Lời mở đầu
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN,
vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đợc đặt ra nh một yêu cầu
tất yếu đối với nền kinh tế Việt nam. Kinh tế t nhân là một bộ phận trong cơ
cấu ấy, đã có một thời kỳ bị coi là bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy
nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ.
Thực tiễn đã cho thấy quan niệm nh vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở
lại của của kinh tế t nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của
nền kinh tế theo hớng tích cực. Cùng với chủ trơng chuyển nền kinh tế Việt
nam sang kinh tế thị trờng, Đảng và Nhà nớc đã ban hành nhiều chủ trơng,
chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong
đó có kinh tế t nhân.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về thành phần kinh tế t nhân,
tôi đã lựa chọn đề tài " Vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển
kinh tế t nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam".
Trong phạm vi của đề tài, tôi xin giới hạn nghiên cứu quá trình phát
triển của kinh tế t nhân ở Việt Nam từ sau đại hội VI đến nay dới quan
điểm toàn diện và đa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
thành phần kinh tế này.
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu các thành phần kinh tế t nhân ở Việt
nam theo quan điểm toàn diện, xem xét thực trạng thành phần kinh tế này từ
đó đa ra một số giải pháp góp phần phát triển đất nớc.
Về mặt lý luận việc nghiên đề tài phần nào giúp ta hiểu sâu sắc hơn lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu thành phần kinh
tế t nhân theo quan điểm toàn diện có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao
hiệu quả hoạt động của kinh tế t nhân, góp phần phát triển đất nớc cũng nh
việc hoạch định những chính sách đối với các thành phần kinh tế này.
Đề tài đợc nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn cứ
vào một số quan điểm đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc, nhất là
những quan điểm đổi mới trong lĩnh vực kinh tế từ sau Đại hội Đảng cộng
sản Việt Nam lần thứ VI. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu sử
dụng phơng pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá, thống kê
Nội dung đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận gồm hai chơng
Chơng I: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
Chơng II: Vận dụng quan điểm toàn diện trong phát triển kinh tế t nhân
ở Việt nam.
Do điều kiện thời gian cũng nh trình độ am hiểu về vấn đề này còn hạn
chế, nên không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận đợc những ý
kiến đánh giá của thầy cô giáo và các bạn để đề tài này đợc hoàn thiện hơn.
1
Chơng1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
1.1- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tợng tồn tại một cách tách rời
nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có
sự ràng buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ hời
hợt, bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Một số ngời theo quan điểm siêu hình
cũng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhng laị phủ nhận khả
năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
Ngợc lại, quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại nh một chỉnh
thể thống nhất. Các sự vật hiện tợng và các quá trình cấu thành thế giới đó
vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn
nhau.
2
Về nhân tố quy định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tợng trong thế
giới, chủ nghĩa duy tâm cho rằng cơ sở của sự liên hệ , sự tác động qua lại
giữa các sự vật và hiện tợng là các lực lợng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm
giác của con ngời. Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ
sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tợng là cảm giác. Đứng trên quan
điểm duy tâm khách quan, Hêghen lại cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại
giữa các sự vật, hiện tợng là ở ý niệm tuyệt đối.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định cơ sở của sự
liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tợng là tính thống nhất vật chất của thế
giới.
Theo quan điểm này, các sự vật hiện tợng trên thế giới dù có đa dạng,
khác nhau nh thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại
khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức, t tởng của con ngời vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con ngời, nội dung của chúng
cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan,
tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tợng, các quá trình, mà nó
còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và
mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối
liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới,
có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua
lại đợc thể hiện thông qua một hay một số khâu trung gian, có mối liên hệ
bản chất, có mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa
các sự vật khác nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vật. Sự
vật, hiện tợng nào cũng vận động, phát triển qua nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau, tạo thành
lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tơng ứng.
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận
động và phát triển của chính các sự vận động và phát triển của các sự vật
hiện tợng.
Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhaugiữa
các bộ phận, giac các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự
vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự
vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tợng khác
nhau, nói chung nó không có ý nghĩa quyết định, Hơn nữa, nó thờng phải
thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động
và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, nói nh vậy không có nghĩa là phủ nhận
hoàn toàn vai trò của mối liên hệ bên ngoài đối với sự vận động và phát triển
của sự vật, hiện tợng. Mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi
có thể giữa vai trò quyết định.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu
nhiên cũng có tính chất tơng tự nh đã nói ở trên. Ngoài ra chúng còn có
những nét đặc thù. Chẳng hạn nh, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan
3
hệ này lại là cái tất nhiên khi xem xét trong mối liên hệ khác, ngẫu nhiên lại
là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của cái tất yếu, hiện tợng là hình thức
biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc thù của sự
biểu hiện những mối liên hệ tơng ứng.
Nh vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa
nhận tính tơng đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các loại liên hệ khác
nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá nh vậy có thể diễn ra hoặc
do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách
quan của chính sự vật và hiện tợng.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự
nhiên, trong xã hội và trong t duy con ngời, phép biện chứng duy vật, tập
trung nghiên cứu những loại liên hệ chung, mang tính chất phỏ biến. Những
hình thức và những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của
thế giới là đôí tợng nghiên cứu của các ngành khoa học khác.
1.2 - Quan điểm toàn diện trong triết học Mác- Lênin
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tợng, triết học Mác - Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức
Với t cách là một nguyên tắc phơng pháp luận trong việc nhận thức các
sự vật hiện tợng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có đợc nhận thức đúng đắn
về sự vật hiện tợng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có đợc nhận thức đúng
đắn về sự vật, hiện tợng. Một mặt, chúng ta phải xem xét nó trong m,ối liên
hệ qua lại giữa các bộ phậm, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính
sự vật, hiện tợng đó, mặt khác chúng ta phải xem xét trong mối liên hệ giữa
nó với với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). đề cập đến hai nội
dung này, V.I. Lênin viết "muốn thực sự hiểu đợc sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của
sự vật đó".
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức đợc sự vật, cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con ngời. ứng
với mỗi con ngời, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con
ngời bao giờ cũng chỉ phản ánh đợc một số lợng hữu hạn những mối liên hệ.
Bởi vậy, tri thức đạt đợc về sự vật cũng chỉ là tơng đối, không đầy đủ không
trọn vẹn. Có ý thức đợc điều này chúng ta mới tránh đợc việc tuyệt đối hoá
những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến,
tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức đợc sự vật ,
cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, "cần thiết phải xem xét tất cả mọi
mặt để đè phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc."
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ
nó chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang
nhaunhững thuộc tính, những quy định khác nhau của của sự vật đợc thể
4
hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực
đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật
đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của
sự vật hay hiện tợng đó.
Nh vậy, quan điểm toàn diện cũng không đồng nhất với cách xem xét
dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tợng. Nó đòi
hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện tợng đó.
Có thể kết luận, quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với
t cách là nguyên tắc phơng pháp luận để nhận thức sự vật sẽ phải trải qua
các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể để để nhận thức
một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức
phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Quan điểm toàn diện vừa khác chủ nghĩa chiết trung vừa khác thuật
nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác
nhau nhng lại kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau
thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Chủ nghĩa chiết trung không biết
rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản nên rơi vào chỗ cào bằng các mặt,
kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do đó hoàn toàn
bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn. Thuật nguỵ biện cũng chỉ chú ý
đến những mặt , những mối liên hệ khác nhau của sự vật nhng lại đa cái
không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả
chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện khác nhau
của phơng pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật, hiện tợng.
5
Chơng 2: Quan điểm toàn diện trong việc phát
triển kinh tế t nhân ở Việt nam
2.1 Kinh tế t nhân và vai trò của nó trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt nam
2.1.1 Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nớc ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Nớc ta quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến,
lực lợng sản xuất còn rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên CNXH của nớc
ta là bỏ qua chế độ t bản đã nói lên rằng, đất nớc ta cha có tiền đề về cơ sở
vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa t bản tạo ra. Đối với các
nớc đã qua chế độ t bản hoặc chủ nghĩa t bản đã phát triển ở mức trung bình
cũng không thể thiết lập ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời
sống kinh tế. Nớc ta, với nền kinh tế lạc hậu, điểm xuất phát thấp, lại càng
không thể xây dựng nhanh chóng chế độ công hữu mà phải trải qua một thời
kỳ lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian quá độ.
Nếu nh ở Đại hội III của Đảng cộng sản việt nam, chúng ta đã nôn
nóng xoá bỏ mọi hình thức sở hữu, mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu
vực kinh tế t nhân. Lúc đó, nền kinh tế nớc ta chỉ có một thành phần là thành
phần kinh tế XHCN, thì từ sau Đại VI kinh tế t nhân mới đợc khôi phục và
phát triển.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nớc ta tồn tại sáu thành phần kinh
tế; kinh tế Nhà nớc, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế t bản nhà
nớc, kinh tế t bản t nhân, và kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài (Đại hội VIII coi
đây là kinh tế t bản Nhà nớc).
Kinh tế Nhà nớc; Vốn và t liệu sản xuất thuộc sở hữu Nhà nớc, kinh tế
Nhà nớc là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp Nhà nớc; các tài
nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu Nhà nớc nh; đất đai, hầm mỏ ,
rừng , biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng Nhà nớc, hệ thống bảo
hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nớc góp vào các doanh
nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác, (Cần phân biệt phạm trù kinh
tế Nhà nớc với doanh nghiệp Nhà nớc. Kinh tế Nhà nớc rộng và mạnh hơn
bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc).
Kinh tế tập thể; Vốn và t liệu sản xuất thuộc sở hữu tập thể, do những
ngời lao động t nguyện góp vốn và lao động, phân phối theo nguồn vốn và
lao động đã đóng góp. Thành phần kinh tế này tồn tại trong nông nghiệp, thủ
công nghiệp và dịch vụ nhỏ, dới các loại hình hợp tác xã với quy mô và
trình độ khác nhau. Đại hội Đảng VIII gọi là thành phần kinh tế hợp tác, nay
gọi là thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể giống kinh tế Nhà nớc ở chỗ đều là những thành phần
kinh tế trong đó ngời lao động làm chủ (mặc dù ở mức độ khác nhau) và sản
xuất đợc tiến hành vì lợi ích của ngời lao động và toàn thể xã hội
Kinh tế t bản Nhà nớc; Là loại hình sở hữu hỗn hợp, vốn và t liệu sản
xuất thuộc sở hữu Nhà nớc và các nhà t bản ở trong và ngoài nớc dới hình
thức các xí nghiệp liên doanh, công ty hợp doanh.
6
Thành phần này đợc khôi phục từ sau năm 1986.
Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ; Vốn và t liệu sản xuất thuộc sở hữu
cá thể. Bao gồm những hộ sản xuất độc lập ở thành thị và nông thôn, dựa
trên sở hữu riêng về t liệu sản xuất của hộ gia đình, lao động của hộ gia đình
và do chủ cơ sở quyết định phơng án sản xuất kinh doanh.
Sau năm 1986, thành phần này đợc khôi phục và phát triển trong cả nớc.
Kinh tế t bản t nhân; Là đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số Nhà
t bản góp lại để sản xuất, kinh doanh và thuê mớn nhân công. Kinh tế t bản t
nhân có nhiều hình thức là xí nghiệp t doanh hay công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Kinh tế t bản t nhân dựa trên dựa trên sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa về t
liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài; Vốn và t liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà
t bản nớc ngoài, đầu t vào Việt nam. Đại hội Đảng VIII coi đây là một bộ
phận nằm trong thành phần kinh tế t bản Nhà nớc. Đến đại hội IX đã xác
định nó là một thành phần kinh tế riêng.
Thành phần kinh tế này ra đời là kết quả của công cuộc đổi mới và mở
cửa của nớc ta.
2.1.2 Vai trò của kinh tế t nhân ở Viêt nam hiện nay
Để phát triển kinh tế, bất kỳ một quốc gia nào cũng cần phải phát huy
các nguồn lực. Các nguồn lực ở đây bao gồm cả các nguồn lực bên trong
(nội lực) và các nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), trong đó nội lực giữ vai trò
chủ đạo. Nội lực có thể hiểu là toàn bộ vốn, lao động, chất xám,đợc huy
động từ trong nớc. Các nguồn lực này thuộc sở hữu của một trong bốn thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nớc, kinh té tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế t bản t
nhân và kinh tế t bản nhà nớc.
Kinh tế cá thể có đặc diểm là sản xuất manh mún, phân tán, trình độ kỹ
thuạt thấp, công nghệ lạc hậu Vì vậy, đóng góp của thành phần kinh tế này
vào thu nhập quốc dân chiếm một tỷ trọng rất nhỏ.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể ở nớc ta, kinh tế Nhà nớc và kinh tế tập thể
là bộ phận giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nhng do một thời gian dài
tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, hai thành phần
kinh tế này cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế nh hoạt động kém hiệu quả, lãi
giả, lỗ thật, độc quyền.
Trong tình hình đó, việc phát triển kinh tê t nhân là cần thiết nhằm một
mặt phát huy nội lực, huy động một lợng vốn lớn, chất xám trong dân chúng
để đầu t vàn sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo công ăn việc làm cho ngời
laođộng, phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế t nhân còn
tạo ra môi trờng cạnh tranh với kinh tế Nhà nớc và kinh tế tập thể, từ đó thúc
đẩy tăng trởng kinh tế đồng thời phát triển khoa học công nghệ.
Nếu nh trớc đại hội VI, kinh tế t nhân ở Việt nam gần nh đã bị xoá bỏ
thì từ sau Đại hội VI, kinh tế t nhân dần dần đợc khôi phục và xuất hiện trở
lại, nhng nhanh nhất và rõ rệt nhất là từ năm 1990 trở đi, năm 1990 Việt nam
có gần 500 xí nghiệp t nhân khoảng 36 vạn hộ cá thể, tiểu chủ thì đến năm
1996 các con số này đã nên tới 21.360 doanh nghiệp và công ty t nhân,
2.210.000 hộ cá thể, tiểu chủ.
7
Hiện nay, khu vực kinh tế t nhân đóng góp khoảng 40% trong tổng GNP.
Với nhiều u thế, kinh tế t nhân ở Việt nam đang cạnh tranh gay gắt với
các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế và ngày càng chiếm linhx thị
trờng. Tỷ trọng hàng hoá bán lẻ và hàng hoá dịch vụ của khu vực này trong
tổng mức bán lẻ hàng oá, dịch vụ trên thị trờng xã hội tăng từ 60% năm 1990
lên 73,1% năm 1998 và đến năm 2000 con số này là 75%.
Điều này có nghĩa là việc phát triển thành phần kinh tế t nhân đã góp
phần tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động. Chính vì vậy, Nhà nớc
cần phải đánh giá đúng, từ đó có chính sách quản lý, giám sát và tạo điều
kiện phát triển kinh tế t nhân nh là một lực lợng kinh tế quan trọng trong quá
trình xây dung và phát triển đất nớc.
2.2- Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế t nhân ở
Việt nam
Để đảm bảo có đợc nhận thức đúng đắn về một vấn đề, chúng ta phải
xem xét vấn đề đó theo quan điểm toàn diện. Điều này có nghĩa là phải xem
xét sự vật, hiện tợng trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính khác nhau của sự vật, hiện tợng cũng nh trong mối liên
hệ qua lại giữa sự vật đối với các sự vật khác và trong mối liên hệ với nhu
cầu thực tiễn của con ngời.
Với mục đích có đợc nhận thức đúng đắn, từ đó đề ra những chủ trơng,
chính sách đúng nhằm xây dựng và phát triển kinh tế t nhân, chúng ta cần
xem xét thành phần kinh tế này trong các mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu
tố thuộc tính của nó và giữa nó với các thành phần kinh tế khác, với các bộ
phận khác trong nền kinh tế
Nh đã trình bày ở trên, kinh tế t nhân tồn tại nh một bộ phân không thể
thiếu của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng XHCN ở Việt nam
với vo số mối quan hệ. Có thể phân chia các mối quan hệ này thành hai loại:
các mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế t nhân với nhau (Các
mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế t nhân với nhau (các mối
quan hệ bên trong) và các mối quan hệ giữa kinh tế t nhân với các bộ phận
khác của nền kinh tế (các mối quan hệ bên ngoài).
Mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế t nhân: Đây là mối
quan hệ cơ bản, giữa vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các
thành phần kinh tế này.
Xét trên phạm vi một doanh nghiệp t nhân (đơn vị kinh tế cơ sở của
thành phần kinh tế nay), các mối quan hệ bao gồm 3 quan hệ cơ bản là quan
hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuát và
quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mối quan hệ này là ba bộ
phận của sản xuất.
Với tính cách là những mối quan hệ kinh tế khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn của con ngời, các quan hệ này mang tính vật chất thuộc
đời sống xã hội, là hình thức xã hội của lực lợng sản xuất và là cơ sở của đời
sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ này trong quá trình sản xuất luôn gắn
8
bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tơng đối so với sự vận
động không ngừng của lực lợng sản xuất.
Theo lý luận về hình thái kinh tế xã hội, tính chất của quan hệ sản xuất
nói chung, trớc hết đợc quy định bởi quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất biểu hiện thành chế độ sở hữu - là đặc trng cơ bản của phơng thức sản xuất.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế xã hội xác định,
quan hệ sở hữu luôn đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ khác.
Thành phần kinh tế t nhân cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan hệ sở
hữu là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất. Chính
quan hệ sản xuất của chủ doanh nghiệp t nhân đối với t liệu sản xuất đã quy
định quan hệ tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp và quan hệ phân phối sản phẩm. Chủ doanh nghiệp t nhân là ngời sở
hữu tất cả các tài sản của doanh nghiệp và họ là ngời quyết định đến việc tổ
chức sản xuất kinh doanh. Các ông chủ doanh nghiệp t nhân có thể tự mình
tổ chức hoạt động của doanh nghiệp hoặc thuê ngới quản lý. ở Việt nam
hiện nay, thông thờng các chủ doanh nghiệp t nhân là ngời giữ vị trí tổng
giám đốc hay giám đốc, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
Toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân
sách nhà nớc thuộc quyền quyết định của họ.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản
lý sản xuất và các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp đến
quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hớng phát triển của bản thân doanh nghiệp
nói riêng và của cả thành phần kinh tế t nhân nói chung. Thông qua cách
thức, phơng pháp điều khiển, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh,
chủ doanh nghiệp có khả năng đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển của
doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển nh vũ bão của khoa học công
nghệ, quan hệ tổ chức, quản lý trong các doanh nghiệp ngày càng chịu sự tác
động của các phơng tiện hiện đại. Điều này chứng tỏ cùng với sự phát triển
của lực lợng sản xuât, các quan hệ sản xuất nói chung, quan hệ sản xuất
trong doanh nghiệp t nhân nói riêng cũng đang biến đổi theo một cách tơng
ứng.
Bên cạnh quan hệ về tổ chức, quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm
lao động cũng là một nhân tố có tác động nh "chất xúc tác" cho quá trình
phát triển của từng doanh nghiệp cũng nh của toàn bộ thành phần kinh tế t
nhân. Việc giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ tạo động lực thúc đẩy nhanh
tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Ngợc lại, quan hệ này đợc giải quyết
không tốt sẽ khiến ngời lao động cảm thấy chán nản, từ đó làm kìm hãm sản
xuất. Thực tế cho thấy, ở những doanh nghiệp t nhân mà chủ doanh nghiệp
giải quyết tốt quan hệ này , hiệu quả sản xuất kinh doanh rất cao.
Mối quan hệ giữa thành phần kinh tế t nhân với các thành phần kinh tế
khác.
Trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nh ở Việt nam hiện nay, bên
cạnh kinh tế t nhân còn có các thành phần kinh tế khác nh, kinh tế tập thể,
kinh tế cá thể, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài.
9
Mối quan hệ giữa thành phần kinh tế t nhân với các thành phần kinh tế
khác là mối quan hệ bên ngoài, không cơ bản, nó không giữ vai trò quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của kinh tế t nhân. Tuy nhiên, các mối quan
hệ này cũng có tác động thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của từng doanh
nghiệp t nhân nói riêng cũng nh toàn bộ thành phần kinh tế này nói chung.
Thực tế ở Việt nam cho thấy, trớc năm 1986 kinh tế t nhân hầu nh không thể
phát triển đợc do những quan niệm, chính sách sai lầm đối với thành phần
này. Từ sau Đại hội VI đến nay, kinh tế t nhân đang dần dần đợc khôi phục
và phát triển.
Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong kinh vừa thống nhất lại
vừa mâu thuẫn với nhau, biểu hiện :
Một mặt
+ Chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau vì: chúng có mối liên hệ
với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển (về vốn, công nghệ, thị trờng)
chúng đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội.
+ Các thành phần kinh tế trên đều hoạt động theo kế hoạch định hớng
của Nhà nớc, chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nớc bằng các chính sách; tài
chính, tiền tệ, phân phối thu nhập
Thành phần kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành phần
kinh tế khác hoạt động.
Mặt khác
Các thành phần kinh tế trên cũng có quan hệ mâu thuẫn với nhau
Do hình thức sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất. Một bên là công hữu,
một bên là t hữu. Bởi vậy, về lợi ích lâu dài chúng mâu thuẫn với nhau ( lợi
ích xã hội, lợi ích cá nhân).
Đồng thời các xí nghiệp trong các thành phần kinh tế này luôn cạnh
tranh với nhau trong cơ chế thị trờng để tồn tại.
Việc phân chia các mối quan hệ thành các quan hệ bên trongvà quan hệ
bên ngoài chỉ mang tính tơng đối. Có những mối quan hệ, xét từ góc độ này
là quan hệ bên trong, là cơ bản nhng xét từ góc độ khác lại là quan hệ bên
ngoài, là không cơ bản.
Nh đã phân tích ở trên, thành phần kinh tế t nhân có vai trò rất quan
trọng trong việc góp phần đạt đợc mục tiêu phát triển kinh tế nớc ta.
Qua mời lăm năm đổi mới, đất nớc ta có một số thuận lợi. Chúng ta có
nguồn tài nguyên tơng đối phong phú, nguồn nhân lực dồi dào. Tình hình
chính trị - xã hội nhìn chung là ổn định, môi trờng hoà bình, sự hợp tác liên
kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới cũng nh trong khu vực, tạo
điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nộilực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực (nguồn vốn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rông thị trờng.) Đây là những điều kiện rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nói
chung, kinh tế t nhân nói riêng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
Tuy nhiên bên cạnh đó chúng ta cũng gặp không ít khó khăn. Những
yếu kém vốn có của một nền kinh tế lạc hậu lại có một thời gian dài vận
hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp. Thiên tai lớn liên tiếp xảy
ra, khủng hoảng tài chính tiền tệ ở một số nớc trong khu vực, tình hình thế
giới và khu vực diễn ra hết sức phức tạp.
10
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp t nhân trong nền kinh tế
nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay phụ thuộc vào cả các nhân tố chủ quan
bên trong doanh nghiệp cũng nh những điều kiện khách quan bên ngoài
doanh nghiệp.
Các nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp bao gồm tất cả các nguồn
nhân lực, vật lực trong doanh nghiệp - những yếu tố mà trong một phạm vi
nhất định hoạt động theo ý muốn chủ quan của doanh nghiệp. Ngày nay,
cùng với sự phát triển nh vũ bão của khoa học kỹ thuật thì nhân tố con ngời
ngày càng giữ vị trí quan trọng. Đây là đặc trng của nền kinh tế hiện đại.
Các điều kiện khách quan bao gồm toàn bộ các yếu tố bên ngoài, tồn tại
độc lập, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp, bao gồm thị
trờng, các quy luạt kinh tế, các chính sách của Nhà nớc, cơ sở hạ tầng kỹ
thuậtĐây là những yếu tố có ảnh hởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần nh ở nớc ta hiện nay, thị trờng là
một yếu tố rất quan trọng. Giá trị của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra
chỉ đợc thực hiện khi nó đợc trao đổi trên thị trờng. Thị trờng là nơi kiểm
nghiệm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ những doanh
nghiệp nào thích nghi đợc với thị trờng mới có thể tồn tại phát triển đợc.
Ngoài ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn chịu sự chi
phối của các quy luật của kinh tế thị trờng (nh quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, quy luật cung - cầu.), các chính sách của nhà nớc.
Để đạt đợc hiệu quả cao trong kinh doanh, doanh nghiệp t nhân nói
riêng, các doanh nghiệp nói chung cần phải có nhận thức đúng đắn về các
mối quan hệ, biết phát huy nhân tố chủ quan một cách sáng tạo phù hợp với
điều kiện khách quan.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế t nhân ở Việt nam hiện nay,
nhằm phát triển kinh tế của đất nớc, theo tôi, về phía các doanh nghiệp cần
phải huy động tối đa cácnguồn lực của chính bản thân mình, nhất là phải
phát huy nhân tố con ngời. Doanh nghiệp cần có chính sách xây dựng đội
ngũ ngời lao động không những khỏe về thể chất mà còn phải có tri thức,
xây dựng bộ máy quản lý có năng lực chuyên môn giỏi, thích ứng với cơ chế
thị trờng, dám chịu trách nhiệm, chịu rủi ro. Việc tạo ra một môi trờng lao
động thoải mái, xây dựng quan hệ tốt giữa ngời quản lý và ngời lao động,
giữa ngời lao động với nhau cũng là một yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế t nhân nói riêng, bên cạnh những nỗ lực, cố
gắng của bản thân các doanh nghiệp thì vai trò của Nhà nớc trong việc tạo
các điều kiện khách quan là rất quan trọng. Có rất nhiều yếu tố mà sự nỗ lực
của bản thân doanh nghiệp cũng không thể tạo dựng đợc.
Nghị quyết IX Đảng cộng sản Việt nam đã chỉ rõ "Thực hiện nhất quán
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều phải là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trờng định hớng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh; trong đó kinh tế Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà
11
nớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân".
Để phát triển kinh tế t nhân, nhằm giúp cho khu vực này hoạt động có
hiệu quả, đem lại lợi ích cho xã hội, trong thời gian tới cần:
Về nhận thức:
Cần thừa nhận sự tồn tại và phát triển của kinh tế t nhân là sự vận dụng
đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lợng sản xuất hiện nay ở nớc ta.
Tạo cơ hội để phát triển kinh tế t nhân là con đờng đúng đắn nhằm huy
động nội lực để xây dựng và phát triển đất nớc theo con đờng XHCN.
Phát triển kinh tế t bản t nhân sẽ góp phần tích cực vào việc phát triển
lực lợng sản xuất để thoả mãn nhu cầu vật chất, đồng thời thúc đẩy nhu cầu
văn hoá và tinh thần gia tăng. Điều đó sẽ tạo vật chất cho CNXH. Phát triển
kinh tế t bản t nhân là tiền đề để phát triển chủ nghĩa t bản nhà nớc, mà chủ
nghĩa t bản nhà nớc là phòng chờ để đi vào chủ nghĩa xã hội.
Về chính sách và giải pháp:
a) Nhà nớc cần tạo ra và duy trì môi trờng kinh doanh thuận lợ icho
kinh tế t nhân
Nhà nớc cần tạo ra và duy trì môi trờng kinh doanh thuận lợi cho kinh tế
t nhân. Thực tế hiện nay cho thấy môi trờng kinh doanh cho kinh tế t nhân
đang đợc cải thiện. Luật khuyến khích đầu t trong nớc đang đợc sửa đổi, xoá
bỏ những rào cản cho phép t nhân tham gia vào nhiều ngành nghề khác
nhau, đơn giản hoá thủ tục doanh nghiệp, dẫn tới sự ra đời của hơn 10 nghìn
doanh nghiệp và công ty t nhân mới. Nhà nớc đang có những ủng hộ mạnh
mẽ và thờng xuyên cho kinh tế t nhân phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiệu hạn chế. Hiện tại vẫn cha
có quy định, thể chế rõ ràng về việc đăng ký và dùng quyền sử dụng đất đai
làm tài sản thế chấp hoặc góp vốn liên doanh. Các doanh nghiệp t nhân vẫn
còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận đối với nguồn vốn ngân hàng. Chính
sách kinh tế thiếu rõ ràng và thay đổi nhanh trong một thời gian ngắn đã làm
tăng thêm rủi ro và chi phí kinh doanh, làm giảm những nguồn lực mà đáng
lẽ các cơ sở t nhân có thể sử dụng để mở rộng đầu t. Quản lý về tài chính của
Nhà nớc đối với kinh tế t nhân còn thiếu chặt chẽ, cơ chế hiện hành cha tạo
ra khuôn khổ pháp lý để duy trì hoạt động của các cơ sở kinh tế t nhân theo
hớng minh bạch, có trách nhiệm và không mang tính độc quyền.
Vì vậy, để phát triển kinh tế t nhân, việc hoàn thiện hệ thống chính sách
đối với nó là hết sức quan trọng. Tránh phân biệt đối xử giữa các thành phần
kinh tế. Điều đó có nghĩa là cần tạo cho các doanh nghiệp t nhân một sân
chơi bình đẳng với mọi thành phần kinh tế khác.
b) Để khu vực kinh tế t nhân phát triển theo định hớng XHCN cũng
không thể xem nhẹ vai trò kiểm tra, kiểm soát của Nhà nớc chuyên chính vô
sản. Nhiều nhận xét cho rằng, vai trò kiểm tra và kiểm soát của Nhà nớc đối
với các doanh nghiệp t nhân hiện nay rất yếu, từ khâu đăng ký kinh doanh,
kiểm soát hoạt động kinh doanh đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Hơn
nữa, quan điểm thực hiện kiểm tra, kiểm soát lại nằng về "đe nẹt, gò ép" hơn
là "hỗ trợ, giúp đỡ tạo điều kiện". Tình trạng đó gây nên hiện tợng trốn tránh
12
sự kiểm tra, kiểm soát bằng nhiều thủ đoạn khác nhau là khá phổ biến. Vì
vậy, cần sớm hình thành các quy chế có liên quan đến việc kiểm tra, kiểm
soát các doanh nghiệp t nhân là một công tác trọng tâm để phát triển kinh tế
t nhân.
c) Vai trò của của các tổ chức Đảng, công đoàn, Đoàn thành niên trong
khu vực kinh tế t nhân.
Hiện tại, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với khu vực kinh tế t nhân
mới chủ yếu tác động ở tầm vĩ mô, còn ở tầm vi mô thì nhìn chung rất ít cơ
sở kinh tế t nhân có sự hoạt động của các tổ chức Đảng, công Đoàn và đoàn
thanh niên. Bởi vì kinh tế ở Việt nam hiện nay còn nhỏ bé về quy mô và hầu
hết các chủ kinh doanh t nhân đêù trởng thành từ lao động hoặc đều có quan
hệ ruột thịt với những ngời lao động nên tình trạng bóc lột lao động qúa sức,
vi phạm nhân quyền cha xuất hiện. Vì vậy các tổ chức đảng, công đoàn,
Đoàn thanh niên trong các cơ cở kinh tế t nhân cha phải là vấn đề cấp bách.
Song, kinh tế t nhân xét về bản chất vẫn là loại hình kinh tế dựa trên chế độ
t hữu , là cơ sở làm nảy sinh quan hệ bóc lột. Vì vậy, để ngăn chặn những
hiện tợng không lành mạnh trong kinh doanh, và để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của ngời lao động, về lâu dài, cần thiết phải hình thành đợc các tổ chức
Đảng, công đoàn, Đoàn thanh niên trong các cơ sở kinh tế t nhân và phải coi
đây là yếu tố quan trọng để duy trì định hớng XHCN cho sự phát triển của
kinh tế t nhân ở Việt nam.
13
Kết luận
Đại hội Đảng VI đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển của kinh
tế t nhân. Những quan điểm đổi mới kinh tế đã thúc đẩy và khơi dậy mọi
tiềm năng sẵn có trong nhân dân. Các chính sách, cơ chế quản lý đã từng bớc
đợc hoàn thiện và đồng bộ.
Mặc dù, trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiên nay,
thành phần kinh tế t bản t nhân không còn giữ vai trò thống trị nh dới chế độ
t bản chủ nghĩa, vì nó không nắm giữ các mạch máu kinh tế quan trọng, dù
nó còn chiếm tỷ trọng lớn về vốn kinh doanh và giá trị tổng sản lợng. Nhng
thành phần này vẫn còn có một vai trò đáng kể xét trên phơng diện phát triển
lực lợng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng nh về phơng diện giải quyết các
vấn đề xã hội. Nó có tác dụng, tận dụng tiền vốn vật t kỹ thuật và kinh
nghiệm quản lý của các nhà t bản, giải quyết việc làm cho xã hội...Thành
phần này còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ chừng nào còn phát huy tác
dụng.
Thực tiễn luôn vận động và phát triển không ngừng. Để nâng cao hơn
nữa hiệu quả hoạt động của của nền kinh tế nói chung, vấn đề đặt ra là phải
không ngừng nâng cao nhận thức về kinh tế thị trờng - mà kinh tế t nhân là
một bộ phận không thể thiếu, từ đó vận dụng một cách sáng tạo trong hoạt
động thực tiễn. Đây là một vấn đề khá phức tạp cần đợc nghiên cứu và hoàn
thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và đào tạo- Giáo trình Triết học (dành cho nghiên cứu
sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết) NXB chính trị
quốc gia, Hà nội 1999
14
2. C.Mác - Ănghen; toàn tập, tập 23, NXBchính trị quốc gia, Hà nội
1994
3. Học viện chính trị quốc gia Hồ chí Minh; Giáo trình kinh tế học
chính trị Mác - Lênin, NXB chính trị quốc gia, Hànội 1999
4. Học viện chính trị quốc gia Hồ chí Minh; Giáo trình Triết học Mác
-Lênin, NXB chính trị quốc gia, Hà nội 1999
5. Tạp chí Cộng sản các số 5/1997, 8/1999, 10/1999, 1/2000, 7/2001
6. Tạp chí Kinh tế phát triển (số chuyên đề về khoa Mác - lênin), tháng
11/2001
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc
gia, Hà nội 2001
Mục Lục
Lời mở đầu
Trang
1
Chơng 1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện
3
1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
3
1.2 Quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin
5
Chơng 2: Quan điểm toàn diện trong việc phát triển kinh tế t nhân
ở Việt nam
7
15
2.1 Kinh tế t nhân và vai trò của nó trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở Việt nam
7
2.1.2 Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nớc ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
7
2.1.2 Vai trò của kinh tế t nhân ở Việt nam hiên nay
8
2.2 Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế t nhânở
việt nam hiện nay
9
Kết luận
17
Tài liệu tham khảo
18
16