sinh, không lười biếng, không

dựa dẫm, ỷ lại. Người lao động cần cù là người lao động tự giác, coi đó là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của mình, của mọi người, mọi nhà.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm vật chất, của cải. Tiết kiệm có
nghĩa là khơng lãng phí, chi tiêu có kế hoạch chặt chẽ, khơng phơ trương, hình
thức, mọi việc làm đều xuất phát từ sự cần thiết và đi vào thực chất.


12

Liêm là giữ gìn phẩm chất đạo đức của bản thân và tổ chức trong sạch,
không biển thủ của công, khơng lợi dụng chức vụ, địa vị để bịn rút của cơng và
nhận hối lộ từ người khác.
Chính là ngay thẳng, chính trực, có thái độ ứng xử đúng đắn với mọi người,
với tổ chức, hăng hái làm việc “thiện”, không làm những việc “ác” hại người khác
theo phương hướng “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng
tránh”.
Chí cơng vơ tư là rất mực cơng bằng, cơng tâm, khơng thiên vị, thiên tư,
khơng có chủ nghĩa cá nhân, gương mẫu trước quần chúng theo tinh thần “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư có quan hệ mật thiết với nhau. Cần,
kiệm, liêm, chính khơng thể tách rời nhau, Hồ Chí Minh ví như bốn mùa của một
năm, bốn phương của trời đất, vì thế khơng thể thiếu yếu tố nào được. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí cơng vơ tư và ngược lại, nếu có được chí cơng vơ tư,
một lịng một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì sẽ có ý thức cần, kiệm,
liêm, chính.
Tinh thần quốc tế trong sáng.
Trong cơng cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng bảo vệ Tổ quốc, nhân dân
ta đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các nước anh em và bè bạn khắp năm
châu. Đồng thời, bằng cuộc cách mạng đó, nhân dân ta đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới và nền hịa bình của nhân loại. Thực tiễn đó là cơ sở

hình thành và phát triển tinh thần quốc tế trong sáng dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta.
Tinh thần quốc tế của nhân dân ta là đoàn kết chặt chẽ với nhân dân lao
động, các dân tộc, các nước trên thế giới đấu tranh chống áp bức, bóc lột, đấu tranh
vì sự tiến bộ xã hội, vì nền hịa bình thế giới. Nhân dân ta nhận được sự giúp đỡ
của quốc tế nhưng đồng thời cũng sẵn sàng tham gia làm nhiệm vụ quốc tế. Trong


13

q trình đó có thể có sự bất đồng, bất hịa nhưng người Việt Nam ln ln
hướng tới giải quyết có lý, có tình, cùng có lợi, vì tiến bộ xã hội và nền hịa bình
bền vững.
Câu 5. Hãy nêu rõ những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ?
Đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh được xây dựng trên những nguyên
tắc cơ bản sau đây:
Một là, nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức.
Nói đi đơi với làm là từ địi hỏi lý luận phải ln ln gắn liền với thực tiễn.
Hồ Chí Minh thường phê phán những người nói mà không làm, ba hoa về lý luận,
xa rời thực tế, làm việc khơng thiết thực. Người nói: “…Có một số người chỉ biết
nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì
thiết thực cũng khơng làm được. Những người như thế khơng thể dùng vào việc
thực tế”1. Vậy là, nói đi đơi với làm, khơng chỉ cịn là phong cách làm việc, mà
cao hơn thuộc nguyên tắc đạo đức cách mạng. Nếu nói nhiều làm ít hoặc khơng
làm, sẽ phản tác dụng, lời nói khơng hiệu quả, bản thân và tổ chức mất tín nhiệm.
Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng cho dân tộc ta và các thế hệ người Việt Nam
về đạo đức, về nói đi đơi với làm.
Đạo đức cũng như các lĩnh vực khác, rất cần sự gương mẫu của cha mẹ đối
với con cái, anh chị đối với các em, cấp trên đối với cấp dưới, cán bộ, đảng viên

với quần chúng nhân dân… Người Việt Nam có câu “nhà dột từ nóc” là hàm ý lo
sợ những người đứng đầu của đơn vị, tổ chức, những bậc “đàn anh”, hư hỏng thì
rất nguy hiểm, khó chữa. Vì vậy, trong lĩnh vực đạo đức rất cần tấm gương mực
thước để mọi người noi theo. Trong xã hội nếu để sảy ra “lệch chuẩn”, “loạn
chuẩn” trong phạm vi đạo đức sẽ bị nổi loạn, không thể ổn định được.
Hai là, xây đi đơi với chống.
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H 2002, tr 287.


14

Trong đời sống, những hiện tượng tốt, xấu, đúng, sai, có đạo đức, vơ đạo
đức, tồn tại đan xen, đối chọi nhau ở xã hội và bản thân mỗi người. Vì vậy, để có
một xã hội cơng bằng, văn minh phải thường xuyên xây dựng đạo đức tốt, chống
lại thói hư, tật xấu.
Xây, chống phải luôn đi đôi bởi chúng có quan hệ mật thiết với nhau. Khi
xây dựng một phẩm chất nào đó của đạo đức mới, thì đồng thời cũng phải chống
lại thói quen cũ khơng cịn phù hợp, chống lại sự lạc hậu ngay trong vấn đề đó, bởi
cái tốt, cái xấu ln cận kề nhau, sống chung với nhau. Biện chứng cuộc sống cho
ta thấy, không phải người người đều tốt, muôn việc đều hay, mà là có người tốt, kẻ
xấu. Hiện tượng đó có thể sảy ra ngay trong mỗi con người. Hồ Chí Minh cho
rằng: “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho
phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng” 1. Như vậy muốn xây phải chống và chống
cũng nhằm mục đích xây, xây chống đi liền nhau. Đó là địi hỏi khách quan, bởi
cái xấu, cái tốt, cái thiện, cái ác cũng luôn luôn đồng hành trong xã hội và mỗi con
người. Theo đó, xây dựng đạo đức mới là mục đích của chúng ta.
Xây là giáo dục những phẩm chất đạo đức mới, với nhiều cách làm, trong đó

tự giác tu dưỡng rèn luyện của mỗi người, mỗi tổ chức rất quan trọng. Để xây đạt
hiệu quả cao, nhất thiết phải gắn chặt với phong trào rèn luyện phẩm chất đạo đức
của quần chúng. Bởi xét cho đến cùng thì quần chúng nhân dân là người quyết
định sự thành công của cuộc cách mạng xây dựng đạo đức mới. Trên tinh thần đó,
Hồ Chí Minh đã phát động nhiều phong trào: Năm 1952, phong trào thi đua thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; Năm 1953, cuộc vận động “nâng
cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế – tài chính, cải tiến kỹ thuật,
chống tham ơ, lãng phí, quan liêu”, gọi tắt là “3 xây, 3 chống”…
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2002, tr 558.


15

Đạo đức mới gắn liền với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Đạo
đức là một phạm trù lịch sử mang đậm tính giai cấp… Đạo đức mới khơng ngừng
hồn thiện và phát triển nhằm đáp ứng u cầu cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy,
nếu muốn suốt đời phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, ắt phải tu dưỡng đạo
đức suốt đời. Theo đó, dù là người dân bình thường, nếu muốn là người có đạo
đức, người lương thiện trong xã hội, cũng phải suốt đời tu dưỡng tiếp thu đạo đức
mới, chống lại thói hư, tật xấu xâm nhập vào mỗi con người. Trong xã hội, đạo đức
là vấn đề nhạy cảm, nếu không thường xun tu dưỡng rèn luyện thì khó tránh
khỏi sự quyến rũ của cái xấu, cái ác. Vì vậy, rèn luyện bền bỉ, tu dưỡng đạo đức
suốt đời là đòi hỏi khách quan. Hồ Chí Minh đã dạy: “Một dân tộc, một đảng và
mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, khơng nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong
sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”1. Chỉ dẫn đó cho ta thấy không một cá
nhân, tổ chức nào được chủ quan, n tâm với đạo đức vốn có của mình mà không

tiếp tục rèn luyện để giữ vững đạo đức cách mạng.
Câu 6. Nêu rõ tác hại của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ?
Từ sau năm 1975, nhất là trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế - xã hội nước ta
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Một nguyên nhân dẫn đến phát triển đó là sự chăm
lo thường xuyên giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh
của Đảng ta. Tuy vậy, vẫn cịn “Một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả
một số cán bộ chủ chốt các cấp… thối hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về
đạo đức, lối sống…”2. Bộ phận đó so với nhân dân ta không lớn về số lượng,
nhưng sự suy thối này rất nguy hiểm, “đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự

1
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2002, tr 558.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr 263, 264.


16

sống còn của Đảng, của chế độ”3. Trong thực tiễn nó đã gây ra tác hại cho xã hội ta
ở một số mặt sau đây:
Với bản thân người bị xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống, tất nhiên
dẫn đến năng lực thực hiện nhiệm vụ bị hạn chế, mất đi sự minh mẫn về trí tuệ, tư
duy khơng phù hợp với yêu cầu công tác, đạo đức, lối sống dần dần sa đọa. Những
biểu hiện đó, làm cho người cán bộ, đảng viên hay công chức, mất niềm tin của
nhân dân, tổ chức không thể dung nạp được họ trong bộ máy. Đó là sự đào thải và
tự đào thải do sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đối với cá nhân, họ mất
công danh, sự nghiệp, nhưng xã hội thì mất đi những người từng trải, có kinh
nghiệm, thật đáng tiếc.

Với gia đình, sự suy giảm đạo đức, lối sống dẫn đến hạnh phúc gia đình bị
phá hoại, nề nếp gia phong khơng giữ được, các mối quan hệ bố mẹ với con cái, vợ
với chồng v.v. bị rạn nứt, chia rẽ, lộn xộn. Hậu quả khơng chỉ dừng lại ở lĩnh vực
tình cảm, mà đời sống kinh tế cũng giảm sút và khánh kiệt, khi có sự suy đồi về
đạo đức, lối sống. Nếu gia đình là tế bào của xã hội, thì sự suy giảm đạo đức làm
cho các tế bào đó không lành mạnh, dẫn đến suy yếu sức sống của xã hội, của chế
độ.
Đối với xã hội, dù chưa phải là phổ biến, nhưng một bộ phận cán bộ đảng
viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống cũng rất nguy hiểm, bởi những người
này hoạt động trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tiếp súc với nhân dân hàng
ngày. Vì thế, nếu khơng được ngăn chặn, nó sẽ như một bệnh dịch lây lan rất
nhanh, dẫn đến một nguy cơ có liên quan đến sự sống cịn của Đảng, của chế độ.
Sự suy thối này, nó làm cho sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội bị hạn chế, sự ổn định và phát triển xã hội kém tính bền vững. Sự suy
thối đó, làm cho nhân dân suy giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ, lo lắng, bất

3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006, tr 264.


17

bình, ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật Nhà nước.
Tác hại của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống đã nêu ở trên đặt ra
cho công tác giáo dục của Đảng cần phải đẩy mạnh hơn nữa một cách toàn diện,
đồng bộ trong xã hội, đặc biệt là với đội ngũ cán bộ, đảng viên – những người
đang giữ trọng trách trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Câu 7. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện tập trung ở những vấn đề nào ?

Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, một lãnh tụ vĩ đại, là tấm gương sáng ngời về
đạo đức mà toàn Đảng, toàn dân học tập và noi theo. Đạo đức cách mạng của
Người thể hiện tập trung ở một số vấn đề cơ bản, chủ yếu sau đây:
Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.
Ý chí quyết tâm cứu nước, cứu dân khỏi lầm than, nơ lệ ở Hồ Chí Minh đã
có từ thuở niên thiếu. Tinh thần đó lại được tiếp thêm sức mạnh khi Người bắt gặp
và tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, thỏa lòng mong ước khát khao cháy bỏng của
Người là tìm thấy con đường làm cho nước được độc lập, dân được tự do, ai cũng
được hạnh phúc. Người ví sự kiện đó như đang khát mà gặp nước uống. Đó là con
đường mà Người suốt đời tự nguyện đi theo, làm theo, dù phải vượt qua muôn
trùng gian khổ, hy sinh. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khi Người
qua đời đã ghi nhận tấm gương cao đẹp đó. Điếu văn nhấn mạnh: “Hơn 60 năm
qua, từ tuổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ tịch đã cống hiến trọn đời
mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải
qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong
phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”1.
Học tập và làm theo Người chúng ta hãy cùng nhau phấn đấu đưa mục tiêu
lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH đến đích cuối cùng. Theo đó phải thấm nhuần
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2002, tr 515.


18

và thực hiện bằng được điều chủ chốt nhất mà Người đã dạy: “Quyết tâm suốt đời
đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”, xây dựng động cơ cách mạng đúng đắn tất cả
vì Tổ quốc, vì nhân dân, ln ln trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Thực hiện được những điều đó cũng là góp phần thực hiện lời hứa: Tồn Đảng,

tồn dân nguyện “Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công
nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”1.
Hồ Chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua
mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.
Người là tấm gương mãi mãi sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh
thần đó xuyên suốt trong cuộc đời cách mạng của Người từ thuở niên thiếu cho đến
phút cuối cùng của đời mình. Nhờ ý chí cách mạng và nghị lực phi thường đó
Người đã dũng cảm vượt qua sự thiếu thốn về vật chất, hiểm nguy về tính mạng,
quyết ra đi tìm đường cứu nước. Khi trở thành người cộng sản, mối de dọa ngày
càng lớn hơn, nguy hiểm hơn, nhưng tinh thần kiên trì theo đuổi mục tiêu cách
mạng và nghị lực vượt khó khăn, hiểm nguy thì lại tăng lên, đủ sức đạp bằng mọi
trở ngại trên con đường cách mạng của mình. Sở dĩ Người có được ý chí nghị lực
phi thường đó bởi Người tồn tâm, tồn ý vì nước, vì dân, khơng hề mảy may nghĩ
đến mình.
Hồ Chí Minh thường dạy chúng ta: vì nước quên thân, vì dân phục vụ là
xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn của bản thân Người. Vì vậy, muốn học và làm
theo Người mỗi chúng ta phải ni dưỡng tinh thần, ý chí đó. Chúng ta phải kiên
trì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, ln ln giữ vững quan điểm, đường lối Đảng đã
vạch ra, kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái. Người cộng sản phải
sống hiên ngang, có khí phách, chủ động vượt qua thử thách, không để những tiêu
cực của xã hội quyến rũ. Biết rằng, trong điều kiện thời bình, tác động tiêu cực
1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12, NXB CTQG, H 2002, tr 517.


19

thường xuyên của nền kinh tế thị trường, đạt được những điều đó thật là khó khăn,

phải vượt qua chính mình. Nhưng khơng phải vì thế mà người cộng sản trong thời
kỳ mới không thực hiện được. Chúng ta hãy làm theo lời răn của Người”
“Muốn nên sự nghiệp lớn.
Tinh thần phải càng cao”1.
Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân,
hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Người là hiện thân, biểu tượng của tình thương bao la đối với con người, với
nhân loại. Ngay cả chính kẻ thù của Người, nhưng khi chúng ta đã tỉnh ngộ, hối
hận, Người cũng dành cho chúng một tình thương vì con người và để cải tạo con
người. Vì vậy, ở Hồ Chí Minh trí tuệ con người, sức mạnh nhân dân là tuyệt đối.
Người đặt nhân dân lên trên bản thân mình và xác định suốt đời phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Tư tưởng đó cũng đã đặt nền móng cho lịng nhân ái, vị tha,
khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Trước khi qua đời, Người vẫn
nuối tiếc một điều: không được phục vụ nhân dân nhiều hơn nữa, lâu hơn nữa.
Người viết: “Suốt đời tơi hết lịng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tơi khơng có điều gì phải hối
hận, chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” 2.Như vậy, ở
Người lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu vì con người, vì dân, vì nước
khơng phải nhất thời, mà là bền bỉ suốt cuộc đời cách mạng và Người qua đời vẫn
để lại cho các thế hệ mai sau tinh thần ấy.
Học tập tấm gương đạo đức của Người mỗi chúng ta hãy phấn đấu xây dựng
cho mình tinh thần tuyệt đối tin tưởng vào nhân dân, vào sức mạnh của lực lượng
ấy. Niềm tin ấy từ Hồ Chí Minh truyền cho chúng ta đồng thời là bài học lịch sử:
“Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Vì thế, trong điều kiện Đảng
1
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 3, Nxb CTQG, H 2002, tr 265
Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, H 2002, tr 501



20

cầm quyền, mỗi đảng viên thường có vị trí nhất định trong quản lý xã hội, thì càng
phải gần dân, u kính dân, biết tổ chức dân và tận tình phục vụ dân, không “vác
mặt làm quan cách mạng”, không phiền nhiễu dân. Làm theo tấm gương Hồ Chí
Minh cán bộ, đảng viên phải luôn luôn thể hiện tinh thần vì con người, sống vị tha,
nhân hậu, khoan dung, khơng “âm mưu, quỷ kế” làm hại nhau, hại dân”.
Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư, đời riêng
trong sáng, nếp sống giản dị và đức tính khiêm tốn.
Người để lại cho các thế hệ đời sau tấm gương tuyệt vời về cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, về sự trong sáng, giản dị, khiêm tốn. Những đức tính và tác
phong đó, Người đã có ý thức rèn luyện trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
đặc biệt từ khi trở thành người lãnh đạo, chỉ đạo Đảng ta và sự nghiệp cách mạng
nước ta. Tuy hoàn cảnh mới, cương vị mới – là lãnh tụ tối cao của Đảng, dân tộc,
Nhà nước, nhưng đạo đức, lối sống khơng có gì thay đổi. Đúng là “giàu sang
khơng quyến rũ, nghèo khó khơng chuyển lay”, Người vẫn giữ mình ln ln
trong sáng ở mọi hồn cảnh. Thiên tài của Người trong lĩnh vực đạo đức, lối sống,
là luôn luôn thấy trước, dự báo trước, những điều có thể sẩy ra với đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Người căn dặn: phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư… là xuất phát từ tình hình thực tế đồng thời
mang tính dự báo. Nhấn mạnh nhiều lần từ “thật sự”, chứng tỏ Người lo lắng có
thể có những cán bộ, đảng viên nói mà khơng làm, hoặc nói nhiều làm ít, nhất là
trong điều kiện Đảng cầm quyền, đảng viên có chức, có quyền, thì những điều
“khơng thật sự” như hách dịch, cửa quyền, không liêm khiết, không chí cơng vơ
tư… rất có thể sảy ra.
Với Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống càng liêm khiết, khiêm tốn, giản dị thì
người cách mạng càng vĩ đại. Học tập và làm theo Người, cán bộ, đảng viên nhất
định phải đạt được uy tín cao trong quần chúng nhân dân, được nhân dân tôn vinh,

yêu mến. Để đạt được điều đó, cán bộ, đảng viên phải biết hy sinh vì nghĩa lớn, vì


21

mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phải tu dưỡng rèn luyện, để có được phẩm chất đạo
đức trong sáng, sống giản dị, khiêm tốn. Những người như thế họ nhất định sẽ là
cán bộ, đảng viên gương mẫu, không tham nhũng, khơng làm giàu bất chính, ln
ln gần dân, đêm ngày một nỗi lo cho nước, cho dân như Hồ Chí Minh hằng
mong ước.
Câu 8. Trình bày nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong giai đoạn cách mạng hiện nay ?
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự
hào của Đảng và nhân dân ta. Với mỗi cán bộ, đảng viên lại càng quan trọng hơn,
bởi qua đó rèn luyện mình xứng đáng là đảng viên cộng sản, là “người lãnh đạo,
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Để đạt được điều đó, cần thực hiện
thật tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “trung với nước, hiếu
với dân” cần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa yêu nước trong thời kỳ mới.
Chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh hết sức sâu sắc. Người đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc và CNXH. Trong hồn cảnh khó khăn
gian khổ hay lúc thuận lợi, cách mạng phát triển, Người đều kiên định mục tiêu đó.
Ngày nay, đất nước đã hịa bình thống nhất, tồn Đảng, tồn dân đang phấn đấu
xây dựng chế độ mới, rất cần sự kiên định, giữ vững phẩm chất “trung với nước,
hiếu với dân” mà Hồ Chí Minh đã dày cơng xây dựng. Theo đó, chủ nghĩa yêu
nước phải được thể hiện sinh động, phong phú trong thời kỳ mới.
Trung với nước, hiếu với dân đòi hỏi mỗi người phải nhận thức sâu sắc hơn,
đầy đủ hơn công lao và sự hy sinh to lớn của các thế hệ lớp trước. Qua đó, nâng
cao hơn nữa tinh thần yêu nước, yêu CNXH, giữ vững ý chí chiến đấu, biến ý chí
quyết tâm chống ngoại xâm trước kia thành ý chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc hôm nay.


22

Trung với nước, hiếu với dân trong thời kỳ mới là tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Phải làm cho nhân dân thực sự làm chủ bản thân, làm
chủ xã hội bằng nhiều hình thức phong phú. Phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân, đồng thời giải quyết kịp thời những nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân,
khơng thờ ơ, vơ cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Hồ Chí Minh thường
dạy “Đạo đức cách mạng là hịa mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng…” 1 để chỉ dẫn cán bộ, đảng
viên tất cả phải vì dân.
Trung với nước, hiếu với dân phải được thể hiện bằng ý chí quyết tâm vượt
qua nghèo nàn lạc hậu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, theo kịp
các nước phát triển trong khu vực và thế giới. Phải làm cho mọi người thấm nhuần
sâu sắc rằng: nghèo nàn lạc hậu cũng là nỗi nhục như mất nước trước đây. Từ đó
mà nâng cao ý chí, quyết tâm “xây dựng đất nước ta đàng hồn hơn, to đẹp hơn”
như Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Trung với nước, hiếu với dân phải biết giương cao ngọn cờ đại đoàn kết tập
hợp mọi người, mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tơn giáo, người
trong nước hay người ở nước ngồi vào thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, phải chống lại mọi âm mưu chia rẽ
ảnh hưởng tới đoàn kết, chống lại mọi biểu hiện cục bộ địa phương, làm suy yếu
sức mạnh đồn kết.
Trung với nước, hiếu với dân địi hỏi ở mỗi người phải có trách nhiệm cao
với cơng việc, lương tâm nghề nghiệp trong sáng. Vì vậy, phải có tinh thần cầu tiến
bộ, phát huy sáng kiến, thường xun tổng kết kinh nghiệm, có khả năng làm chủ
cơng nghệ hiện đại. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cán bộ, đảng viên và những
người làm công tác quản lý, sản xuất, kinh doanh phải hết sức tỉnh tảo để khơng bị


1

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 9, Nxb CTQG, H 2002, tr 290.


23

lừa đảo, đồng thời giữ lương tâm trong sáng không lừa đảo, không buôn gian, bán
lận, giữ vững sự ổn định thị trường, ổn định xã hội.
Trung với nước, hiếu với dân phải thể hiện trong việc giải quyết đúng đắn
các mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể; giữa quyền lợi và nghĩa vụ… Tư
tưởng xuyên suốt trong việc giải quyết các mối quan hệ này là: lợi ích Tổ quốc, lợi
ích tập thể được đặt lên trên và ưu tiên, phải biết quên mình vì nghĩa lớn.
Thứ hai, thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nêu cao phẩm giá
con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về “cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư”, học tập và làm theo Người có thể vận dụng một cách sáng tạo tùy
theo mỗi người, mỗi tổ chức và mỗi địa phương. Nhưng tựu trung chủ yếu theo
phương hướng sau đây:
Tích cực lao động, học tập, cơng tác với tinh thần sáng tạo, chất lượng, hiệu
quả. Theo đó phải có tinh thần tiết kiệm triệt để, nghiêm ngặt, chống xa hoa, lãng
phí, khơng tham nhũng, cửa quyền, khơng hành dân, khơng phơ trương, hình thức.
Lao động, học tập hay cơng tác phải có hiệu suất cao, chất lượng tốt, trên cơ sở
phát huy sáng kiến, không ngừng cải tiến kỹ thuật.
Đạo đức mới địi hỏi phải có tinh thần chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng. Hồ Chí Minh coi đó như một loại giặc: giặc nội xâm, rất nguy hiểm, nó
là nguồn gốc sinh ra mọi thói hư tật xấu. Để chiến thắng kẻ thù này, trong điều
kiện có sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường thật không đơn giản. Hàng ngày
những tiêu cực đó mời gọi, quyến rũ, có sức hấp dẫn lạ thường với những người

bản lĩnh chính trị yếu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Vì vậy, phải
xây dựng cho mỗi người thực sự có bản lĩnh, có tinh thần tập thể, có lối sống giản
dị, khiêm tốn, không thu vén cá nhân hoặc cục bộ, địa phương, dấu diếm khuyết
điểm, chạy theo thành tích.


24

Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư địi hỏi cán bộ, đảng viên
phải nói đi đơi với làm. Thực tiễn đã có một số người nói rất hay nhưng khơng
làm, hoặc làm rất ít, chiếu lệ, hình thức, nên đã phản tác dụng, làm mất lòng tin của
quần chúng nhân dân. Điều đó cho thấy thực hành những vấn đề này rất khó, nó
địi hỏi ở mỗi người phải có ý chí quyết tâm vì nước, vì dân, vì sự nghiệp lớn. Đó
phải là những người cách mạng chân chính, động cơ trong sáng, có dũng khí chiến
thắng tiêu cực trong bản thân và gia đình mình, đồng thời dám nhìn thẳng vào sự
thật, truy kích đến cùng những kẻ xấu, những kẻ giả danh cách mạng. Lâu nay ta
thường coi những tiêu cực trong lĩnh vực này như giặc nội xâm, nhưng khi xử lý
vẫn chưa tương xứng với quan niệm đó. Vì thế tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn
là những căn bệnh khó chữa trị.
Thứ ba, nâng cao ý thức dân chủ, kỷ luật, gắn bó với dân, phục vụ nhân
dân.
Dân chủ, kỷ luật tưởng như là hai vấn đề đối lập nhau, nhưng trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất, không mâu thuẫn. Người viết: “Kỷ luật của
Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhưng tập trung ấy khơng
phải là cá nhân chun chính: nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ” 1. Người cịn
nhấn mạnh: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ” 2. Như vậy, Người
đòi hỏi ở mỗi người, mỗi tổ chức, kỷ luật phải nghiêm túc, tự giác, thống nhất,
“Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”. Nhưng dân
chủ thì phải hết sức rộng rãi. Dân chủ không chỉ trong nội bộ tổ chức, nội bộ Đảng
mà dân chủ với nhân dân, trong xã hội. Dân chủ rất cần rộng rãi và gắn chặt với

việc thực hiện nghiêm minh kỷ cương phép nước.
Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ
chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật. Những biểu hiện dân chủ
hình thức, phe cánh, chun quyền độc đốn, coi thường tập thể, coi thường quần
1, 2
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 7, Nxb CTQG, H 2002, tr 240, tr 241.


25

chúng nhân dân… là trái với bản chất đạo đức cách mạng cần phải được lên án và
loại bỏ.
Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên, phải nâng cao hơn nữa
sự gần gũi với dân, học dân, u kính dân và có trách nhiệm với nhân dân, vì nhân
dân mà phục vụ tận tình, chu đáo.
Muốn nâng cao ý thức dân chủ, kỷ luật, gắn bó với nhân dân, bài thuốc màu
nhiệm nhất là coi trọng tự phê bình và phê bình. Để thực hiện được điều đó phải
xây dựng động cơ tự phê bình và phê bình trong sáng, tức là gắn liền với quyết tâm
sửa chữa, là để đồng chí mình tiến bộ hơn. Cần phải loại bỏ trong mỗi người, mỗi
tổ chức kiểu tự phê bình và phê bình mang tính hình thức, khơng dám nói thẳng,
nói thật; lợi dụng phê bình để tâng bốc nhau hoặc mạt sát nhau, soi mói người, dễ
dãi với bản thân… Những biểu hiện đó là “tâm khơng trong, lịng khơng sáng”,
khơng thể đưa tự phê bình và phê bình đến kết quả.
Thứ tư, phát huy chủ nghĩa yêu nước đồng thời gắn chặt với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng trong hoàn cảnh lịch sử mới.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cịn là tấm gương về chủ nghĩa quốc tế
trong sáng. Ở Người chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong
sáng gắn chặt với nhau. Người ln vì quyền lợi dân tộc, vì độc lập tự do của Tổ

quốc, vì hạnh phúc của dân tộc mình, nhưng đồng thời cũng chính bằng cuộc đấu
tranh đó, Người đã hướng nhân dân ta góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Trong q trình đó, tinh thần tự lực, tự cường, không ỷ lại luôn luôn được Người
nhắc nhở và nhấn mạnh.
Học tập và làm theo Người, Đảng và nhân dân ta cần ra sức đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, làm cho dân giàu, nước mạnh. Đó là điều kiện để cách mạng nước
ta góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Với vị thế đó nước ta có
vị trí xứng đáng, có tiếng nói hiệu quả trong giải quyết các vấn đề quốc tế hiện


×