Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO bài GIẢNG y học cổ TRUYỀN CHỨNG NĂNG TẠNG PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.6 KB, 13 trang )

CHỨC NĂNG TẠNG PHỦ (The zang – fu functions)
.1. Mục tiêu học tập.
-Giải thích được sinh lývà bệnh lý của tạng phủ.
- Nắm vững quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức với các tạng phủ trong cơ thể
với nhau.
- Hiểu được cơ sở của viêc đưa ra pháp điều trị
2.Đại cương.
+Khái niệm
Học thuyết tạng phủ là bộ phận chủ yếu tạo thành lý luận cơ bản của y học cổ
truyền.
Học thuyết xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, mọi hoạt động sinh lý bệnh lý của
cơ thể đều do lục phủ ngũ tạng thông qua hệ thống kinh lạc chi phối
Mọi tổ chức cơ quan liên kết thành một thể thống nhất, chỉnh thể và có quan hệ hữu
cơ với nhau không thể tách rời.
- Về mặt sinh lý
- giữa tạng và phủ song song tồn tại và hỗ tương chế ước lẫn nhau.
Khi bệnh lý tức là quan hệ hỗ tương chế ước đã bị thay đổi.
- Tạng là chỉ ngũ tạng: tâm - can - tỳ - phế - thận.
- Phủ , lục phủ: đởm - vị - đại trường - tiểu trường - bàng quang –tam tiêu
- Quan niệm về chức năng ngũ tạng, lục phủ của y học cổ truyền có mặt cơ bản
gần giống y học hiện đại,tuynhiên có tạng khác nhau rất lớn, có những phủ đến nay
trong y học hiện đại vẫn chưa có cơ quan tương ứng ví dụ như “tam tiêu ;”Vì vậy ta
không thể đơn giản gán ghép các cơ quan của y học hiện đại vào các tạng phủ của y
học xưa.
- Học thuyết tạng phủ là lý luận về chức năng hệ thống tạng phủ ngày càng được
phát triển và nâng cao trên cơ sở lâu dài của thực tiễn lâm sàng.
Nó có ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng trong việc chẩn trị của y học cổ truyền, tuy
nhiên trong đó có một số vấn đề thuộc bản chất đang còn chưa rõ, cần được chỉnh lý
và nâng cao thêm.



3. Sinh lý và bệnh lý chủ yếu của tạng phủ.
Con người là một chỉnh thể, giữa ngũ tạng lục phủ luôn tồn tại trong mối quan hệ
phức tạp.
Có sự phân công nhưng lại có sự tương hỗ phối hợp. Bởi vì, tạng và phủ có đặc
điểm rất khác nhau :
- Ngũ tạng có chức năng tàng trữ tinh khí.
-

Lục phủ có chức năng truyền đạt tinh thô, phân biệt thanh trọc, nhào chế thủy

cốc.
- Ngoài ra còn có não, tủy, xương, mạch, đởm, tử cung, chức năng của nó có sự
giống, có mặt khác tạng phủ nên được gọi là phủ kỳ hàng.
.3 1. Tâm và tiểu trường.
* Chủ thần chí.
Tâm chủ hoạt động tư duy, ý thức, tinh thần tương đương với hoạt động thần kinh
cao cấp.
Nếu như chủ thần chí bình thường,con người thường linh hoạt nhanh nhẹn, thông
minh sáng suốt.
Khi bệnh lý thường có triệu chứng; tâm lý kinh khủng, hay quên, mất ngủ, nói cười
quá mức hoặc nặng thì hôn mê phát phiền, loạn ngôn.
* Chủ huyết mạch.
Tâm gắn liền với mạch, sở dĩ huyết tuần hoàn trong mạch máu là nhờ có sự hoạt
động của tâm.
Khi tâm khí hư nhược thì mạch tế nhược vô lực, khí đến không đều, mạch không
đầy đủ (có hình mạch, súc, kết đại).
Tâm chủ về sắc mặt nhuận trạch sáng tươi và khai khiếu ra lưỡi, sự phân bố huyết
mạch ở lưỡi và mặt đều phong phú.
Khi bình thường, sắc mặt nhuận trạch hồng nhuận sáng tươi, sắc lưỡi hồng nhạt.
Nếu tâm khí bất túc, tuần hoàn không đầy đủ, sắc mặt trắng bạch hoặc xanh tía

không tươi nhuận, sắc lưỡi tím xám;
Tâm hỏa quá vượng, đầu lưỡi hồng đỏ, miệng lưỡi sinh mụn nhọt hoặc lở loét.
Khi đàm mê tâm khiếu, thấy lưỡi cứng không nói được, người xưa cho rằng “thiệt vi
tâm chi miêu” lưỡi là nơi khai khiếu của tâm.
* Tâm quan hệ với mồ hôi.


Tâm và mồ hôi có quan hệ mật thiết, cổ nhân cho rằng “hãn vi tân dịch” người bệnh
dùng thuốc phát hãn quá độ hoặc do nguyên nhân khác dẫn đến ra mồ hôi quá nhiều
làm tổn hại tâm dương, thậm chí xuất hiện chứng nguy kịch “đại hãn vong dương”.
* Phụ.
Tâm bào còn gọi là tâm bào lạc, là ngoại về của tâm.
Do tâm là tạng quan trọng, tâm chủ chi quan. Nếu “tâm suy thập nhị quân đều nguy”
nên còn có một cơ quan ngoại vệ để bảo vệ nó.
Nếu như ngoại tà phạm tâm trước tiên vào tâm bào.
Trong bệnh ôn nhiệt, sốt cao mê sảng (loạn ngôn) là biểu hiện nhiệt nhập tâm bào,
tâm bào ở đây chủ yếu là chỉ một phần của hoạt động thần kinh cao cấp và thần kinh
thực vật
* Bệnh lý, sinh lý của tiểu trường.
Chức năng sinh lý của tiểu trường là tiếp thu thức ăn từ vị truyền đạt xuống để tiếp
tục quá trình tiêu hoá phân biệt thanh trọc.
Thanh là chỉ tinh hoa của thức ăn “thủy cốc chi tinh” từ tiểu trường sau khi hấp thu
vận chuyển lên phế.
Trọc chỉ chất thô của vật chất từ tiểu trường đưa xuống đại trường hoặc vận chuyển
qua bàng quang.
- Khi tiểu trường có bệnh, không những ảnh hưởng đến chức năng tiêu hoá hấp thu
mà còn xuất hiện tiểu tiện thất thường.
- Tâm liên hệ với tiểu trường thông qua kinh lạc tạo thành liên hệ biểu và lý.
- Nếu như tâm hỏa qúa vượng có thể thấy đầu lưỡi đau, hồng, miệng rộp loét, tiểu
tiện ngắn đỏ, thậm chí đái ra máu. Bệnh lý như vậy gọi là “tâm đa nhiệt vu tiểu

trường”. Tâm trong đông y, trên cơ bản gồm: tạng tâm của y học hiện đại và một bộ
phận thần kinh trung khu hệ thống thần kinh thực vật…cả về chức năng sinh lý bình
thường và khi phát bệnh.
2. Can và đởm.
Sinh lý và bệnh lý của can.
* Chủ sơ tiết.
Can có tác dụng thăng phát, thấu tiết, chủ quản về thư thái điều đạt khí cơ của toàn
cơ thể.


Nếu như can mất điều đạt, sơ tiết thất thường, khí cơ không thăng dẫn đến nhiều
chứng bệnh.
Nếu như can khí uất hay sinh giận dữ, đau đầu, ngực sườn đau chướng, kinh nguyệt
không đều…Trái lại can khí thăng phát quá làm cho can dương thượng nghịch hóa
hỏa sẽ dẫn đến trúng phong, thấy đau đầu dữ dội hoặc mắt đỏ, mắt đau, tai ù, tai
điếc.
Can khí không thăng phát – sinh huyễn vựng, mất ngủ dễ giật mình, tinh thần hoảng
hốt.
* Chủ tàng huyết.
Can có chức năng tàng huyết và điều tiết lượng huyết, khi hoạt động huyết dịch trữ
tàng ở can cung cấp cho các cơ quan tổ chức, khi nghỉ ngơi hoặc ngủ huyết lại dồn
về can,
Tàng huyết còn có nghĩa là có khả năng dự phòng chảy máu. Nếu chức năng tàng
huyết kém sẽ sinh ra chảy máu: thổ huyết, nục huyết…
* Khai khiếu ở mắt.
Can và mắt có liên quan mật thiết với nhau, can có bệnh thường ảnh hưởng đến sự
tinh tường của mắt.
Can hư tất thị lực giảm (quáng gà),
Can hoả vượng hay có mắt đỏ.
* Can chủ cân, vinh nhuận ra móng tay chân.

Can chủ quản hoạt động của cân, chi phối khớp xương và hoạt động cơ nhục của
toàn cơ thể.
Can nhờ vào sự nuôi dưỡng của can huyết.
Nếu như can huyết bất túc không dưỡng được cân sẽ phát sinh đau cân, tê mỏi, co
duỗi khó khăn hoặc có khi nhiệt cực dẫn đến can phong nội động cũng có thể sinh
co giật.
Móng tay, chân là phần dư của cân, móng tay, chân và can có quan hệ mật thiết, can
huyết xung túc thì móng ngón tay hồng nhuận. Can huyết bất túc, móng tay khô sác,
bạc trắng, y học xưa cho rằng: “ký hoa tại qúa”.
* Sinh lý bệnh của đởm.
Đởm là một trong sáu phủ nhưng chức năng của nó khác các phủ khác nên gọi là
phủ kỳ hàng.
Tác dụng chủ yếu của đởm là trữ tàng dịch mật. Dịch mật là dịch thể màu xanh.
Người xưa gọi mật (đởm) là “trung thanh chi phủ”.


Bệnh đởm biểu hiện chủ yếu là đau sườn, vàng da, đắng miệng, nôn mửa ra nước
đắng.
Can đởm quan hệ với nhau thông qua kinh lạc tạo thành quan hệ biểu lý, Can đởm
tương liên, khi phát bệnh thường ảnh hưởng tương hỗ, khi điều trị thường can đởm
đồng trị.
Do những lý luận trên người xưa coi chức năng can đởm như là chức năng gan mật
của tây y (về mặt cơ bản) ngoài ra còn bao gồm cả một bộ phận hệ thống thần kinh
cao cấp, hệ thống huyết dịch và cơ quan thị giác.
3. Tỳ và vị (sinh lý và bệnh lý của tỳ và vị
* Chủ về vận hoá và chuyển hóa.
Tỳ chủ quản tiêu hóa hấp thu và vận chuyển thức ăn.
Thức ăn vào vị, sau khi tiêu hóa bước đầu, tới tỳ tiếp tục tiêu hóa thêm một bước
những vật chất tinh vi (dinh dưỡng) được hấp thu phân bố khắp toàn thân, cung cấp
dinh dưỡng cho tất cả các cơ quan tổ chức của cơ thể.

Ngoài sự vận hóa thức ăn tinh vi, tỳ còn có chức năng vận hóa thủy cốc cùng với
phế và thận duy trì sự cân bằng thủy dịch trong cơ thể.
Khi chức năng vận hóa của tỳ được bình thường thì tiêu hóa hấp thu chuyển hóa tốt,
khí huyết vượng thịnh, tinh lực khỏe mạnh.
Nếu tỳ hư vận hóa thất thường, tiêu hóa hấp thu không tốt dẫn đến bụng chướng, đại
tiện lỏng nát có thể là nguyên nhân vận hóa thủy dịch trở ngại dẫn đến thủy cốc đình
trệ phát sinh thủy thũng (phù) hoặc đàm ẩm.

* Chức năng thống huyết.
Tỳ có chức năng thống nhiếp huyết dịch của toàn cơ thể.
Nếu như tỳ hư chức năng thống nhiếp ảnh hưởng làm cho “huyết bất tuần kinh” sinh
các triệu chứng chảy máu, nôn máu, chảy máu cam, băng lậu, đại tiện ra máu…
Tỳ quan hệ với việc sinh huyết rất chặt chẽ. Tỳ hư chức năng sinh hóa huyết dịch
giảm sút dẫn đến thiếu máu.
* Tỷ chủ cơ nhục tứ chi và khai khiếu ở môi miệng.
Bình thường tỳ vận hóa thủy cóc tinh vi dinh dưỡng toàn thân, ăn uống đầy đủ,
cơ nhục to khoẻ, cơ thể cường tráng, tứ chi có lực, môi miệng hồng nhuận.


Tỳ khí hư nhược, vận hóa thất thường, ăn uống kém, cơ nhục yếu mềm, tứ chi vô
lực, sắc môi trắng nhợt hoặc vàng tối.
* Bệnh lý, sinh lý của vị.
Chức năng chủ yếu của vị là thu nạp thủy cốc và cũng có tham gia nhào trộn thủy
cốc. Người xưa cho rằng “vị vi thủy cốc chi hải”.
Khi vị bị bệnh có các triệu chứng: Bụng đau, đầu nặng, ăn uống giảm sút, buồn nôn,
nôn khan.
Tỳ và vị quan hệ biểu lý thông qua kinh lạc. Tỳ chủ vận hóa, vị chủ thu nạp cùng
hoàn thành nhiệm vụ tiêu hóa hấp thu vận chuyển dinh dưỡng, tác dụng của tỳ vị đối
với cơ thể vô cùng quan trọng. Người xưa cho rằng: “Hữu vị khí tắc sinh, vô vị khí
tắc tử”.

- Vị vi hậu thiên chi bản, tỳ và vị có đặc điểm khác nhau.
- Tỳ khí chủ thăng, sợ thấp, thích táo.
- Vị khí chủ giáng, thích nhuận, sợ táo,
Hai mặt tương phản, tương thành. Vị khí có giáng, thủy cốc mới có thể đi xuống
đường tiêu hóa, đi toàn thân và đến các tạng phủ khác.
Nếu vị khí không giáng trái lại nghịch lên sẽ buồn nôn, nôn khan, ợ hơi, ợ chua,
ách nghịch, vị thống.
- Tỳ khí bất thăng lại hạ hãm (gọi là trung khí hạ hãm) sẽ dẫn đến các triệu chứng
loạn ngôn, thiếu khí, tiết tả, thoát giang, sa các tạng.
- Tỳ thuộc âm; tỳ hư dễ sinh thấp (tỳ không kiện vận được thủy thấp) thường dễ bị
thấp tà xâm phạm.
- Nếu tỳ bị thấp tà từ ngoài xâm phạm sẽ phát sốt, nặng đầu, đau mình, thân thể
nặng nề, thượng vị đầy tức, mạch nhu hoãn, rêu lưỡi trắng dày. Điều trị phải dùng
“ôn tỳ táo thấp”.
- Vị thuộc dương: bệnh ở vị đa phần thuộc nhiệt, vị hỏa, miệng khô, thích uống,
không muốn ăn hoặc đau răng, chảy máu chân răng, thổ huyết, chảy máu cam, điều
trị phải “thanh nhiệt giáng hỏa”.
- Liên hệ đông y và tây y, vị và dạ dày tương ứng với nhau. Còn tỳ của đông y
bao gồm chức năng bệnh tật của quá trình tiêu hóa hấp thu vật chất, cân bằng chuyển
hóa dịch thể và một phần sự tuần hoàn huyết dịch. So với tây y tỳ của đông y có
chức năng rất khác biệt.
4. Phế và đại trường (sinh lý và bệnh lý của phế và đại trường)


* Phế chủ khí.
Chỉ chức năng hô hấp, trao đổi khí để duy trì hoạt động sinh mệnh trong cơ thể.
Phế triều bách mạch, tham gia tuần hoàn huyết dịch, đem thủy cốc tinh vi chuyển tới
các tổ chức toàn thân (phế chủ nhất thân chi khí).
Khí của tạng phủ, kinh lạc thịnh, suy đều có liên quan chặt chẽ với phế. Chức năng
phế chủ khí trở ngại chủ yếu là biểu hiện bệnh lý của hệ thống hô hấp, khái thấu, khí

suyễn, nói nhỏ, đoản khí, loạn ngôn.
* Phế chủ túc giáng thông điều thủy đạo.
Phế khí là để thanh túc hạ giáng, nếu phế khí nghịch lên sẽ phát sinh khí suyễn,
khái thấu.
Việc vận hóa bài tiết thủy dịch của cơ thể không những chỉ dựa vào sự vận hóa và
chuyển hóa của tỳ mà còn phải dựa vào sự túc giáng của phế khí mới có thể thông
điều thủy đạo xuống bàng quang.
Nếu như phế mất khả năng túc giáng sẽ ảnh hưởng đến chuyển hóa thủy dịch dẫn
đến thủy thấp đình trệ, xuất hiện tiểu tiện không thông, thủy thũng hoặc tiện huyết.
Người xưa cho rằng: “ phế vị thủy chi thượng nguyên”, phế khí bất năng túc giáng,
có khi liên quan đến “phế khí bế trở”. Vì vậy một số chứng ho hen và thủy thũng
thường phối hợp với thuốc “khai phế khí”. Ví dụ: ma hoàng, tế tân, hạnh nhân…
* Phế chủ bì mao.
Phế có quan hệ mật thiết với bì phu cơ biểu, phế vệ mà vững chắc thì cơ biểu kín
đáo kiên cố, da lông nhuận trạch (tươi sáng, óng mượt), sức đề kháng của cơ thể
mạnh, ngăn ngừa được ngoại tà xâm phạm.
Khí của phế vệ không kiên cố, lỗ chân lông sơ hở khi bị ngoại tà xâm phạm,bệnh
còn nặng hơn là tà phạm phế. Ngoài ra nếu cơ biểu không kiên cố, tân dịch tiết ra
ngoài nhiều sinh tự hãn, đạo hãn.
* Phế khai khiếu ở mũi.
Mũi là cửa của hô hấp tương thông với phế, khí phế có bệnh thường biểu hiện
mũi tắc, mũi chảy, hô hấp khó khăn, cánh mũi phập phồng.
* Phế có liên quan đến tiếng nói.
Thanh âm có liên quan với tác dụng của phế khí, phế khí đầy đủ thì thanh âm to
rõ, phế khí hư thanh âm nhỏ yếu.
Phong hàn phạm phế, phế khí tụ tắc, nói không rõ (do bệnh tà gây hại) hoặc do phế
khí hao tổn quá mức dẫn đến mất tiếng nói (thất âm)
* Sinh lý, bệnh lý của đại trường.



Chức năng chủ yếu của đại trường là chuyển đạt tinh thô, bài tiết đại tiện (nếu
đại tiện táo kết, tiểu tiện bế hoặc đau bụng ỉa lỏng hoặc ỉa máu đều thuộc đại
trường).
Phế quan hệ biểu lý với đại trường thông qua kinh lạc. Phế khí túc giáng tốt thì chức
năng đại trường bình thường, đại tiện thông suốt.
Nếu đại trường tích trệ, không thông có thể gây tác dụng trái ngược làm cho sự túc
giáng của phế khí ảnh hưởng.
Trên lâm sàng thường phế, đại trường đồng trị. Bệnh phế thường chữa phế kèm theo
có chữa đại trường và ngược lại, bệnh đại trường chữa đại trường kèm theo chữa
phế.
Ví dụ: đại tiện bế, ngoài việc dùng thuốc thông điều còn dùng thêm thuốc nhuận phế
hoặc giáng phế khí thường có kết quả tốt hơn. Trái lại, một số chứng phế thực nhiệt,
ngoài việc dùng thuốc thanh phế nhiệt còn dùng các thuốc thông đại tiện thường đạt
hiệu quả tốt hơn nhiều.
Dựa vào chức năng sinh lý, bệnh lý trên, về căn bản phế và đại trường của y học cổ
truyền và y học hiện đại là gần tương ứng. Nhưng chức năng phế theo y học cổ
truyền ngoài chức năng hô hấp còn một phần tuần hoàn máu, chuyển hóa nước và
chức năng điều tiết độ ẩm của cơ thể (điều hòa thân nhiệt).
5. Thận và bàng quang (sinh lý, bệnh lý của thận và bàng quang).
* Thận chủ tàng tinh.
Chức năng thận tàng tinh phân ra 2 loại.
+ Một là: tính sinh dục, chủ về sinh dục phát triển nòi giống.
+ Hai là: tinh hoa của ngũ tạng lục phủ, tức là chủ quản về sinh trưởng, phát dục
và các hoạt động sinh mệnh khác của cơ thể. Lâm sàng phần nhiều là hư chứng,
thường gặp trong các bệnh thuộc hệ thống sinh dục và một số bệnh trong hệ nội tiết.
Điều trị chủ yếu là bổ thận.
* Thận chủ thủy.
Thận là cơ quan chủ yếu điều tiết chuyển hóa nước ở bên trong cơ thể (người
xưa cho rằng thận là tạng có nước).
Khi thận bị bệnh dẫn đến chuyển hoá nước thất thường, tiểu tiện bất lợi, thủy dịch

lưu trệ, toàn thân phù thũng hoặc tiểu tiện són, ăn nhiều, đái nhiều (di niệu), đái
đêm.
* Thận chủ cốt.


Cốt sinh tủy,, tủy thông với não ,não là phủ nguyên thần, thận tàng tinh, tinh
sinh tủy, như vậy thận có quan hệ chặt chẽ với não. Thận tàng tinh sung túc đầy đủ
thì xương, tủy não khoẻ mạnh,cơ thể tứ chi cường tráng, hoạt động linh hoạt, tinh
lực dồi dào, tai tinh, mắt sáng.
Khi thận tinh bất túc thường xuất hiện các triệu chứng: động tác chậm chạp,
xương cốt vô lực, thiếu máu hoặc chóng mặt hay quên, trẻ con chậm phát dục trí lực
và tài lực kém phát triển.
Ngoài ra răng là phần dư của cốt: “xỉ vỉ cốt chi dư”, răng có liên quan với cốt. Khi
thận khí hư suy, răng lung lay và rụng.
* Thận chủ mệnh môn hỏa.
Thận là tạng thuộc thủy nhưng lại tàng hỏa của mệnh môn. Thận dương là duy
trì năng lượng chủ yếu của sinh mệnh, gọi là hỏa mệnh của mệnh môn.
Hoả của mệnh môn cùng với thận thủy ,thận tinh, một âm, một dương hợp đồng
tương hỗ duy trì mọi chức năng sinh thực ,sinh trưởng và phát dục và duy trì chức
năng tạng phủ trong cơ thể được bình thường.
Khi mệnh môn hỏa suy có thể dẫn đến liệt dương, xuất tinh sớm, mất khả năng hoàn
tỳ nên hay ỉa lỏng vào sáng sớm (ngũ canh tả) ỉa chảy mãn tính. Mệnh môn hỏa
vượng hay gặp: thất tiết, di tinh...
* Thận chủ nạp khí.
Việc hô hấp do phế là chủ nhưng điều hành, điều độ lại là chức năng quan trọng
của thận. Thận có tác dụng giúp đỡ phế về hô hấp và giáng khí, gọi là nạp khí.
Nếu như thận không nạp khí sẽ phát sinh háo suyễn đoản khí, đặc điểm là thở ra
nhiều, thở vào ngắn. Trên lâm sàng điều trị phải bổ thận,bổ thận nhập tức, bổ thận
nạp khí.
Liên hệ với y học hiện đại: thận có vai trò điều hòa kiềm toan, sự tăng giảm độ

kiềm toan có liên quan đến thông khí ở phổi )
* Thận bên trên khai khiếu ở tai, bên dưới khai khiếu ở nhị âm.
-

Tai có liên quan với thận “nhĩ vi thận chi thượng khai khiếu” thận khí đầy đủ thì

thính giác bình thường, thận khí hư thì ù tai, tai điếc. Nhị âm là chỉ niệu đạo và hậu
môn là hạ khiếu của thận
- “nhị tiện vi thận chi hạ khiếu”. Bài tiết đại tiểu tiện có liên quan với thận.
- Thận khí hư dẫn đến bí đái hoặc đái dầm dề, thận âm bất túc, đại tiện bế tắc,
mệnh môn hỏa suy có thể dẫn đến ỉa lỏng sáng sớm (ngũ canh tả).
* Thận chủ lông tóc.


“Kỳ hoa tại phát” lông tóc, dài, tốt xanh hay dễ rụng, dễ bạc đều có liên quan
đến thận khí thịnh hay suy.
- Thận khí vượng thì lông tóc đen óng mượt. Thận khí hư suy thì lông tóc dễ
rụng, bạc nhanh.
* Sinh lý, bệnh lý của bàng quang.
Chức năng của bàng quang chủ yếu là chứa đựng và bài tiết nướctiểu.
Khi bàng quang có bệnh xuất hiện đái dắt, đái bí hoặc đái đau. Thận liên hệ với
bàng quang thông qua kinh lạc, tạo thành mối quan hệ biểu lý, chức năng bài tiết của
bàng quang thất thường có khi liên quan với bệnh tật của thận.
Khi thận hư bất năng cố nhiếp sẽ xuất hiện tiện bế hoặc di niệu.
Từ sinh lý và bệnh lý trên, đông y coi thận về cơ bản bao gồm những chức năng và
bệnh tật của hệ thống sinh dục, tiết niệu của tây y và một bộ phận tạo máu, hệ thống
nội phân tiết và hệ thống thần kinh của tây y. Bàng quang của đông y gần như bàng
quang của tây y.
.6. Tam tiêu.
“Tam tiêu thuộc lục phủ chi nhất”. Bao gồm thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu.

Về chức năng và hình thái của tam tiêu, đại đa số các tác giả cho rằng:
Thượng tiêu chỉ tâm phế, tương đương các chức năng của vùng ngực.
Trung tiêu chỉ tỳ vị, tương đương các chức năng của cơ quan vùng bụng trên.
Hạ tiêu chỉ can, thận, bàng quang, đại tiểu trường tương đương các chức năng của cơ
quan vùng bụng dưới. Chức năng của tam tiêu:
- Thượng tiêu như “vụ” chỉ tác dụng quản lý xuất nhập, phân bố chuyên chở các
vật chất dinh dưỡng của tâm và phế ,vụ còn có ý nghĩa như xương mù.
- Trung tiêu như âu ,bọt nước trắng như sữa, chỉ tác dụng vận hóa của tỳ vị.
- Hạ tiêu như độc ,rãnh nước chỉ tác dụng bài tiết của bàng quang và thận.
Trong học thuyết “ôn bệnh” phần biện chứng tam tiêu là lấy tam tiêu làm cương lĩnh
cho biện chứng luận trị và phân loại chứng hậu.
- Thượng tiêu bệnh-thời kỳ đầu của bệnh truyền nhiễm
- Trung tiêu bệnh-thời kỳ toàn phát, khí phận chứng hậu, triệu chứng của khí
phận
- Hạ tiêu bệnh-xuất hiện triệu chứng, huyết phận chứng hậu, tác nhân gây bệnh
là tà khí vào huyết phận.
Tóm lại: chức năng của tam tiêu là chỉ tổng hợp các chức năng sinh lý của nhóm
tạng phủ nào đó trong khoang ngực, bụng. Bệnh tật của tam tiêu có liên quan đến sự
chuyển vận các chất dinh dưỡng ở tạng phủ.


Chú ý hệ bạch mạch, hệ thống dưỡng chấp chi phối cho các tạng phủ và cơ quan
7. Tử cung .
Gọi là bào cung, bao gồm tử cung và phần phụ , tác dụng chủ về kinh nguyệt và
sinh sản, có liên quan mật thiết với thận và đặc biệt là hai mạch xung, nhâm.
Ba bộ phận bảo đảm cho thai sản, kinh nguyệt và sinh dục được bình thường. Thận
tinh đầy đủ, mạch xung nhâm thịnh, kinh nguyệt, sinh dục bình thường.
Thận tinh hư tổn, mạch xung nhâm hư, kinh nguyệt không điều hòa, thậm chí không
có thai.
.4. Sự liên quan của ngũ tạng với nhau:

Giữa tạng với tạng và giữa phủ với tạng có liên quan chặt chẽ với nhau. Trên lâm
sàng thường biểu hiện chủ yếu là mối quan hệ giữa tạng với tạng.
4.1. Tâm.
Liên quan giữa tâm và phế:
Tâm chủ huyết, phế chủ khí, “tâm phế tương hữu” cả hai đều làm nhiệm vụ tuần
hoàn huyết dịch trong cơ thể “tâm huyết túc, tắc phế khí xung bái”, phế khí thịnh
vượng thì tuần hoàn bình thường, trái lại phế khí bất túc ảnh hưởng đến tuần hoàn
huyết dịch, chức năng của tâm không tốt sẽ ảnh hưởng đến hô hấp.
- Liên quan giữa tâm và thận: “Tâm cư thượng tiêu thuộc hỏa. Thận cự hạ tiêu
thuộc thủy”. Trong điều kiện bình thường hai tạng liên hệ hỗ căn, duy trì mối quan
hệ hiệp đồng. “Tâm thận tương giao, thủy hỏa tương tế”. Nếu như quan hệ đó bị phá
vỡ sẽ phát bệnh lý, tâm phiền thất miên, đầu choáng tai ù, tai điếc, lưng gối đau mỏi,
đó là hội chứng tâm thận bất giao”.
- Liên quan giữa tâm và can: tâm chủ huyết mạch toàn thân, can có chức năng
trữ tàng điều tiết huyết dịch, hai tạng liên quan mật thiết, nếu như tâm huyết bất túc
thì huyết hao can hư, huyết bất dưỡng, cân, đau cân cốt, co quắp, co giật…
- Liên quan giữa tâm và tỳ: sự vận hoá của tỳ nhờ vào sức huy động của tâm
dương và tư dưỡng của tâm huyết, còn chức năng của tâm cũng nhờ vào sự chuyển
vận, vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tư dưỡng.
+ Tâm chủ tuần hoàn (vận hành) huyết dị. Tỳ có chức năng thống nhiếp huyết
dịch.


Vậy nên tâm tỳ có quan hệ mật thiết, trên lâm sàng thường thấy:” hội chứng
tâmtỳ lưỡng hư, hoặc tâm tỳ suy tổn”.
Các triệu chứng: mất ngủ, hay quên, hồi hộp, sắc mặt vàng tối, ăn kém, đại tiện
nát.
.4.2. Can.
- Can và tỳ: can khí thái vượng hoặc tỳ khí hư đều dễ xuất hiện “can mộc thừa
tỳ, can vị bất hoà”; đau sườn, đau bụng, bụng chướng…

- Can và phế: bình thường phế là tạng khắc can: khi bệnh lý thông thường can
phản khắc phế.
Ví dụ: Phế khí hư không thể chế can để can khí thượng nghịch (nghịch lên) làm
cho phế khí túc giáng khó khăn, ngực đầy chướng khó chịu; mặt khác can hỏa quá
thịnh tắc chế ước phế, xuất hiện triệu chứng: dễ giận dữ, đau ngực sườn, ho khan
hoặc ho có đờm, có máu (mộc hỏa hình kim).
- Can và thận: can thận có liên quan mật thiết “can thận đồng nguyên”, can dựa
vào thận thủy (thận âm) để tư dưỡng, thận thủy bất túc, can âm bất túc, âm hư bất
năng liễm dương – can dương thượng nghịch, đau đầu chóng váng, huyết áp cao…
4.3 Tỳ
- Tỳ và phế: phế khí dựa vào sự vận hóa thủy cốc tinh vi của tỳ để tu dưỡng.
Lâm sàng đối với bệnh phế khí hư có lúc dùng pháp điều trị: “bổ tỳ ích phế”
hay “bồi thổ sinh kim”.
- Tỳ và thận: sự vận hóa của tỳ phải nhờ vào sự giúp đỡ mệnh môn hỏa của thận
thủy (thổ khắc thủy), nếu tỳ hư chức năng vận hóa kém không thể chế được thủy
phát bệnh, thủy phiếm loạn sinh chứng thủy thũng.
- Phế và thận: phế chủ khí, thận chủ nạp khí. Thận có thể giúp cho sự túc giáng của
phế khí tốt nếu thận dương hư bất năng nạp khí tất sinh khó thở. Lâm sàng có thể
thấy hen suyễn do thận hư nên phải dùng pháp bổ thận để nạp khí.
5 .Kết luận.
Về mặt tiêu hóa và hấp thụ: vi chủ thu nạp, tỳ chủ vận hóa, tiểu trường phân biệt
thanh trọc, đại trường truyền đạt tinh thô, ngoài ra còn có sự tham gia sơ tiết của can
và mệnh môn hỏa của thận.


- Về mặt hoạt động hô hấp: phế chủ về trao đổi khí của cơ thể, thận chủ nạp khí giúp
đỡ cho sự thăng giáng của phế.
- Về tuần hoàn huyết dịch: tâm chủ huyết (chức năng tuần hoàn), phế triều đi bách
mạch tham gia tuần hoàn, can tàng huyết có thể điều tiết lượng huyết. Tỳ thống
huyết làm cho huyết vận hành trong mạch không cho lạc đường.

- Về mặt tạo huyết: hậu thiên cơ bản là tỳ vị, tỳ vị là nguồn gốc hóa sinh huyết dịch.
Thận là tiên thiên, việc tạo huyết còn phải ôn dưỡng thận.
- Về mặt chuyển hóa nước: tỳ chủ vận hóa thủy thấp, phế chủ thông điều thủy đạo,
thận chủ bài tiết nước, tam tiêu chủ khí hóa, bàng quang chủ về trữ niệu và bài niệu.
- Về hoạt động thần kinh: một phần chức năng của tâm, chức năng hoạt động tình
chí, tư duy; bao gồm hoạt động thần kinh và tinh thần.
- Chức năng vận động: thận chủ cốt vận động hợp đồng các động tác tinh vi, can chủ
cân co duỗi khớp, tỳ chủ cơ nhục toàn thân và tứ chi.
- Sinh dục nội tiết: quan hệ giữa các tạng can, thận và xung nhâm.



×