Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận: THỰC TRẠNG VỀ VIỆC HỌC NGHỀ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.13 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp của
Việt Nam nói riêng đang phải đương đầu với một cuộc cạnh tranh quyết liệt,
trong đó có nhiều cơ hội để phát triển nhưng những thách thức mà Việt Nam
phải đối mặt cũng không nhỏ. Chất lượng của nguồn nhân lực vốn được xem là
khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền kinh tế, của phát triển xã hội
thì vẫn còn nhiều hạn chế hay nói đúng hơn là vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Hằng năm lại có thêm gần 1
triệu người đến tuổi lao động bổ sung vào đội ngũ lực lượng lao động. Trong khi
đó, vấn đề đào tạo nghề và sử dụng lao động đã được đào tạo đang còn nhiều bất
cập như: Các trường đại học, cao đẳng ồ ạt mở rộng đào tạo đến cả bậc trung
cấp nghề, nhưng hầu hết trang thiết bị của các trường nghề đều rơi vào tình trạng
lạc hậu. Có những trường nghề hiện nay còn dùng các loại máy móc những năm
60 - 70 của thế kỷ 20 được nhập từ các nước Ðông Âu; đội ngũ giáo viên cũng
chưa thật sự đủ mạnh để có thể truyền nghề cho học sinh của mình. Từ thực tiễn
công tác đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy
một nghịch lý tồn tại hiển nhiên "thừa thầy thiếu thợ", chưa kể tâm lý học trung
cấp rất khó tìm được việc làm, nếu có thì thu nhập cũng ở mức rất thấp. Nhà
nước cần tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề, có chính sách đảm bảo
thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề, khuyến khích, huy động và tạo
điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia đào tạo nghề Đồng thời với việc mở
rộng về số lượng thì phải gắn liền với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
Với những vấn đề như vậy, em xin chọn đề tài “Thực trạng về việc học
nghề ở nước ta hiện nay”. Trong quá trình làm bài, còn gặp nhiều khó khăn và


sai sót, mong quý thầy cô thông cảm.

2


B. NỘI DUNG
1. Lý luận chung về học nghề
1.1.

Khái niệm

Theo nghĩa rộng, học nghề là quá trình học tập, tích lũy kiến thức nghề
nghiệp của con người để hướng tới mục đích chủ yếu là giải quyết việc làm. Học
nghề theo nghĩa này được thể hiện bằng nhiều hình thức: giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng...thậm chí là quá trình tự học của con người.
Dưới góc độ pháp luật lao động, học nghề là chế định của pháp luật lao
động, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy
định về quyền học nghề, điều kiện của người học nghề, quyền dạy nghề, điều
kiện của người dạy nghề, hợp đồng học nghề, quan hệ dạy và học nghề giữa hai
bên, chính sách áp dụng với cơ sở dạy nghề...
Quan hệ giữa người học nghề và người dạy nghề được hình thành bằng
một trong hai con đường: con đường tuyển sinh theo chỉ tiêu tuyển sinh của Nhà
3


nước giao hoặc giao kết hợp đồng dạy nghề. Bài viết này xin đi sâu hơn về vấn
đề học nghề theo hợp đồng.
Căn cứ vào mục tiêu của người học, có thể chia ra làm 2 loại, đó là học
nghề để tự tạo việc làm và học nghề để tham gia quan hệ lao động.
Vì mục đích cuả người học không phải lúc nào cũng rõ ràng là học để tự

tạo việc làm hay tham gia quan hệ lao động và nhiều khi hình thức này có thể
chuyển đổi theo từng hoàn cảnh cụ thể nên việc phân chia theo tiêu chí này chỉ
mang tính chất tương đối.
Căn cứ vào cách thức tổ chức dạy và học nghề, có 2 loại: học nghề được
tổ chức thành lớp học và học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp.
+ Học nghề theo hình thức tổ chức thành lớp học thường thấy ở các cơ sở
chuyên dạy nghề (trường, trung tâm dạy nghề) với số lượng người học nhiều.
+ Học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp thường được tổ chức ở
các cơ sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với số lượng người học ít.
Đây thực chất là quá trình vừa học vừa làm của người lao động, gắn với thực
hành là chính.
Căn cứ vào trình độ nghề, có 3 loại: học nghề trình độ sơ cấp, học nghề
trình độ trung cấp và học nghề trình độ cao đẳng.
+ Học nghề trình độ sơ cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ 3 tháng đến dưới 1
năm nhằm trang bị cho người học kĩ năng thực hành một nghề đơn giản, tác
phong công việc, tạo điều kiện cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc có điều kiện học lên trình độ cao hơn. Các cơ sở dạy nghề trình độ sơ
cấp như: trung tâm dạy nghề, trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có
đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp. Người học nghề trình độ sơ cấp được cấp
chứng chỉ sơ cấp nghề theo quy định của pháp luật.
+ Học nghề trình độ trung cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ 1 năm đến 2
năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông, từ 3 năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung
học cơ sở. Học nghề trình độ trung cấp trang bị cho người học kiến thức chuyên
môn và năng lực thực hành các công việc của 1 nghề, có khả năng làm việc độc
lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc, tự tạo việc làm hoặc học có
điều kiện học lên trình độ cao hơn... Các cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp bao
gồm: trường trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trung
cấp; trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có đăng
ký dạy nghề trình độ trung cấp. Khi tốt nghiệp, người học nghề được cấp bằng

tốt nghiệp trung cấp nghề theo quy định của pháp luật.
4


+ Học nghề trình độ cao đẳng: diễn ra trong khoảng thời gian từ 2 năm đến 3
năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông, từ 1 năm đến 2 năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt
nghiệp trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo. Mục tiêu của học nghề trình
độ cao đẳng là trang bị kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công
việc của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo
nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, có khả năng tự tạo việc làm
hoặc học lên trình độ cao hơn. Cơ sở dạy nghề trình độ cao đẳng bao gồm:
trường cao đẳng nghề; trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký dạy nghề
trình độ cao đẳng. Sau khi kết thúc khóa học, người học nghề được cấp bằng tốt
nghiệp cao đẳng nghề theo quy định của pháp luật.
1.2.

Quy định pháp luật về học nghề

Học nghề thường được diễn ra trước khi quan hệ lao động hoặc đan xem
với quan hệ lao động, tạo điều kiện để quan hệ lao động thiết lập.
Pháp luật quy định học nghề là chế định của luật lao động, bao gồm tổng
hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, quy định về quyền học
nghề; điều kiện của người học nghề; quyền dạy nghề, điều kiện của người dạy
nghề; hợp đồng học nghề và những vấn đề liên quan tới hợp đồng học nghề;
quan hệ dạy và học nghề giữa hai bên; chính sách áp dụng đối với cơ sở dạy
nghề; vấn đề giải quyết việc làm cho người học nghề trong một số trường hợp cụ
thể. Có thể phân loại học nghề như sau:
- Theo trình độ nghề, học nghề được chia thành ba cấp độ: sơ cấp, trung
cấp vàcaođẳng.

- Theo cách thức tổ chức dạy và học nghề, học nghề được chia thành: học
nghề được tổ chức thành lớp học và học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh
nghiệp.
- Căn cứ vào mục tiêu của người học, học nghề được chia thành hai loại:
học nghề để tự tạo việc làm và học nghề để tham gia quan hệ lao động.
Chính vì đặc điểm trên, quan hệ giữa người học nghề cũng có 2 quan hệ hợp
đồng:

a. Người học nghề với cơ sở đào tạo nghề:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật Dạy nghề năm 2006, "Hợp đồng
học nghề là sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ giữa người đứng đầu cơ sở dạy
nghề với người học nghề"
b. Người học nghề với doanh nghiệp
Thường thiết lập một dạng giống hợp đồng thử việc.
5


Hợp đồng học nghề
• Đặc điểm của hợp đồng học nghề:
Đối tượng của hợp đồng học nghề là việc dạy và học nghề
Hợp đồng học nghề mang tính chất song vụ
Hợp đồng học nghề không những ràng buộc trách nhiệm của cả hai bên
trong quan hệ học nghề, trong quá trình học mà có thể cả khi người học tham gia
vào quan hệ lao động trong trường hợp đồng học nghề hợp đồng học nghề ghi
cơ sở dạy nghề cam kết đảm bảo việc làm cho người học hoặc khi người lao
động được đào tạo nghề trong cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp.
• Trong quan hệ học nghề, nếu chủ thể nào vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì
phải có trách nhiệm bồi thường.
• Phân loại hợp đồng học nghề
Dựa vào hình thức, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp đồng

học nghề bằng văn bản và hợp đồng học nghề bằng lời nói.
Theo giá trị pháp lý, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp
đồng học nghề hợp pháp và hợp đồng học nghề vô hiệu.
• Nội dung hợp đồng học nghề:
Theo Khoản 1 Điều 36 Luật Dạy nghề, nội dung chủ yếu của hợp đồng
học nghề gồm những điều khoản sau:
- Tên nghề, kỹ năng nghề đạt được;
- Nơi học và nơi thực tập;
- Thời gian hoàn thành khóa học;
- Mức học phí và phương thức thanh toán học phí;
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng học
nghề.
Trường hợp hợp đồng học nghề được giao kết giữa người học nghề và
doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để sử dụng thì ngoài những nội dung
chủ yếu như trường hợp hợp đồng học nghề thông thường, Khoản 2 Điều 36
Luật Dạy nghề quy định hợp đồng học nghề phải có thêm những nội dung sau:
- Cam kết của người học nghề về thời hạn làm việc cho doanh nghiệp;
- Cam kết của doanh nghiệp về việc giao kết hợp đồng lao động sau khi
học xong;
- Trả công cho người học nghề trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản phẩm
cho doanh nghiệp trong thời gian học nghề.
Đây là những điều khoản bắt buộc mà Nhà nước đòi hỏi các bên khi xây
dựng thỏa thuận phải đưa vào hợp đồng học nghề. Ngoài ra, trong một số trường
hợp, pháp luật còn cho phép các bên có những thỏa thuận khác không trái pháp
luật và đạo đức xã hội như việc xét thưởng với những người đạt được học nghề
loại giỏi sau thời gian học nghề hay việc ăn ở của người học nghề… Nếu hai bên
1.3.

6



đã thỏa thuận và đưa những điều khoản này vào hợp đồng học nghề thì có giá trị
pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên.
2.

Thực trạng về học nghề ở nước ta
2.1.
Học nghề tại cơ sở đào tạo nghề

Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trong phát
triển kinh tế- xã hội. Đóng góp vào những thành công đó có vai trò to lớn của
các doanh nghiệp. Với xu thế mở cửa, hội nhập hiện nay để tăng sức cạnh tranh,
mở rộng thị trường thì một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp là phải đầu
tư công nghệ, trang thiết bị hiện đại và điều đặc biệt quan trọng là phải nâng cao
chất lượng của lực lượng lao động, phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật, công
nhân lành nghề đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Xuất phát
từ những yêu cầu đó, công tác đào tạo nghề giữ vị trí quyết định nhất, không chỉ
đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ việc xuất khẩu lao động,
nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu lao động ở nước ta.
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải phát triển một hệ thống đào tạo
nghề có khả năng cung cấp cho xã hội một đội ngũ nhân lực đông đảo, có trình
độ cần thiết theo một cơ cấu thích hợp, có khả năng thích ứng nhanh với mọi
biến đổi của môi trường có trình độ toàn cầu hóa ngày càng cao. Đồng thời có
khả năng thường xuyên cập nhật các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho đội ngũ
lao động của đất nước. Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ
thống đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong những năm qua, do sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo
của Chính phủ và sự cố gắng của các cấp, các ngành công tác dạy nghề đã từng

bước được đổi mới và phát triển đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ
thuật trực tiếp phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.
Hệ thống và mạng lưới dạy nghề đã bắt đầu được đổi mới và phát triển,
chuyển từ hệ thống dạy nghề trình độ thấp với hai cấp trình độ đào tạo sang hệ
thống dạy nghề với ba cấp trình độ đào tạo: sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao
đẳng nghề. Các cơ sở dạy nghề được phát triển theo quy hoạch rộng khắp trên
toàn quốc, đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo. Đến nay trong cả
nước có 2052 cơ sở dạy nghề (trong đó có 62 trường cao đẳng nghề, 235 trường
trung cấp nghề. Số lượng cơ sở dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số cơ sở
dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện có 789 cơ sở dạy nghề ngoài công lập.
7


Quy mô đào tạo nghề tăng nhanh, giai đoạn 2001-2006 dạy nghề cho 6,6
triệu người (tăng bình quân hàng năm 6,5%), trong đó dạy nghề dài hạn đạt 1,14
triệu người, dạy nghề ngắn hạn đạt 5,46 triệu người. Năm 2007 cả nước tuyển
sinh được 1.436.500 người, trong đó trung cấp nghề là 151.000 và cao đẳng
nghề là 29.500 người. Quy mô dạy nghề trong những năm qua tăng nhanh đã
nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 13,4% năm 2001 lên khoảng 24% năm
2007, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động.
Các cơ sở dạy nghề đã mở thêm nhiều nghề đào tạo mới mà thị trường lao
động có nhu cầu. Cùng với việc đào tạo các nghề phục vụ cho các doanh nghiệp,
khu công nghiệp, khu chế xuất các cơ sở dạy nghề đã tổ chức đào tạo các nghề
phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và giải
quyết việc làm cho người lao động. Hàng năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên
95%; trong đó loại khá giỏi chiếm 29%; khoảng 70% học sinh tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở
dạy nghề tỷ lệ này đạt trên 90%. Qua điều tra thị trường lao động của Tổng cục
dạy nghề tại gần 3000 doanh nghiệp, đa số lao động qua đào tạo nghề đang làm
việc trong các doanh nghiệp đã được sử dụng có hiệu quả. Đa số lao động qua

đào tạo nghề được các doanh nghiệp sử dụng phù hợp hoặc rất phù hợp với trình
độ được đào tạo của họ (khoảng 85% so với số lao động qua đào tạo nghề đang
làm việc tại doanh nghiệp, nghĩa là chiếm khoảng 70% so với số học sinh học
nghề tốt nghiệp). Theo đánh giá của người sử dụng lao động về kỹ năng nghề
của lao động qua đào tạo nghề: 30,4% đạt loại khá và giỏi .
Dạy nghề đã từng bước đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật trực tiếp trong
sản xuất của thị trường lao động. Trong nhiều doanh nghiệp liên kết, liên doanh
với nước ngoài hoặc doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn công nghệ kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại lao động Việt Nam đã đảm nhiệm được hầu hết những vị trí
quan trọng trong các ngành sản xuất, kể cả các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, công
nghệ phức tạp, góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm hàng hóa.
Việc dạy nghề được phát triển với các mô hình dạy nghề năng động, linh
hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động
để đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng,
từng địa phương. Có nhiều mô hình dạy nghề đã được thực hiện như dạy nghề
tại doanh nghiệp, dạy nghề cho lao động nông thôn, dạy nghề cho thanh niên
dân tộc nội trú, dạy nghề cho xuất khẩu lao động, dạy nghề cho người tàn tật...
2.2.

Dạy nghề tại doanh nghiệp
8


Riêng mô hình dạy nghề tại doanh nghiệp được triển khai một số năm qua
đã đạt được những kết quả bước đầu. Nếu như các cơ sở đào tạo chính quy tập
trung dạy nghề cho học sinh và người lao động chưa có nghề thì các doanh
nghiệp ngoài việc đào tạo nghề cho lao động mới tuyển, còn thực hiện đào tạo
bổ túc và đào tạo nâng cao nhằm nâng cao chất lượng và nâng cao kỹ năng nghề
cho người lao động của doanh nghiệp, phù hợp với sự thay đổi sản phẩm và

công nghệ của doanh nghiệp.
Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh nghiệp; hầu hết
các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh đều có trường dạy nghề để chủ động
tạo nguồn nhân lực và góp phần cung cấp cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn đã
chủ động tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng kỹ năng nghề, chuyển giao
công nghệ cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp. Đào tạo nghề
trong các trường của doanh nghiệp có thế mạnh là vừa tận dụng được đội ngũ
giáo viên có kinh nghiệm đang trực tiếp tham gia sản xuất, đồng thời góp phần
thực hiện chủ trương xã hội hoá công tác đào tạo nghề.
Các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp đã chủ động xây dựng chương trình
đào tạo, hình thức đào tạo phù hợp với đặc điểm sản xuất cũng như công nghệ
của doanh nghiệp, do vậy tiết kiệm được thời gian đào tạo của người lao động
và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo này cũng
tham gia dạy nghề cho người lao động ngoài xã hội, góp phần đáp ứng nhu cầu
lao động qua đào tạo nghề của địa phương. Trong thời gian gần đây các trường
của các Tổng công ty đã tham gia đào tạo nghề với số lượng ngày càng tăng lên.
Nhiều doanh nghiệp đã thực hiện đào tạo nghề tại chỗ khá tốt, không những đáp
ứng nhu cầu về lao động kỹ thuật phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với trình độ công nghệ của
doanh nghiệp mà còn chia sẻ trách nhiệm đối với nhà nước trong việc nâng cao
chất lượng và tay nghề của đội ngũ lao động nước ta. Tuy nhiên đào tạo tại
doanh nghiệp còn khá mới mẻ và không phải doanh nghiệp/cơ sở sản xuất kinh
doanh nào cũng có thể thực hiện được.
Hiện nay cả nước có gần 200 khu công nghiệp và khu chế xuất với hơn
1,4 triệu lao động đang làm việc (cả trực tiếp và xung quanh các KCN). Nhiều
lao động trong các KCN,KCX đã được đào tạo nghề tại các trường dạy nghề và
có khả năng sử dụng được những thiết bị hiện đại trong các KCN này. Tuy
nhiên, còn khá nhiều lao động, nhất là lao động được tuyển tại địa phương, chưa
qua đào tạo nghề. Để đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ nghề cho người lao

động, một số doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã thực hiện đào tạo nghề
9


cho người lao động. Mặt khác, không phải khi nào các trường dạy nghề cũng
đào tạo phù hợp với công nghệ của doanh nghiệp, nên các doanh nghiệp phải
tiến hành đào tạo lại, hoặc bồi dưỡng tay nghề cho người lao động. Một số khu
công nghiệp đã hình thành trường dạy nghề hoặc trung tâm dạy nghề của mình
và đã bước đầu có kết quả ( như KCN Dung quất, KCN Bình dương, KCN Hà
nội....).
Ngoài nhu cầu tuyển dụng lao động, việc đào tạo nâng cao tay nghề cho
lao động sau khi tuyển dụng là một vấn đề cần thiết ở các doanh nghiệp. Qua
khảo sát gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp, có 36,6% số lao động
được đào tạo/đào tạo lại sau khi tuyển dụng để phù hợp với công nghệ sản xuất
của doanh nghiệp. Điều này là do các doanh nghiệp đổi mới công nghệ rất
nhanh, nên các doanh nghiệp phải đào tạo lại cho phù hợp.
Việc doanh nghiệp tổ chức đào tạo - dạy nghề cho lao động dưới các hình
thức khác nhau đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác dụng tích cực nâng
cao trình độ tay nghề và chất lượng lao động. Các doanh nghiệp tổ chức dạy
nghề cho lao động theo 3 hình thức chủ yếu sau: kèm cặp tại doanh nghiệp, đào
tạo tập trung tại doanh nghiệp và đào tạo tập trung ngoài doanh nghiệp, trong đó
dạy nghề kèm cặp là phổ biến hơn cả (chiếm 63,6% tổng số lao động được đào
tạo). Rõ ràng hình thức này phù hợp với khả năng, điều kiện của doanh nghiệp.
Tuy nhiên ở một số lĩnh vực, các doanh nghiệp vẫn gắn chặt với cơ sở dạy nghề.
Nhiều doanh nghiệp rất quan tâm đầu tư nâng cấp cho các cơ sở dạy nghề nhằm
tạo điều kiện có đủ điều kiện vật chất, trang thiết bị, công nghệ ngày càng cao
cho các cơ sở dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu lao động có chất lượng cho doanh nghiệp.
Trong thời gian qua công tác đào tạo nghề đã bước đầu có sự gắn kết giữa
nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề. Người học nghề được học những

nghề phù hợp với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Các kiến thức và kỹ năng
nghề mà người học tiếp thu được đáp ứng được lợi ích của cả người học và
người sử dụng lao động. Người học nghề ngoài việc học lý thuyết nghề, được
thực tập ngay trên các máy móc, thiết bị đang sử dụng tại doanh nghiệp, do đó
có thể vận dụng được những kiến thức đã học, đồng thời nâng cao được kỹ năng
nghề. Việc liên kết đào tạo này đã làm tăng mối quan hệ hiểu biết giữa nhà
trường và doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo tiết kiệm được chi phí đầu tư cho việc
mua sắm trang thiết bị dạy thực hành và người học có thể tiếp thu bài học nhanh
hơn. Về phía doanh nghiệp có thể sử dụng được ngay lực lượng lao động này
sau khi tốt nghiệp. Có nhiều hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp.
Ví dụ trường LILAMA 2 đã có mạng lưới các doanh nghiệp của các tập đoàn
10


lớn như PetroViétnam. Vinashin, Vedan…để đưa học sinh đến thực tập định kỳ
và đào tạo , bồi dưỡng lại tay nghề cho lao động của các doanh nghiệp này…
Một số doanh nghiệp còn trực tiếp đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở đào tạo để
có thể đào tạo được những nghề ở những trình độ doanh nghiệp mong muốn, ví
dụ như công ty Compal Việt nam đầu tư cho trường cao đẳng công nghiệp Phúc
yên…
Tuy nhiên, việc dạy nghề cho doanh nghiệp và tại doanh nghiệp vẫn còn
những tồn tại, hạn chế, đó là:
-

-

-

Cơ cấu ngành, nghề đào tạo vẫn chưa thật phù hợp với cơ cấu ngành,
nghề của thị trường lao động; chưa bổ sung thường xuyên các nghề đào

tạo mới theo yêu cầu của thị trường lao động; thiếu lao động kỹ thuật
trình độ cao cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế mũi
nhọn, ngành kinh tế trọng điểm và cho xuất khẩu lao động.
Chất lượng dạy nghề vẫn còn thấp, nội dung chương trình, giáo trình
giảng dạy chất lượng chưa cao, chưa gắn chặt lý luận với thực tiễn, tính
lôgic, tính khoa học chưa cao chưa thoả mãn nhu cầu của người học và
chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, chưa phù hợp với sự
thay đổi nhanh công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Thực tế các trường
cao đẳng nghề, trung cấp nghề mới được nâng cấp 1, 2 năm nay nên cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy, học tập, thực hành còn
rất hạn chế, đội ngũ giáo viên cũng chưa có nhiều kinh nghiệm. Trình độ
năng lực cũng chưa tương xứng với vị trí cũng tác động ảnh hưởng đến
chất lượng đào tạo.
Số lượng các cơ sở dạy nghề trong doanh nghiệp còn ít, chưa đáp ứng
được nhu cầu của bản thân doanh nghiệp.
Người lao động qua đào tạo nghề, kỹ năng thực hành và khả năng thích
ứng với sự thay đổi công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế.

Mối quan hệ trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo (cả về trách nhiệm và
quyền lợi), nên trên thực tế các trường vẫn chủ yếu đào tạo theo khả năng
“cung” của mình chứ chưa thực sự đào tạo theo “cầu” của doanh nghiệp.
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, số
doanh nghiệp sử dụng trên 500 lao động chỉ chiếm 6% (DN sử dụng dưới 50 lao
động chiếm trên 50%). Công nghệ, máy móc sử dụng trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ còn lạc hậu, việc tuyển và sử dụng lao động tại các doanh nghiệp
chủ yếu qua hình thức truyền nghề trực tiếp, số lượng lao động đã qua đào tạo
tại các trường chiếm tỷ lệ ít. Dưới áp lực của cạnh tranh ngày càng cao đòi hỏi
các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, tổ chức lại sản xuất dẫn đến phải thay
11



đổi cơ cấu sử dụng lao động. Yêu cầu đối với các doanh nghiệp ngoài việc đầu
tư công nghệ, phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của mình. Đây là một áp
lực rất lớn đối với công tác đào tạo nghề trong những năm tới. Hiện nay số lao
động trong ngành công nghiệp chiếm trên 67% tổng số lao động trong các doanh
nghiệp. Theo điều tra của Tổng cục dạy nghề, bình quân mỗi doanh nghiệp còn
thiếu 6-7 công nhân kỹ thuật bậc cao, công nhân lành nghề. Như vậy, cả nước có
240.000 doanh nghiệp thì số lao động qua đào tạo nghề các doanh nghiệp đang
cần khoảng từ 1,4- 1,7 triệu người. Một số nghề/ nhóm nghề đang có nhu cầu
cao về lao động qua đào tạo nghề là thợ dệt may; thợ thuộc da và làm giày; thợ
vận hành máy và thiết bị; thợ cơ khí, lắp ráp máy móc; thợ xây dựng...Một số
nghề/nhóm nghề khác, nhu cầu chưa cao (về quy mô) nhưng lại đang rất thiếu
đó là lập trình viên, nghề điện, điện tử, cơ- điện tử, chế biến nông sản và các sản
phẩm công nghiệp....
3.

Giải pháp

Để đáp ứng những nhu cầu trên, trong những năm tới cần thực hiện một
số giải pháp:
Thứ nhất, xác định nhu cầu nguồn nhân lực theo cơ cấu nghề, trình độ đào
tạo để từng bước đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Đối với các địa
phương, các khu công nghiệp, khu chế xuất- các doanh nghiệp có quy mô sản
xuất lớn càng cụ thể chi tiết về yêu cầu trình độ nghề, ngành nghề cần đào tạo sẽ
giúp cho các cơ sở dạy nghề, trường nghề có chương trình kế hoạch, phương án
cụ thể để từng bước đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Thứ hai, quy hoạch phát triển mạng lưới dạy nghề (Trung tâm dạy nghề,
trung cấp, cao đẳng nghê) đến năm 2020, đa dạng hoá các loại hình dạy nghề
học nghề. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá đúng năng lực đào tạo của các trường
sẽ lựa chọn các trường có đủ điều kiện, kể cả trường đại học – cao đẳng – trung

cấp nghề tham gia đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp,
chuyển mạnh dạy nghề từ hướng cung sang hướng cầu của thị trường lao động.
Kể cả đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các tập đoàn lớn như VINASHIN,
Than- Khoáng sản, dệt may...
Thứ ba, hoàn thiện nội dung, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho dạy – học, đổi mới phương pháp đào tạo, nâng cao trình độ năng lực
cho đội ngũ giáo viên để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán
bộ – công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp. Bổ sung cơ chế chính sách để
huy động các doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo nghề và phát triển cơ
sở dạy nghề tại doanh nghiệp. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần sớm
12


nghiên cứu, xây dựng phương án trình Chính phủ cho phép vận dụng học tập
kinh nghiệm đào tạo nghề theo hướng tiên tiến, hiện đại ở 1 đến 2 nước trong
khu vực ASEAN, 3 nước tiên tiến trên thế giới để có kế hoạch trong 5 năm, 10
năm nhằm thúc đẩy sự nghiệp dạy nghề ở nước ta phát triển đáp ứng nhu cầu
nguồn lao động chất lượng cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, có cơ chế chính sách, cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Nhà
nước về lao động với đại diện giới chủ- giới thợ, đại diện các hội nghề nghiệp và
cơ sở dạy nghề trong xây dựng nhu cầu của doanh nghiệp về nguồn nhân lực
trong những năm tới và thập kỷ tới. Bên cạnh đó xây dựng trung tâm phân tích,
dự báo nhu cầu thị trường lao động Quốc gia và từng khu vực- vùng miền,
ngành kinh tế quốc dân.
Thứ năm, đẩy mạnh xã hội hoá công tác dạy nghề nhằm huy động mọi nguồn
lực, các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp tham vào công tác dạy nghề.
Thứ sáu, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở dạy nghề với doanh
nghiệp trong quá trình đào tạo:
+ Doanh nghiệp và cở sở dạy nghề cùng phối hợp xây dựng tiêu chuẩn, kỹ năng
nghề, thiết kế chương trình và tham gia vào quá trình giảng dạy, đánh giá kết

quả học tập của người học nghề.
+ Cơ sở dạy nghề phải chủ động điều tra để có được thông tin về nhu cầu của
doanh nghiệp (nghề, trình độ, mức độ kỹ năng...) để tổ chức đào tạo phù hợp.
+ Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ sở dạy nghề về nhu
cầu về lao động.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực dạy nghề, đặc biệt là với
các nước trong khu vực để từng bước tiếp cận chuẩn khu vực và chuẩn quốc tế
về kỹ năng nghề.

C.

KẾT LUẬN

Từ những phân thích trên có thể thấy, việc đào tạo nguồn nhân lực thông
qua dạy nghề và học nghề là một vấn đề cần thiết và cấp bách hiện nay. Tuy
nhiên, việc đào tạo nghề kể cả tại các cơ sở đào tạo nghề và cả đào tạo tại
doanh nghiệp đều gặp rất nhiều khó khăn. Nên đề ra những giải pháp cần thiết
để giải quyết vấn đề trên. Nhà nước cũng nên đầu tư để phát triển việc dạy nghề
- học nghề. Phân bổ các ngành, ghề, các vị trí trong nghề nghiệp sao cho hợp lí,
tránh tình trạng “thừa thầy – thiếu thợ” như hiện nay. Chỉ có việc phát triển
nguồn nhân lực thông qua dạy nghề và học nghề như hiện nay mới có thể đáp
13


ứng được nhu cầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

Bộ luật lao động 2012
Giáo trình luật lao động trường Đại học Luật Hà Nội
Giáo trình luật lao động trường Đại học Cần thơ

14



×