Tải bản đầy đủ (.docx) (345 trang)

GIÁO TRÌNH THUỐC NAM TỔNG QUAN về NGUỒN gốc ĐỘNG vật, THỰC vật, TÍNH NĂNG tác DỤNG của THUỐC y học cổ TRUYỀN dược vật PHƯƠNG tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 345 trang )

nguồn gốc thực vật động vật khoáng chất, tính năng
tác dụng của thuốc y học cổ truyền gọi tắt là dược vật
Chương I
Đại cương thuốc Y học cổ truyền, tác dụng của thuốc trên tạng phủ, xử
dụng thuốc theo bát pháp, sự ưu tiên của thuốc khái quát khả năng kháng
khuẩn, khả năng điều tiết miễn dịch, khả năng ức chế HBV, HIV và AIDS
1.1. đại cương thuốc yhct
Mục tiêu.

Hiểu và giải thích được một số điểm cơ bản về thuốc như tính năng, quy
kinh, phối hợp, cấm kỵ. Nắm chắc được phương pháp bào chế đơn giản, phương
pháp dùng, liều lượng dùng của dược vật. Vận dụng được sự quy kinh, tác dụng
ưu tiên của thuốc với tạng phủ trên thực tế lâm sàng.
1.1.1. Đại cương.
1.1.1.1. Định nghĩa.

Thuốc y học cổ truyền (gọi là dược vật) là những vật liệu có nguồn gốc
thực vật, khoáng vật và động vật đã được văn bản hoá hoặc truyền đạt theo gia
truyền và dân gian.
- Thực vật (thảo mộc):
+ Thân gỗ: tô mộc, đỗ trọng, hoàng bá.
+ Thân thảo: mã tiên thảo (cỏ roi ngựa), mần trầu, lưỡi rắn, hàm ếch.
+ Dây leo: hà thủ ô, dây đau xương.
- Khoáng vật.
+ Quặng: mật đà tăng, khô phàn, duyên đơn, hàn the, chu sa, thần sa.
+ Kim loại.
- Động vật (con thuốc) : thuỷ điệt, ngô công, toàn yết, thuyền thoái…được văn
bản hoá (ở Việt nam chính thức có 1960) sau được thể chế hoá bằng pháp luật.
1.1.1.2. Dựa trên thực tế lâm sàng và nguồn gốc:

1




Thuốc thảo mộc, thuốc động vật, thuốc khoáng chất, xác định tính chất
nóng, lạnh, tỷ trọng nặng, nhẹ, phân ra nhiều loại khác sẽ học lần lượt.
1.1.1.3.Việt nam có địa sinh học riêng.
Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: mặt trời có khoảng 5 tỷ năm.
Thời nguyên đại cổ sinh cách đây 600 triệu năm.
Thời nguyên đại trung sinh cách đây 200 triệu năm, giải đất nước ta lúc
đầu như mầm xương sống hình chữ S đó là dãy núi Trường sơn.
Thời đại tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp hợp
thành lục địa á châu có kết cấu địa chất địa tầng có sông, núi…
Cuối thời kỳ Đệ Tam đã có vượn cao cấp cách đây 10 – 20 triệu năm. Nhiều
nhà khảo cổ học Việt nam đã chứng minh con người Việt nam xuất hiện từ thời kỳ
Canh Tân; cái nôi của loài người và cũng là cái nôi của các thuốc thảo mộc.
Do thời kỳ băng hà kéo dài Thủy Canh Tân đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói
riêng và ở đông nam châu á nói chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển tràn lên
kết hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển
nguồn thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây động vật
để sống đồng thời cũng chọn lọc tự nhiên những động vật và cây cỏ để ăn để chữa
bệnh. Vì vậy thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác, đời này sang
đời khác và tồn tại đến nay. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, y học cổ truyền Việt nam
đã đúc kết được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và không
dùng thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc
quý: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu, hương phụ…
được lưu truyền đến ngày nay.
1.1.1.4. Về xã hội có lịch sử lâu đời.
Nền văn minh Ai cập cách đây 6000 năm, Trung quốc có từ 4000 – 5000
năm trước công nguyên, Tây Tạng. ấn Độ có từ 3000 – 4000 năm (theo
Hypocrat).
Việt nam có nhà nước Văn Lang ta đời Hồng Bàng năm 2879 năm trước

công nguyên; thời đại các Vua Hùng, tổ tiên ta sớm sử dụng thuốc có nguồn gốc
thực vật, động vật và khoáng vật để làm thuốc. Ngoài ra còn biết sử dụng cả
thuốc độc tẩm vào tên, giáo, mác để chống giặc ngoại xâm…
Hơn một thiên niên kỷ dân tộc Việt nam dưới ách xâm lược nô dịch và
đồng hoá của phong kiến Trung Quốc. Các dược liệu quý hiếm đều bị cướp bóc
mang về chính quốc. Thời kỳ độc lập dưới các triều đại phong kiến (938 – 1884)
sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền từ 938 nước ta bước vào kỷ nguyên
độc lập.
2


- Đời lý (1010 – 1224) có tổ chức thái y viện ở Kinh đô cũng như ở các
địa phương.
- Đời Trần (1225 – 1399) phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp nơi,
nhiều danh y nổi tiếng trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh hiệu là Tuệ
Tĩnh quê Nghĩa phú Cẩm Vũ, Cẩm giàng Hải Hưng đó là tiến sĩ nhưng đi tu, tác
phẩm y học nổi tiếng của ông là “Nam dược thần hiệu” 11 quyển, chọn lọc 580
vị thuốc phân loại theo nguồn gốc (23 loại): cỏ hoang, dây leo, mọc ở nước, có
cánh chim cầm, thú…chọn lọc dược liệu có trong nước tổ chức thành 3 – 873 bài
thuốc điều trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.
- Tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư y thư” tóm tắt tác dụng 630 vị thuốc theo biện
chứng luận trị ông được tôn là thánh thuốc nam. Năm 1835 Tuệ Tĩnh được mời sang
Trung Quốc chữa bệnh cho Vua nhà minh và bị giữ lại cho đến khi chết.
- Đời Hồ (1400 – 1406) phát triển châm cứu có Nguyễn Đại Năng soạn
cuốn sách “châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…
- Thời kỳ đô hộ của giặc Minh Trung Quốc (1047 – 1427), trong 20 năm
dưới ách đô hộ của Triều Minh y học dân tộc bị tổn thất nghiêm trọng.
- Hậu Lê (1428 – 1788) có bộ luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tông (1460 –
1479) ban hành quy chế làm thuốc, 1665 Lê Huyền Tông 2 lần ra lệnh cấm hút
thuốc lào; ở triều đình có Thái y viện, các tính có tế sinh đường, ở quân đội có sở

lương y. Hoàng Đôn Hoà và Trịnh Đôn Phát là lương phục vụ trong quân đội
nhà Lê tác phẩm nổi tiếng là “Hoạt nhân toát yếu” được sắc phong của Vua Lê
Thánh Tông “Lương y quốc, Thọ tư dân”. Hiện nay nhân dân lập đền thờ Hoàng
Đôn Hoà tại quê ông thôn Đa sĩ Kiến Hưng Hà Đông Hà Tây.
Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông
(1720 – 1791) quê Văn xá Yên Mỹ tỉnh Hải Hưng ông đã tóm lược y lý y học
truyền thông phương Đông, tổng kết những thành tựu y học cổ truyền Việt Nam
từ trước đến thế kỷ XVIII và đã vận dụng sáng tạo những tinh hoa y học cổ
truyền vào điều kiện thời tiết khí hậu liên quan đến đặc điểm phát bệnh ở nước
ta. Tác phẩm “Hải Thượng Lãn Ông y tâm lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập 66
quyển đến nay vẫn được coi là bộ sách bách khoa về y học cổ truyền. Ông đã
tổng kết sáng tác hoàn chỉnh hệ thống hoá nền y học truyền thống Việt nam trên
các lĩnh vực: nội khoa, ngoại khoa, sản phụ và nhi khoa, ngũ quan khoa trên
phương diện chẩn trị dự phòng từ lý pháp đến phương dược từ y đức đến y sử y
thuật đến các lĩnh vực thiên văn y học và thực trị học. Về dược học Lãn Ông đã
sưu tầm thêm 300 vị thuốc tổng hợp thành 2.854 bài thuốc kinh nghiệm. Nét độc
đáo trong biện chứng luận trị y học cổ truyền của Lãn Ông đến nay và mãi mãi là
kim chỉ nam cho mọi hành động chẩn trị theo y lý cổ truyền của các thế hệ thầy
thuốc y học dân tộc Việt Nam.
3


1.1.2. Tính năng dược vật.

Nói tính năng tức là nói đến tính chất công năng tác dụng của dược vật
bao gồm trong tứ khí, ngũ vị, thăng lên, giáng xuống, phù trầm và thuốc có độc
hay không độc, tác dụng ưu tiên của nó.
1.1.2.1. Tứ khí ngũ vị:

Là tính năng cơ bản của dược vật, tính vị của thuốc thường dựa vào vị

giác, khứu giác của người để phân biệt. Nhưng chủ yếu là căn cứ vào tổng kết,
đánh giá hiệu quả lâm sàng của thuốc vì vậy để phản ánh khách quan về sự quy
kinh của tính vị dược vật. Trong đó lương và hàn thuộc hàn, ôn và nhiệt được
quy về nhiệt. Ngoài ra còn một số vị thuốc có tính chất bình hoà được gọi là tính
bình (ví dụ không đơn thuần là một tính chất, vì vậy dược vật chỉ có tứ khí chứ
không có ngũ khí. Các vị thuốc hàn lương thường có tác dụng thanh nhiệt, tả
hoả, giải độc (chống viêm, chống nhiễm khuẩn, hạ sốt) dùng để điều trị các
chứng nhiệt (dương chứng). Các vị thuốc có tính ôn nhiệt đa phần có tác dụng
tán hàn, cứu nghịch ôn dương dùng để điều trị các chứng bệnh thuộc hàn (âm
chứng). Tuy nhiên các vị thuốc ôn nhiệt đều có thể phối hợp với các vị thuốc có
tính bình hoặc tính hàn trong điều trị.
1.1.2.2. Ngũ vị là năm loại vị của thuốc : cay, ngọt, đắng, chua, mặn, đó là năm vị cơ

bản của thuốc được quy loại theo ngũ hành, ngoài ra còn có loại đạm. Vị của
thuốc khác nhau có tác dụng lâm sàng khác nhau.
- Vị cay thường có tác dụng phát tán (phát triển, tản suất, suất ra) như: ma
hoàng, quế chi hoặc có tác dụng chỉ thống hành khí tức là lưu thông chuyển hoá
chất sinh năng lượng sẽ làm giảm được đau như: mộc hương, sa nhân.
- Vị ngọt thường được dùng trong bổ dưỡng, hoà hoãn, giảm đau, chống
mệt mỏi, thuốc thường đi vào kinh tỳ và tạng tỳ, ngoài ra còn có tác dụng điều
hoà các vị thuốc khác như: cam thảo, nhân sâm (đẳng sâm), hoàng kỳ.
- Vị chua thường đi vào kinh can hoặc tạng can, các vị thuốc đều có tác
dụng thu liễm, cố sáp, kha tử cầm ỉa chảy (chỉ tả), ngũ vị tử thu liễm cố sáp, kim
anh tử, cố tinh sáp niệu, sơn thù, sơn tra.
- Vị đắng có tác dụng thanh nhiệt hoặc tả thanh nhiệt, táo thấp như: hoàng
cầm, hoàng bá, hoàng liên, thuốc có vị đắng thường vào tâm kinh.
- Vị mặn thường có tác dụng nhuyễn kiên tán kết và tư nhuận tiềm giáng
như: huyền sâm, mẫu lệ, quy bản, tặc cốt, hải tảo.
- Vị đạm thường có tác dụng thấm thấp, lợi niệu như: thông thảo, ý dĩ
nhân, hoạt thạch, trạch tả, phục linh, sa tiền tử.


4


Ngũ vị của thuốc có liên quan đến ngũ tạng như trên đã nói, các vị thuốc
có vị cay vào phế, ngọt vào tỳ, đắng vào tâm, chua vào can và mặn vào thận.
1.1.2.3. Thăng giáng phù trầm.

- Thăng giáng phù trầm là chỉ tác dụng của dược vật sau khi đã uống vào
cơ thể, mỗi loại thuốc, vị thuốc đều phát huy tác dụng khác nhau. Qua thực tiễn
lâm sàng y học cổ truyền phương đông đã tổng kết tác dụng của dược vật, thuốc
sau khi uống.
- Thăng lên, giáng xuống, phát tán và tiết lợi, dựa vào tính chất này của
thuốc để lựa chọn thuốc, điều trị các chứng bệnh ở trên, ở dưới, ở trong, ở ngoài
ở nửa thân người hoặc các triệu chứng bệnh: nghịch lên trên (trên nghịch, nôn,
nấc, đau đầu, bốc hoả từng cơn, hen suyễn, chóng mặt, ù tai…), các chứng hạ
hãm do khí hư hoặc tỳ hư, hạ hãm là sa các tạng: sa trực tràng (thoát giang), sa
tử cung, âm đạo, sa dạ dày, sa gan, sa lách, thoát vị, trĩ…
- Tính thăng phù của thuốc thường có tác dụng thăng dương phát biểu trừ
phong, tán hàn, ôn lý. Trong lâm sàng thường dùng để điều trị các chứng bệnh ở
dưới, ở lý và nghịch lên trên, các vị thuốc được lựa chọn: thạch quyết minh (ốc
cửu khổng) có tác dụng tiềm dương, điều trị can dương thượng nghịch, tô tử
giáng khí thang điều trị khí nghịch (hen phế quản), tô tử sao, tiền hồ, nhục quế,
chích thảo, đương quy, hậu phác, bán hạ. Thăng giáng phù trầm chủ yếu còn phụ
thuộc vào khí vị, độ dày mỏng, sự nặng nhẹ của các vị thuốc.
Đặc điểm chung thuốc thăng phù thường có vị cay, ngọt và ôn nhiệt, thuốc
trầm giáng đa phần là có vị đắng, chua, mặn, hàn lương, thuốc có tỷ trọng nhẹ
thường thăng lên, thuốc có tỷ trọng nặng thường giáng xuống. Lâm sàng cần
phải chú ý phân biệt khí của khí vị và khí của tứ khí.
- Khí vị mỏng sẽ phát tiết (phát hãn và thăng dương), ví dụ: thăng ma,

kinh giới, ma hoàng, sài hồ, cát căn, khương hoạt…
- Khí vị dày sẽ phát nhiệt (tán hàn, ôn lý), vì dụ: phụ tử chế, nhục quế, can
khương. Vị dày thường có tác dụng tiết hoả, thanh hoả, tả hạ, ví dụ: đại hoàng,
mang tiêu, kinh giới, hoàng liên, long đờm thảo. Vị mỏng thường có tác dụng
thông giáng hạ hành, ví dụ, phục linh, thông thảo, thược dược, mẫu lệ.
- Thăng giáng phù trầm còn liên quan đến tính năng nhẹ của hoa, lá, cành,
rễ của từng loại thuốc. Ví dụ cúc hoa, hà diệp chủ yếu là thăng phù (nếu bệnh
nhân nhức đầu cho cúc hoa đau đầu sẽ nặng lên. Bộ phận hạt, quả, tính chất
nặng: tô tử, chỉ thực, từ thạch phần nhiều là trầm giáng. Ngoài tác dụng chọn lọc,
quy kinh có một số trường hợp ngoại lệ: phức hoa vị thuốc là hoa mà tính giáng
nghịch, chỉ khái (chữa ho), ngưu bàng tử là hạt nhưng lại có tính thăng phù có
thể sơ can tiết nhiệt.
5


- Khi bào chế làm biển đổi tính chất của vị thuốc. Tính thăng giáng phù
trầm của dược vật có thể do phối hợp các vị thuốc với nhau hoặc do bào chế để
làm biến đổi các vị thuốc. Nếu thuốc thăng phù nhưng ở trong tập hợp (nhóm
thuốc) tiềm giáng thì thăng phù phải giáng xuống theo và ngược lại. Thuốc vị
nhẹ sao rượu sẽ thăng lên, sao với nước gừng sẽ phát tán, sao với dấm sẽ thu
liễm và sao với muối sẽ tiềm giáng đi xuống…
1.1.2.4. Quy kinh của thuốc.

Qua kinh nghiệm phong phú trên lâm sàng, y học cổ truyền đã tổng kết và
rút đúc về tác dụng ưu tiên trên tạng phủ gọi là sự quy kinh của dược vật. Một số
vị thuốc tác dụng đặc thù với bệnh ở tạng hoặc đường kinh nhất định. Ví dụ: khi
phế bị bệnh thường ho long đờm phải dùng thuốc hoá đờm chỉ khái phải quy về
phế kinh, khi tỳ có bệnh, bệnh nhân thường đau bụng, ỉa lỏng, khi dùng thuốc
phải chọn thuốc quy về tỳ kinh. Ví dụ: tang bạch bì (vỏ rễ cây dâu) thanh phế
nhiệt quy về phế kinh, hạ khô thảo (cây cải trời) thanh can đởm quy về can đởm,

thạch cao thanh phế nhiệt quy về phế, thục địa bổ thận quy về thận kinh, bạch
truật bổ tả quy về tỳ kinh…
1.1.2.5. Phối ngũ và cấm kỵ phối ngũ (phối hợp và không phối hợp)

- Phối hợp thuốc thường dùng 2 – 3 loại thuốc phối hợp nhau, y học cổ
truyền gọi là phối ngũ. Phối hợp thuốc nhằm tăng cường tác dụng hiệp đồng
trong chứng bệnh phức tạp mà còn hạn chế được tác dụng phụ (phát huy sở
trường, khống chế sở đoản), có mấy cách phối hợp:
* Các thuốc cùng nhóm hoặc khác nhóm khi phối hợp tăng sinh tác dụng
hiệp đồng nâng cao hiệu quả điều trị.
* Tăng cường tác dụng hiệp đồng: huyền sâm + sinh địa tăng tác dụng tư
âm (cùng nhóm), hoàng bá + thương truật tăng tác dụng thanh nhiệt táo thấp
(khác nhóm)
* Dùng tác dụng các loại này khi phối hợp khống chế loại thuốc khác làm
cho thuốc biến lỗi tác dụng. Phát huy hiệu quả điều trị: sinh khương ức chế tác
dụng gây ngứa của bán hạ và tăng tác dụng tác dụng trừ đàm.
* Hoàng liên, nhục quế, một hàn, một nhiệt tạo nên loại thuốc thứ ba đứng
giữa hàn và nhiệt có tác dụng khác hoàn toàn (đó là tác dụng giao thông tâm
thận, tác dụng gây ngủ, an thần tốt)
- Nếu dùng độc vị (một vị) khi tăng liều phát huy tác dụng của thuốc: khi
dùng cam thảo để giải độc, nhân sâm để cứu thoát, bồ công anh để điều trị mụn
nhọt cần phải tăng liều cao hơn bình thường.

6


- ứng dụng phối hợp trong một bài thuốc: bạch truật, cam thảo trong bài
thuốc tứ quân tử thang (sâm, linh, truật thảo, cam thảo bổ khí, điều hoà, sinh tân,
chỉ khát, tái hấp thu, tuy nhiên bạch truật thì ngược lại)
- Cấm kỵ phối hợp (không phối hợp thuốc): y học cổt truyền dụng dược

cấm kỵ phối hợp không quá nghiêm ngặt nhưng phải chú ý một số vị thuốc có
tác dụng đặc thù.
* Tác dụng tương phản sau khi phối hợp phát sinh tác dụng độc.
* Tác dụng tương uý sau khi phối hợp giảm tác dụng.
- Trên lâm sàng cần phải chú ý các vị thuốc sau:
+ Tương phản: cam thảo tương phản với cam toại, đại kích, nguyên hoa,
hải cảo…Ô đầu tương phản với bán hạ, bối mẫu, qua lâu, bạch cập. Lê lô tương
phản với đan sâm, sa sâm, đẳng sâm, khổ sâm.
+ Tương uý: thuỷ ngân tương uý với phác tiến, nhân ngôn. Ba đậu tương
uý với khiêu ngưu tử. Đinh hương tương uý với uất kim, nhân sâm với ngũ linh
chi, thường là cấm kỵ tuyệt đối vì phát sinh tác dụng độc, tuy nhiên cũng có
trường hợp phối hợp lại tăng tác dụng mạnh hơn, cá biệt trong xơ gan cổ
chướng.
Cho uống trong dùng nước cam thảo ngâm cam toại để tháo dịch cổ
chướng là phát huy tác dụng của cam toại. Đẳng sâm + ngô thù du làm tăng tác
dụng khi điều trị huyết áp thấp.
- Thuốc cấm dùng cho người có thai
Các vị thuốc thường gây đẻ non hoặc xẩy thai: ba đậu, đại kích, ban miêu,
thủy điệt, hồng hoa, xạ hương, thiên hoàng.
- Một số thuốc: thông kinh phá ứ, phá khí hành trệ và các thuốc cay, nóng,
hoạt lợi phải thận trọng đối với bệnh nhân có thai. Ví dụ như: đào nhân, đại
hoàng, phụ tử chế, can khương, nhục quế, ngưu tất, mang tiêu, đan bì.
1.1.2.6. Thuốc có độc và không độc.

Các thuốc dùng đều có tính hai mặt, mặt có lợi và có hại. Người xưa chia làm
4 loại: độc nhiều, độc vừa, độc ít và không độc, để đề xuất nguyên tắc điều trị.
- Chỉ dùng sau khi đã bào chế loại bỏ độc tính như: ô đầu, phụ tử, mã tiền,
lê lô, ba đậu, thiềm tô, trúc đào…Khi trúng độc biểu hiện tim đập chậm, thậm
chí ngừng đập. Một số thuốc gây tả hạ như: cam toại, đại kích, nguyên hoa. Một
số thuốc duyên đơn, hàng đơn, đởm phàn, khi dùng nấu thuốc bôi ngoài da phải

chú ý giảm độc và diện tích bôi theo quy định.

7


- Cần phải chế cho giảm độc và phải phối hợp thuốc tăng hiệu quả và giảm
độc tính.
- Chỉ định liều dùng phải chặt chẽ rõ ràng, dùng ngoài hay uống trong với
thuốc độc đều phải chỉ định theo tuổi, các thuốc đều phải sắc lâu, nếu dùng liều
cao sắc thời gian ngắn sẽ bị ngộ độc.
1.1.3. Bào chế phương tễ, lượng dùng và phương pháp uống.
1.1.3.1. Phương pháp bào chế thường dùng.

Mục đích bào chế:
- Giảm bớt, loại bỏ độc tính.
- Làm thay đổi tính năng thuốc.
- Tăng cường hiệu quả thuốc.
- Loại bỏ tạp chất.
+ Bào chế đơn giản: sao, sấy, lùi, ngâm, tẩm (dấm, gừng, rượu, muối),
phơi âm can, sao vàng hạ thổ.
+ Bào chế thành phẩm: muốn bào chế thành phẩm tốt phải có đơn thang cố
định. Nếu làm thành phẩm phải thông qua liều độc LD50. ở Trung Quốc nếu
thành phần kế thừa nguyên vẹn bài thuốc cổ thời Chu Đan Khê (1281 – 1358),
Lý Đông Viễn (1180 – 1251), Lưu Hoàng Tố 1120 – 1200 và Trương Tử Hoà
1156 – 1230) sau công nguyên. Theo quy định của tổ chức y tế thế giới không
phải thử liều độc, ở ta hiện nay đều phải thử liều độc LD50.
Các dạng bào chế thuốc cốm, viên hoàn, viên dẻo (thuốc tễ), thuốc bọc
sáp, viên nén, viên nhộng…
Từ năm 1970 – 1974 y học cổ truyền Trung Quốc đã có những bài thuốc
bổ, những vị thuốc thảo mộc (herbal medicine) chế thành dạng tiêm truyền và

được dùng thủy châm vào huyệt như dung dịch đào nhân, hồng hoa tiêm vào
phong trì, túc tam lý điều trị di chứng viêm não.
1.1.4. Cấu tạo bài thuốc cổ nguyên tắc phổ biến là:

- Quân dược

- Tá dược

- Thần dược

- Sứ dược

(ý nghĩa của từng phần sẽ nói rõ hơn ở phần phương tễ)
- Thuốc nghiệm phương.
- Thuốc chế theo đối pháp lập phương.

8


- Thuốc chế theo kinh nghiệm gia truyền và dân gian sẽ nói rõ hơn ở phần
phương tễ.

1.1.5. cơ sở để xét tác dụng của thuốc theo khoa học hiện đại.

1.1.5. 1. Nhóm những chất vô cơ.
* Các gốc axit:
- Axit sunfuric; mang tiêu, phác tiêu, đảm phàn, minh phàn.
- Axit clohydric: muối ăn, các thuốc chế với muối.
- Axit fotforic: thuốc chế tại xương, nguồn gốc động vật
- Axit silixic: hoạt thạch.

* Kim loại và á kim: Ca trong thạch cao, ô tặc cốt, mẫu lệ. Fe trong hắc
phàn, Cu (đởm phàn). Hg selen: chu sa, thần sa. Mg: hoạt thạch. Kali: râu ngô,
mã đề. I ốt: hải tảo, côn bố, ké đầu ngựa.
+ Tác dụng: xúc tiến chuyển hóa cục bộ.
- Nhân sâm có germani.
* Selen có trong hầu hết các thuốc thảo mộc 1mg selen/1kg khô có selen
cao là loại hoàng kỳ của Mỹ. (Astragalus racemosus).
- Selen một nhóm hoạt động của nhiều men, ngăn chặn sự tạo thành
lipopeoxyt làm chậm quy trình lão hóa (oxy hóa), tham gia chuyển ion qua màng
tế bào, điều khiển tổng hợp collagen, proteine, hồng cầu, gan, AND, ARN và các
globulin miễn dịch và các Ubiquinon có vai trò trong hô hấp tế bào, nếu thiếu
selen là thiếu vitamin C, teo cơ, tim mạch và hệ thống miễn dịch bị tổn hại.
Thiếu selen còn sinh bệnh đục thủy tinh thể, thiếu tế bào gan mất khả năng hô
hấp. Selen được chỉ định rộng rãi trong điều trị; xơ vữa động mạch (chủ yếu là
mạch vành), thấp khớp, chống độc, kích thích miễn dịch, chữa K, nha chu viêm,
sáng mắt do tăng dòng điện từ lên não.
+ Kẽm (Zn) có vai trò trong một số men tham gia tổng hợp chất đạm,
chống rụng tóc, chữa loét lâu liềnvai trò trong phát triển chưa cao.
+ Silicium thành phần quan trọng trong gân, xương, sụn giúp cho sự đàn hồi
của thành mạch máu cải thiện mang chất keo giữ lại chất canxi trong thấp khớp
chống thoái hóa xương khớp, nhanh liền xương có nhiều trong thiên trúc hoàng.
* Nhóm những chất hữu cơ.
9


- Gây táo bón dùng để điều trị ỉa lỏng ngoài ra còn có tác dụng cầm máu
và bổ. Những thuốc có chất tanin khi dùng không được dùng đồ sắt thuốc có
màu đen nên phải sắc bằng nồi đất, nồi nhôm.
+ Flavon (Flavonozit) và antoxyan (antoxyannozit) là những glucozit có
mầu sắc.

+ Flavon: màu vàng, antoxyan: màu tím (trung tính, môi trường axit có
màu đỏ, màu xanh nên ở môi trường kiềm), chất Flavon quí là rutin cầm máu,
tính chất kháng khuẩn rất mạnh; hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, đại hoàng,
hoàng đằng.
+ Ancaloit: vai trò rất quan trọng trong điều trị; là những chất hữu cơ có tính
chất kiềm tìm thấy trong thuốc động vật và thực vật, có vị rất đắng tác dụng rất mạnh
tuy với liều nhỏ. Tỷ lệ ancaloit thay đổi tùy theo thời kỳ thu hái và bào chế.
Những vị thuốc chữa ancaloit rất nhiều; ô đầu, mã tiền, hoàng nàn, đại
hoàng, thuốc phiện, cà độc dược.
+ Vitamin A, B, C, D, E, B1, B2, B6, B12, C1, C2, D1, D2, D3…
+ Các chất nội tiết (hoc môn) thường gặp trong các vị thuốc có nguồn gốc
động vật: kê nội kim, tử hà sa, lộc nhung, hải cẩu.
+ Chất kháng sinh thường là ancaloit, tinh dầu nhưng cũng có thể là nhiều
chất khác.
1.1.5.2. Nhóm những chất hữu cơ.
+ Nhóm những chất độn có ở rất nhiều cây và động vật khác: nước, muối
vô cơ, chất hydrat các bon (đường, tinh, bột) chất béo (dầu mỡ sáp, chất protein
các men, lục diệp tố và các sắc tố.
+ Nhóm những “hoạt chất” không đơn giản về tác dụng.
+ Xơ thực vật do thành tế bào thực vật tạo ra cao phân tử cellulose,
hemicellulose pectin, mucilage (chất nhầy) liguin, gomme (gôm) là những dẫn
chất tủa a. uronic.
- Tác dụng: chống táo bón kích thích sự co bóp ruột tham gia chữa béo phì
không cho đường máu tăng đột ngột gián tiếp, hạ cholesterol máu do xơ thực vật
giữ lại các muối mật không cho vào máu.
+ A xit hữu cơ thường gặp: a. focmic.
A. xitric, a. malic, a. tactric, a. axêtic, a. oxalic phần lớn làm cho vị thuốc
có vị chua, nhưng phần lớn ở các dạng muối:
Can xi oxalat (rất nhiều ở cây)
10



a. xinamic (trong quế)
a. Aconitic (trong phụ tử ô đầu)
Tác dụng những axit thường khác nhau a. benzoich sát trùng chữa ho, a.
xitric, a. tactric: thanh nhiệt nhuận tràng giúp cho sự tiêu hóa.
+ Dầu béo: hạnh nhân, đào nhân, thầu dầu, ba đậu. Khi ép trên giấy có vết
trong mờ không mất đi.
Tác dụng: bổ dưỡng; dầu lạc, vừng nhuận tràng; ba đậu, thầu dầu có khi
điều trị bệnh ngoài da.
+ Tinh dầu.
Làm cho vị thuốc có mùi thơm hay sắc đa số là những thuộc chất của
tecpin, trừ xạ hương, thường có tác dụng sát trùng, trị bệnh hô hấp, kích thích
tiêu hóa, chữa đau bụng nôn mửa hoặc chữa cảm sốt, nhức đầu, hay dùng sắc
sau, không sắc lâu dùng xông giải cảm cúm.
+ Chất nhựa (résine) những chất được tạo thành do oxy hóa các tinh dầu
không tan trong nước; nhũ hương, một dược, an tức hương, có thứ nhựa đặc biệt
gọi là nhựa tẩy; khiên ngưu, khoai lang có loại giống nhựa nhưng thực chất lại là
glucozit.
+ Chất glucozit hay heterorit hay gặp trong cây thuốc nam.
Glucozit không đơn thuần, khi đun với axit loãng và kiềm loãng thường
tách ra làm 2 phần; glucoza và ramnoza, genin tùy theo thành phần không đường
mà glucozit chia ra nhiều loại khác nhau.
+ Glucozit chữa tim rất đắng và rất độc có trong trúc đào, thông thiên, hạt
đay, vạn niên thanh, nhựa cóc…
+ Glucozit đắng, có vị rất đắng nhưng không phải là ancaloit; long đờm
thảo, bồ công anh, thạch xương bồ thường khai vị, kích tiêu hóa chữa dạ dày…
+ Saponin hay saponozit là những glucozit có tinh chất gây bọt, phá huyết;
bồ kết, viễn trí, cát cánh, cam thảo, tri mẫu…
Thuốc có chứa saponin thường là thuốc chữa ho long đờm, thông tiểu.

Nếu tiêm saponin bị phá huyết gây tử vong.
+ Antraglucozit là những glucozit có tính chất kích thích sự co bóp của
ruột, khi dùng liều nhỏ, kích thích tiêu hóa lợi mật gan, khi dùng liều vừa nhuận
tràng, khi dùng liều cao gây tẩy mạnh, dùng ngoài da đều có tác dụng sát trùng
chữa bệnh ngoài da; đại hoàng, chút chít, mòng trâu, vỏ đại phan tả diệp, lô hội,
thảo quyết minh là những chất có nhiều Antraglucozit.
11


+ Chất tanin (chất chát) cũng là một loại glucozit có vị chát và chua tác
dụng ngược với glucozit.
1.1.6. Quy chế thuốc độc y học cổ truyền.

1.1.6.1. Bảng xếp loại thuốc độc và liều lượng tối đa.
* Ba đậu (hạt sống) là hạt của quả cây Croton tiglium, họ Euphorbiaceae.
Liều tối đa uống 0,05g/1lần, 0,10g/24giờ.
* Ban miêu (cả con) là con sâu Lytta vesicatoria. Liều tối đa uống 0,03g/1
lần - 0,06g/24giờ.
* Hoàng nàn (sống) là vỏ thân, vỏ cành của cây Strychnos gantheriana, họ
Loganiaceae. Liều tối đa uống 0,02g/1 lần, 0,04g/24 giờ.
* Mã tiền (sống) là hạt cây Strychnos nux vomica, họ Loganiaceae liều tối
đa uống 0,10g/1 lần 0,30g/24 giờ.
* Ô đầu (sống) là củ mẹ (củ to) của cây Aconitum fortunei họ
Ranunculaceae. Liều tối đa uống 0,05g/1 lần, 0,15g/24 giờ.
* Phụ tử (sống) là củ non chưa muối của cây Aconitum fortunei, họ Ranun
– culaceae. Liều tối đa 0,05g/1 lần, 0,15g/24 giờ.
* Thạch tín (Arsenicum crudum 98% As) liều tối đa (loại thăng hoa)
0,002g /1 lần – 0,004g/24 giờ. Chỉ được bán loại thạch tín thăng hoa gọi là thạch
tín chế.
* Ba đậu chế: uống liều tối đa 0,05g/1 lần – 0,10g/24giờ.

* Hoàng nàn chế liều tối đa uống 0,10g/1 lần – 0,40g/24 giờ.
* Hùng hoàng: (Sulfua As) thường dùng ngoài.
* Khinh phấn (calomel) liều tối đa uống 0,25g/1 lần 0,40g/24 giờ.
* Mã tiền chế liều tối đa uống 0,40g/1 lần – 1g/24 giờ.
Loại giảm độc B.
* Phụ tử chế: liều tối đa uống 2,5g/1 lần – 5,0g/24 giờ (áp dụng khi đơn
thuốc kèm theo cam thảo, gừng)
1.1.6.2. Quy định tạm thời về quản lý và bào chế thuốc đông y.
* Quản lý thuốc độc.
Loại A: ba đậu, hoàng nàn, mã tiền, ô đầu, phụ tử.
Lương y hoặc người có bài thuốc gia truyền muốn mua thuốc sống (chưa
bào chế giảm độc) phải đem đăng ký đến cửa hàng dược làm giấy biện nhận về
việc bào chế, chế biến.
12


Loại B: phụ tử muối; không bán thẳng cho bệnh nhân mà chỉ bán cho
lương y, người có bài thuốc gia truyền để chế thành phụ tử chế; thủ tục như với
thuốc loại A.
* Bào chế, chế biến thuốc đông y.
- Ba đậu chế (bảng B): lấy hạt ba đậu còn chắc, đập dập, bỏ vỏ cứng lấy
nhân sao vàng, ép, dùng giấy thấm hoặc vải hút bỏ hết dầu cho đến còn bã thôi
(ba đậu xương) đem sấy khô, tán bột.
- Hoàng nàn chế (bảng B): lấy vỏ cây, cành cây hoàng nàn ngâm nước
trong 12 – 24 giờ, cạo hết vỏ vàng bên ngoài, ngâm nước vo gạo 3 ngày (1 ngày
thay nước vo gạo 1 lần) thái mỏng, phơi khô.
- Mã tiền chế (bảng B): lấy hạt của quả mã tiền ngâm vào nước vo gạo
đến mềm, cạo bỏ vỏ ngoài và mầm, rồi thái mỏng, sấy khô, tẩm dầu vừng một
đêm, sao cho vàng đậm (khô hết dầu) cho vào lọ nút kín.
- Ô đầu (bảng A): lấy củ mẹ khi chưa ra hoa hoặc củ con còn nhỏ của cây

ô đầu, rửa sạch, thái mỏng, ngâm rượu (dùng ngoài xoa bóp, không được uống).
- Phụ tử muối (bảng B) còn gọi là diêm phụ tử.
Lấy củ con của cây ô đầu rửa sạch cho vào muối như muối cà (1 lớp củ lại
rắc 1 lớp muối).
Nén nặng, đậy kín, 6 tháng trở lên mới lấy ra dùng.
Phụ tử muối, không bán thẳng cho bệnh nhân.
- Phụ tử chế: còn gọi là phụ tử giảm độc loại B.
Lấy phụ tử muối cắt bỏ đầu, đuôi và rốn (chỗ nối giữa các củ), cạo vỏ thái
mỏng, dùng nước đậu đen đặc tẩm vào phơi khô rồi lại tẩm (3 lần), đem đổ như
đồ sôi 1 giờ (kể từ khi sôi nước), sau đó đem phơi khô thành hắc phụ tử hay phụ
tử chế.

13


1.2. bát pháp Tác dụng ưu tiên của thuốc.
Mục đích:

Góp phần hoàn chỉnh về biện chứng luận trị, dựa trên cơ sở chẩn đoán bát
cương người xưa đề ra bát pháp, nội dung bát pháp bao gồm: hãn pháp, thổ pháp,
hạ pháp, hoà giải pháp, ôn pháp, thanh pháp, tiêu pháp và bổ pháp, gọi tắt là hãn,
thổ, hạ, hoà, ôn, thanh, tiêu, bổ.
1.2.1. Pháp hãn.

Là dùng thuốc làm cho ra mồ hôi đưa tác nhân gây bệnh ra ngoài, thường
được chỉ định khi tà khí còn ở biểu chứng, chủ yếu điều trị các chứng bệnh do
ngoại cảm (lục dâm) gây nên, thuốc theo pháp này được chọn dùng theo 2 loại:
cay mát (tân lương), cay ấm (tân ôn).
Các vị thuốc cay ấm để điều trị ngoại cảm phong hàn thường trọng dụng
các vị: sài hồ, cát căn, thăng ma, ngưu bàng tử, tang diệp, bạc hà, cúc hoa, phù

bình. Đặc điểm của thuốc là làm cho ra mồ hôi, nếu ra mồ hôi nhiều (đại hãn) sẽ
làm giảm khối lượng máu lưu hành và rối loạn điện giải ảnh hưởng đến nhịp đập
của tim (tâm quý, tâm thống). Thuốc có nhiều tinh dầu thơm, nên không được
sắc lâu và khi đạt hiệu quả thì ngừng thuốc hoặc nếu muốn tiếp tục dùng phải
phối hợp với thuốc bổ âm hoặc dưỡng âm như huyền sâm, sinh địa, mạch môn,
thiên hoa phấn, với người già cần thận trọng phối hợp với bổ âm phải tiếp
dương.
- Không được dùng khi bệnh nhân nôn nhiều, mất máu nhiều, mất nước,
về liều lượng thì mùa hạ thường dùng liều thấp hơn mùa đông, tuỳ theo phản ứng
của trạng thái cơ thể với thuốc.
1.2.2. Pháp thổ.

Là dùng thuốc gây nôn, đưa bệnh tà ra ngoài bằng mồm được chỉ định khi
uống, ăn phải chất độc hoặc uống nhầm thuốc độc, thực tích, ăn nhiều thức ăn
sống lạnh, bụng thường đầy, muốn nôn. Thường dùng các thuốc gây nôn hoặc
14


ngoáy họng gây nôn. Không được áp dụng đối với người suy tim, thai sản, thai
phụ quá yếu, khi đạt hiệu quả thì ngừng.
1.2.3. Pháp hạ.

Là làm thông đại tiện, thông tích trệ ở đại trường, chỉ định trong táo bón
kéo dài, nhiệt tích ở đại trường, đờm kết, tích thủy, tích huyết. Ngoài tác dụng
thông đại tiện, các thuốc thông hạ còn có tác dụng lợi mật, tháo phù dịch cổ
chướng, hạ huyết áp tâm trương, chống nhiễm độc thần kinh, đau đầu, mất ngủ.
Chỉ định loại thuốc và liều lượng phải dựa vào trạng thái cơ thể người bệnh.
Trạng thái hàn thường dùng loại thuốc ôn hạ, nhuận hạ như ba đậu xương, lưu
hoàng thủy phi, qua lâu nhân, hắc ma nhân. Trạng thái cơ thể nhiệt thường dùng
thuốc hàn hạ như đại hoàng, phác tiêu, mang tiêu, chút chít (thổ đại hoàng) lô

hội…
Chú ý: người già, dương khí suy yếu thường phải dùng nhuận hạ hoặc
dưỡng phế âm, bổ tôn khí để hoạt trường vị, muốn tăng hiệu quả phải phối hợp
với thuốc bổ dương khí. Thuốc tả hạ để hoạt trường vị, muốn tăng hiệu quả phải
phối hợp với thuốc bổ dương khí. Thuốc tả hạ thường gây mất nước và điện giải
không nên dùng cho người có thai, rong kinh, khi đạt hiệu quả phải ngừng thuốc.
Trường hợp bệnh nhân xơ gan cổ chướng mà chức năng thận bị ảnh hưởng,
người xưa thường mượn đường đại tiện để đưa nước cổ chướng ra ngoài, vì phần
lớn thuốc hạ đều có phân tử lượng, kéo nước từ lòng đại tràng vào và tống ra
ngoài, cần thận trọng khi sử dụng, không có kinh nghiệm thì không nên dùng kéo
dài.
1.2.4. Pháp hoà.

Thực chất là hoà giải biểu lý, kết hợp giữa nâng cao chính khí với đuổi tà
khí, các thuốc được chọn dùng đều có tác dụng điều trị chứng bán biểu bán lý
khi tà xâm phạm kinh thiếu dương, thái dương và dương minh hoặc các chứng
can vị bất hoà, can khí uất kết, rối loạn kinh nguyệt. Các thuốc thường dùng: sài
hồ, hoàng cầm, đẳng sâm, bán hạ, cam thảo, đại táo, sinh khương (biểu lý đồng
trị). Nếu can huyết hư dùng thêm đương quy, bạch thược, nếu tỳ hư dùng thêm
bạch truật, bạch linh, bạc hà, sinh khương, bệnh tà ở biểu hoặc ở lý không nên
dùng.
1.2.5. Pháp ôn.

Là dùng thuốc ôn dương tán hàn hoặc khu hàn thường được chỉ định khi
tác nhân gây bệnh là hàn tà nhập vào lý hoặc xâm phạm các kinh âm. Thuốc ôn
ấm được chỉ định rộng rãi trong các chứng huyết áp thấp, các chứng đau mỏi
khớp, thần kinh do lạnh, thường chọn các vị: can khương, bạch truật, cam thảo
chích, hắc phụ tử, sa nhân, xuyên tiêu, nhục quế, ngô thù du…Trong trường hợp
lý nhiệt không được dùng, nếu hư hiệt cần phải dùng theo pháp tòng trị.
15



1.2.6. Pháp thanh.

Là dùng các vị thuốc đắng mát có tác dụng thanh nhiệt, thoái nhiệt, giáng
hoả, một số vị thuốc sinh tân, chỉ khát trừ phiền. Thuốc được chỉ định rộng rãi
trong các chứng sốt trong bệnh “ôn nhiệt”, bệnh tà xâm phạm phần khí, dinh,
huyết thuộc lý chứng. Các thuốc dùng theo pháp thanh gồm nhiều loại: thanh
nhiệt tả hoả (hạ sốt đơn thuần) trọng dụng thạch cao, tri mẫu, trúc diệp, lô căn,
chi tử. Thuốc thanh nhiệt giải độc: bồ công anh, kim ngân hoa, liên kiều, sài
đất…Thuốc thanh nhiệt táo thấp: hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, nhân trần,
long đởm thảo, khổ sâm. Thuốc thanh nhiệt lương huyết: huyền sâm, sinh địa,
đan bì, tê giác hoặc sừng trâu và thuốc thanh nhiệt giải thử như tây qua, hà diệp.
Ngoài ra còn trọng dụng các thuốc dưỡng âm để thanh hư nhiệt. Các thuốc thanh
nhiệt đều có tác dụng kháng khuẩn mạnh và rộng rãi: liên cầu khuẩn tan huyết,
phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, các khuẩn đường ruột, thương hàn phó thương hàn,
trực khuẩn lỵ đều có tác dụng ức chế.
Chú ý: đa số thuốc đều có tính mát và lạnh nên tránh dùng kéo dài, khi đạt
hiệu quả phải ngừng thuốc. Mùa hè thường dùng liều lượng cao hơn mùa đông,
khi sắc phải sắc lâu. Muốn tăng hiệu quả cần phải phối hợp thuốc, không những
phối hợp trong cùng một nhóm mà phải phối hợp các vị thuốc khác nhóm với
nhau. Thuốc có tác dụng chống viêm do nhiễm khuẩn và đặc biệt trong nhiễm
siêu vi trùng nhưng phải dùng đủ liều, liều ở mức cao ngay từ đầu, đủ ngày, liên
tục, mỗi ngày uống nhiều lần, uống liền từ 7-10 ngày. Nếu do bệnh lý cần dùng
kéo dài phải phối hợp thêm thuốc ôn bổ…hoặc nghỉ từ hai đến ba ngày rồi lại
dùng tiếp đợt hai.
1.2.7.Pháp tiêu.

Là pháp điều trị các chứng tích thực đạo trệ làm tiêu ngưng đọng ứ trệ do
các bệnh về khí tụ, huyết tích, đờm tích và thực tích gây nên. Nếu do khí tụ trọng

dụng các vị thuốc: sài hồ, chỉ thực, bạch thược, bạch truật, cam thảo. Nếu huyết
tích thì dùng các vị thuốc: đương quy, xích thược, đào nhân, hồng hoa, đan sâm,
xuyên khung, ngưu tất. Nếu thực tích trọng dụng các vị thuốc: thương truật, hậu
phác, sơn tra, mạch nha, thần khúc, trần bì, bán hạ.
Các vị thuốc sử dụng trong pháp tiêu là những thuốc có tác dụng sâu sắc
đến chuyển hoá, hấp thu và hoá giáng các chất tinh vi của thủy cốc, thường dùng
phối hợp với các thuốc: bổ khí, bổ huyết, kiện tỳ để tăng cường. Trong các
trường hợp âm hư hoặc chướng phù do khí hư dùng thuốc tiêu phải hiệu quả
phối hợp với các thuốc khác.
1.2.8. Pháp bổ.

Là phương thuốc bồi bổ lại âm, dương, khí, huyết tạo nên trạng thái cân
bằng duy trì hoạt động bình thường của cơ thể. Thuốc được chỉ định rộng rãi
16


trong các chứng âm hư, khí hư, huyết hư, dương hư. Theo y học cổ truyền thuốc
bổ cũng chính là thuốc tấn công bệnh và ngược lại. Trên lâm sàng nếu huyết hư
thường trọng dụng các vị thuốc: thục địa, bạch thược, đương quy, xuyên khung,
tang thầm, hà thủ ô đỏ. Nếu khí hư thường dùng các vị thuốc: sâm, hoàng kỳ,
bạch truật, hoài sơn, bạch linh, cam thảo. Nếu âm hư thường dùng: thục địa, sa
sâm, mạch môn, thiên môn, quy bản, miết giáp, kỷ tử… Nếu tổn hao tân dịch
phải dùng: mạch môn, sâm, ngũ vị, nhân sâm. Nếu dương hư phải dùng: phụ tử
chế, nhục quế, phá cố chỉ, cốt toái bổ, ngô thù du, ích trí nhân, can khương…
Thận trọng khi dùng thuốc bổ trong các chứng thực, muốn tăng hiệu quả và giảm
tác dụng phụ của các thuốc bổ phải chú ý phối hợp thuốc, người xưa thường phối
hợp thuốc bổ âm với thu liễm, bổ khí với kiện tỳ bổ khí huyết, bổ khí với hành
khí, bổ huyết với hoạt huyết và phối hợp với bổ âm và tiếp dương hoặc bổ dương
và tiếp âm. Trên thực tế lâm sàng thường phải phối hợp giữa các pháp với nhau,
hiếm có những bệnh chỉ dùng đơn thuần một pháp, nhất là đối với bệnh mãn tính

kéo dài, ở bệnh nhân có thai, sau đẻ, trẻ nhỏ và tuổi già.
1.2.9. Tác dụng ưu tiên của thuốc.

ở trên đã nói sự quy kinh của dược vật, tuy nhiên theo y lý cổ truyền, mỗi
tạng phủ, kinh lạc hoặc cơ quan tổ chức đều có tác dụng ưu tiên cứu thuốc theo
biện chứng luận trị, qua thực tế lâm sàng, người xưa đã tổng kết tác dụng chọn
lọc của thuốc trên tạng phủ.
1.2.9.1. Tác dụng ưu tiên trên tạng tâm.

- ích tâm khí
Nhân sâm (đẳng sâm)
Hoàng kỳ
Chích thảo
- Liễm thu tâm khí:

Ngũ vị tử
Từ thạch

Chân trâu

Sơn thù nhục

Long cốt

Mẫu lệ

Phù tiểu mạch

Mạch môn


Thục địa

Bách hợp

Ngọc trúc

- Dưỡng tâm âm

Đan sâm
- An tâm thần
17


Toan táo nhân

Bá tử nhân

Phục thần

Viễn trí

Hổ phách

Chu sa

Dạ giao đằng
- Thanh tâm hoả
Hoàng liên

Liên kiều


Liên tử tâm

Trúc diệp

Đăng tâm
- Khai tâm khiếu
Xương bồ

Uất kim

Tê giác (sừng trâu)

Xạ hương

Tô hợp hương

Viễn trí

Đan sâm

Sơn thù nhục

Tam thất

Hổ phách

Huyết kiệt

Xích thược


- Thông tâm ứ

Hồng hoa
- Bổ tâm huyết
Câu kỷ tử

Hồng táo

Đương quy

A giao

Long nhãn nhục
- Ôn tâm dương
Quế chi

Nhục quế

Chế phụ tử

Can khương

Duy mạch
1.2.9.2. Thuốc tác dụng ưu tiên trên tạng can.

- Bổ can huyết
Quy thân
18


Thục địa


Hà thủ ô

Tử hà sa

Bạch thược

A giao

Kê huyết đằng

Tang thầm

Câu kỷ tử
- Dưỡng can âm
Địa hoàng

Sơn thù nhục

Kim anh tử

Nữ tích tử

Hạn liên thảo

Câu kỷ tử

Thuỷ ô đỏ


Toan táo nhân

Quy bản

Miết giáp

Xuyên luyện tử

Uất kim

Hương phụ

Thanh bì

Diên hồ sách

Quất diệp

- Lý can khí

Trầm hương
- Hoạt can huyết
Quy vỹ

Xuyên khung

Đan sâm

Xích thược


Hồng hoa

Trạch lan

Thổ miết trùng

Đào nhân

Nhũ hương

Một dược

Bồ hoàng

Ngũ linh chi

Nga truật

Tam long

Tang diệp

Cúc hoa

Đại thanh diệp

Hạ khô thảo

Long đờm thảo


Chi tử

Đan bì

Câu đằng

- Tán can ứ

- Thanh can nhiệt

19


Quyết minh tử

Thanh tương tử

Ngưu bàng tử

Lô hội

Thạch quyết minh

Chân trâu

Mẫu lệ

Long cốt


Đại xích thạch

Từ thạch

Cúc hoa

Câu đằng

Thiên ma

Địa cương tàm

Toàn yết

Ngô công

- Tiềm can dương

- Tức can phong

Linh dương giác
- Ôn can hàn
Ngô thù du

Nhục quế

Dâm dương hoắc

Tiểu hồi hương


Quất hạch

Lệ chi hạch

Nhân trần

Kỷ tử

Uất kim

Kim tiền thảo

Khổ sâm

Đại hoàng

- Lợi đởm khí

1.2.9.3. Các vị thuốc ưu tiên trên tạng tỳ.

- Bổ tỳ khí
Hoàng kỳ

Chích thảo

Sơn dược

Đại táo

Đẳng sâm


Nhân sâm

Bạch truật

Biển đậu

Phục linh
- Ôn tỳ dương

20

Can khương

Chế phụ tử

Nhục đậu khấu

ích trí nhân


- Táo tỳ thấp
Thương truật

Hậu phác

Bán hạ

Trần bì


Mộc hương

Tô ngạnh

Sa nhân

Chỉ xác

Hoàng kỳ

Thăng ma

Sài hồ

Khương hoạt

Thạch hộc

Mạch môn

Thiên hoa phấn

Sa sâm

Ngọc trúc

Ô mai

Đẳng sâm


Ngạnh mễ

- Điều trung khí

- Thăng trung khí

- Dưỡng vị âm

- ích vị khí
Đông trùng hạ thảo
- Thanh vị hoả
Tri mẫu

Thạch cao

Hoàng cầm

Cát căn

Lô căn

Huyền sâm

Đại thanh diệp

Hoàng liên

Bồ công anh
- Giáng vị nghịch
Đại xích thạch


Thị đế

Trầm hương

Hậu phác

Khấu nhân

Nhục quế

Bán hạ chế
- Tán vị hàn
Cao lương khương
21

Sinh khương


Đinh hương

Nhục quế

Ngô thù du

Hồ tiêu

Thần khúc

Sơn tra


Mạch nha

Cốc nha

Kê nội kim

Lai phục tử

- Tiêu thực trệ

1.2.9.4. Thuốc tác dụng ưu tiên trên tạng phế.

- Bổ ích khí
Hoàng kỳ

Đẳng sâm

Hoài sơn

Hoàng tinh

Đông trùng hạ thảo

Bách cập

Cáp giới
- Dưỡng phế âm
Thiên môn đông


Mạch môn đông

Sa sâm

Địa hoàng

Ngọc trúc

Quy bản

Tử hà sa

A giao

Thiên hoa phấn

Bán đại hải

Mộc hồ diệp (hạt núc nác)

Mật ong

Tang diệp

Tang bạch bì

Hoàng cầm

Địa cốt bì


Qua lâu nhân

Tri mẫu

Thạch cao

Ngưu bàng tử

Huyền sâm

Sơn đậu căn

Ma hoàng

Đại xích thạch

Ngưu hoàng

Địa long

- Nhuận phế táo

- Thanh phế nhiệt

- Đinh suyễn

22


Tế tân


Cáp giới

Hạch đào nhục

Bạch quả

Tô tử

Bạch tiền

- Tiềm giáng phế khí
Tiền hồ
- Tuyên phế khí
Ma hoàng

Cát cánh

Tử tô diệp
- Liễm phế khí
Ngũ vị tử

Ô mai

Bạch quả

Kha tử

Can khương


Tế tân

Khoản đồng hoa

Tử uyển

- Ôn phế hàn

Hồ tiểu
- Sáp trường chỉ tả
ích trí nhân

Xích thạch chi

Nhục đậu khấu

Kha tử

Thạch lựu bì

Ô mai

Mật ong

Hoả ma nhân

Hồ ma nhân

Hạnh nhân


Đào nhân

Bá tử nhân

Uất lâu nhân

Qua lâu nhân

Đại hoàng

Mang tiêu

Phan tả diệp

Lô hội

- Nhuận phế thông tiện

- Tả hạ thông tiện

Địa du
- Thanh trường nhiệt
23


Bạch đầu ông

Quỷ hoa

Trần bì


Mã xỉ hiệu

Khổ sâm

Sinh địa hoàng

1.2.9.5. Thuốc tác dụng ưu tiên trên tạng thận

- Tư thận âm
Thục địa

Quy bản

Miết giáp

Sơn thù nhục

Nữ trinh tử

Hạn liên thảo

Kỷ tử

Tang ký sinh

Tang thầm

Tử hà sa


Thỏ ty tử
- Ôn thận dương
Phụ tử chế

Nhục quế

Ba kích thiên

Phá cố chỉ

Nhục thung dung

Dâm

dương

hoắc
Hồ lô ba
- ích thận tinh
Hoả ma nhân

Thỏ ty tử

ích trí nhân
- Sáp thận tinh
Phúc bồn tử

Kim anh tử

ích trí nhân


Tang phiêu tiêu

Ngũ vị tử

Liên tu

- Cố thận khí: ngũ vị tử, hạch đào nhục, cáp giới, nhân sâm.
- Cường cân cốt: đỗ trọng, tục đoạn, cẩu tích, ngưu tất, cốt toái bổ
- Lợi niệu: trư linh, trạch tả, sa tiền, mộc thông, hoạt thạch, ý dĩ nhân,
thông thảo, thạch vĩ.
- Thông lâm: hải kim sa đằng, cù mạch, biển xúc, thạch vĩ, địa long, kim
tiền thảo
24


- Dáo thận thấp: hoàng bá, kim ngân hoa
- Chú ý: hiểu được tác dụng ưu tiên, chọn lọc của thuốc trên tạng phủ và
trên từng phần của cơ quan tổ chức, sẽ ứng dụng cho bệnh nhân uống thuốc theo
thời gian khí thịnh (ứng dụng uống thuốc theo cấu trúc thời gian trong ngày và
theo ngũ hành tương sinh – xem bảng phụ lục 2,3 và phụ lục 4,5)

1.3. khả năng kháng khuẩn điều tiết miễn dịch kháng HBV, HIV và hỗ trợ điều
trị AIDS.
1.3.1.Khái niệm:

Quan điểm của YHCT: “Tự ngã thức biệt“, “Bài trừ dị kỉ“
Bình thường chức năng miễn dịch của cơ thể có 3 loại tác dụng lớn:
Tự thân ổn định (trung hòa các dị nguyên)
Cố định các dị nguyên (vô hiệu hóa)

Dự phòng các bệnh truyền nhiễm, cảm nhiễm.
Theo Von pirquet (1929 - 1974) phản ứng miễn dịch là bao gồm choáng
phản vệ loại bỏ protein lạ, mày đay nổi mẩn ...là cố định các dị nguyên ở vùng
viêm không cho lan rộng ra toàn thân. Nhưng do quá mức (thái quá) mà cơ thể
không những không tự bảo vệ được mình mà còn gây ra rối loạn chức năng các
tổ chức cơ quan trong cơ thể.
Quan điểm YHCT theo Tần Vạn Chương và Nại Duy Lập (Thượng hải
1988)
25


×