Tải bản đầy đủ (.doc) (150 trang)

Những Kiến Thức Cơ Bản Của Tâm Lý Học Lứa Tuổi Và Tâm Lý Học Sư Phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.46 KB, 150 trang )

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN CỦA
TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
TS Huỳnh Văn Sơn (Chủ biên)
Đinh Quỳnh Châu - Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu

LỜI NÓI ĐẦU
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là một chuyên ngành của
Tâm lý học. Chuyên ngành này cung cấp cho người học những kiến thức
chuyên sâu về sự phát triển tâm lý theo độ tuổi và các đặc điểm tâm lý cụ thể
ở từng độ tuổi cũng như những cơ sở tâm lý của việc dạy học và giáo dục
con người nói chung và học sinh nói riêng.
Đối với sinh viên sư phạm hoặc những chuyên ngành có liên quan đến
việc giáo dục và đào tạo thì bộ môn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư
phạm trở thành một môn học hay những tín chỉ bắt buộc phải tích lũy. Những
kiến thức của bộ môn này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
những định hướng ban đầu về sự hiểu biết nghề nghiệp, những kỹ năng cơ
bản cũng như những nền tảng nhất định cho việc tiếp thu những tri thức về Lý
luận dạy học bộ môn. Có thể nói cùng với Tâm lý học đại cương thì Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đóng vai trò hết sức quan trọng nhằm
hình thành kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho người học chuyên ngành sư
phạm
Ngày nay, việc giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải liên tục cập nhật
những kiến thức khoa học. Tuy nhiên, những kiến thức cơ bản của Tâm lý
học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm vẫn thể hiện được tính thiết yếu của nó.
Từ việc tìm hiểu những đặc điểm cơ bản về nhận thức và học tập của từng
lứa tuổi để người giáo viên biết lựa chọn nội dung dạy học, phương pháp dạy
học đến việc nắm vững cấu trúc tâm lý của việc hình thành khái niệm hay rèn
luyện kỹ năng đều đòi hỏi phải nắm vững những kiến thức cơ bản trong Tâm
lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngay cả thực trạng công tác học



đường đang có nhiều vấn đề như: bạo lực học đường, văn hóa học đường
xuống cấp... thì việc giáo dục hành vi đạo đức, hình thành những phẩm chất
của một người học sinh trong thời đại mới cũng đòi hỏi sinh viên sư phạm và
cả những thầy cô giáo - nhà quản lý giáo dục phải thực sự quan tâm đến
những cơ sở tâm lý trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh, hình thành
những phẩm chất đạo đức dựa trên cơ sở tâm lý hay cấu trúc tâm lý của
hành vi đạo đức...
Tập tài liệu này ra đời nhằm hỗ trợ sinh viên sư phạm và những người
có liên quan đến chuyên ngành sẽ xác lập được những kiến thức trọng tâm
của môn học, trên cơ sở nghiên cứu có định hướng hoặc sẽ nắm vững những
kiến thức cơ bản nhất qua quá trình học tập - nghiên cứu. Nội dung của tài
liệu tập trung vào những kiến thức chung của Tâm lý học lứa tuổi và sự phát
triển tâm lý của học sinh Trung học (bao gồm học sinh Trung học cơ sở và
Trung học phổ thông). Ngoài ra, những kiến thức cơ bản về Tâm lý học dạy
học, Tâm lý học giáo dục và Tâm lý học nhân cách người giáo viên cũng
được tiếp cận tr6en bình diện khái quát. Tài liệu được trình bày dưới dạng hỏi
đáp những nội dung khoa học cơ bản trong môn học cũng như định hướng
phân tích - giải quyết những tình huống thực tiễn được sử dụng làm chất liệu
giảng dạy hay sử dụng làm câu hỏi mở rộng hay câu hỏi tình huống trong
đánh giá. Các câu hỏi được sắp xếp theo từng phần - từng chương dưới
dạng câu hỏi luận đề và câu hỏi tình huống để người đọc sẽ dễ dàng tham
khảo và nghiên cứu. Hy vọng rằng quyển tài liệu đã đáp ứng nhu cầu học tập
và nghiên cứu của những đối tượng có quan tâm đến bộ môn Tâm lý học lứa
tuổi và Tâm lý học sư phạm.
Chắc chắn rằng quyển tài liệu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Hy
vọng sẽ nhận được quan tâm và ủng hộ của quý bạn đọc. Mong rằng quyển
tài liệu này sẽ trở thành tư liệu học tập và nghiên cứu hữu ích cho quý bạn
đọc để việc tìm hiểu - nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
sẽ có định hướng và đạt hiệu quả cao. Mong nhận được những chia sẻ và
đóng góp của quý bạn đọc.



Phần 1: TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI
TỔNG QUAN
* Với mục tiêu giúp sinh viên nêu được quan điểm đúng đắn và tích cực
về trẻ em và sự phát triển tâm lý trẻ em, biết nhận diện cac quy luật phát triển
tâm lý và biết phân tích vai trò của các yếu tố bẩm sinh di truyền, môi trường
sống, giáo dục và hoạt động và giao tiếp đối với sự phát triển tâm lý cá nhân
cũng như nắm vững các giai đoạn phát triển tâm lý của một đời người;
chương 1 sẽ là các câu hỏi để ôn tập những nội dung cơ bản sau:
1. Khái niệm chung về sự phát triển tâm lý trẻ em
2. Các quy luật phát triển tâm lý trẻ em
3. Các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lý trẻ em
4. Phân chia các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ em
* Song song với tài liệu này, sinh viên có thể tham khảo thêm các tài
liệu sau:
1. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1995), Vụ Đại học, NXB Hà Nội.
2. TLH Lứa tuổi và TLH Sư phạm (1998), PGS Lê Văn Hồng - Lê Ngọc
Lan – Nguyễn Văn Thàng, NXB Giáo Dục.
3. Tâm lý học trẻ em (1998), Nguyễn Ánh Tuyết, NXB Giáo Dục.
Câu hỏi:
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm được ra đời để nghiên cứu
đối tượng gì và thực hiện những nhiệm vụ nào? Từ đó nêu lên ý nghĩa lý luận
và thực tiễn của môn học này?
Trả lời:
Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa nghiên cứu Tâm lý học
lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm:



a. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng của Tâm lý học lứa tuổi là động lực phát triển tâm lý theo
lứa tuổi của con người; sự phát triển cá thể của các quá trình tâm lý và các
phẩm chất tâm lý trong nhân cách của con người đang được phát triển (quá
trình con người trở thành nhân cách như thế nào);
- Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu đặc điểm của các quá trình và các
phẩm chất tâm lý riêng lẻ của cá nhân ở các lứa tuổi khác nhau và sự khác
biệt của chúng ở mỗi cá nhân trong phạm vi một lứa tuổi, nghiên cứu những
khả năng lứa tuổi của việc lĩnh hội tri thức, phương thức hành động ;
- Tâm lý học lứa tuổi nghiên cứu các dạng hoạt động khác nhau của
các cá nhân đang được phát triển (vui chơi, lao động…)
- Do yêu cầu của thực tiễn và thành tựu của khoa học, ngày nay Tâm lý
học lứa tuổi có nhiều phân ngành: Tâm lý học trẻ em trước tuổi học, Tâm lý
học tuổi nhi đồng, Tâm lý học tuổi thiếu niên, Tâm lý học tuổi thanh niên…
- Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm là những quy luật tâm
lý của việc dạy học và giáo dục.
- Tâm lý học sư phạm nghiên cứu những vấn đề Tâm lý học của việc
điều khiển quá trình dạy học, nghiên cứu sự hình thành quá trình nhận thức,
tìm tòi những tiêu chuẩn đáng tin cậy của sự phát triển trí tuệ và xác định
những điều kiện để đảm bảo phát triển trí tuệ có hiệu quả trong quá trình dạy
học, xem xét những vấn đề và mối quan hệ qua lại giữa giáo viên và học sinh
cũng như giữa học sinh với học sinh.
Những phân ngành của Tâm lý học sư phạm: Tâm lý học dạy học, Tâm
lý học giáo dục và Tâm lý học về người giáo viên.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ những gợi mở về đối tượng nghiên cứu thì Tâm lý học lứa tuổi và
Tâm lý học sư phạm có nhiệm vụ nghiên cứu như sau:


- Rút ra những quy luật chung của sự phát triển nhân cách theo lứa

tuổi, những nhân tố chỉ đạo sự phát triển nhân cách theo lứa tuổi;
- Rút ra những quy luật lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo trong quá trình
giáo dục và dạy học, những biến đổi tâm lý của học sinh do ảnh hưởng của
giáo dục và dạy học… từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để tổ chức
hợp lý quá trình sư phạm, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động giáo
dục và dạy học.
c. Ý nghĩa nghiên cứu:
Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn lớn lao.
- Về mặt lý luận, các nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học
sư phạm sử dụng các tài liệu của một số khoa học khác, nhưng đến lượt
mình nó lại cung cấp tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho các khoa học khác.
- Về mặt thực tiễn có thể khẳng định sự hiểu biết về Tâm lý học lứa tuổi
và Tâm lý học sư phạm là điều kiện cần thiết để tổ chức có hiệu quả và đúng
đắn quá trình học tập và giáo dục.
Câu hỏi:
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có mối liên hệ gì với nhau?
Trả lời:
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau và chúng quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác, đặc biệt
là Tâm lý học đại cương, giáo dục học, phương pháp giảng dạy bộ môn…
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là những chuyên ngành
của Tâm lý học, đều dựa trên cơ sở Tâm lý học đại cương. Tâm lý học lứa
tuổi và Tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, vì
chúng có chung khách thể nghiên cứu.
- Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm đều nghiên cứu trẻ em
trong quá trình dạy học và giáo dục.


- Sự phân chia ranh giới giữa hai ngành Tâm lý học này chỉ có tính chất

tương đối. Những thành tựu của Tâm lý học lứa tuổi sẽ là những cơ sở quan
trọng để Tâm lý học sư phạm vận dụng nhằm định hướng những cơ sở tâm
trong việc điều khiển họat động sư phạm. Ngược lại, Tâm lý học sư phạm sẽ
làm cho những kiến thức của Tâm lý học lứa tuổi sẽ cụ thể hơn khi xem xét
nó trong hoạt động dạy học và giáo dục theo từng độ tuổi.
Câu hỏi:
Dưới góc độ Tâm lý học lứa tuổi, hãy cho biết trẻ em là gì. Trình bày sự
hiểu biết về khái niệm trẻ em trong Tâm lý học lứa tuổi?
Trả lời:
Dựa trên những quan điểm triết học rất khác nhau, người ta đã hiểu về
trẻ em rất khác nhau:
- Có quan niệm cho rằng trẻ em là “người lớn thu nhỏ lại”, sự khác
nhau giữa trẻ em và người lớn khác nhau về mọi mặt (cơ thể, tư tưởng, tình
cảm...) chỉ ở tầm cở, kích thước chứ không khác nhau về chất.
- Theo J.J. Rútxô (1712 - 1778) : Trẻ em không phải là người lớn thu
nhỏ lại và người lớn cũng không phải lúc nào cũng có thể hiểu được trí
tuệ,nguyện vọng và tình cảm độc đáo của trẻ thơ…vì “Trẻ em có những cách
nhìn, cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó”.
- Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định: Trẻ em không phải người
lớn thu nhỏ lại. Sự khác nhau giữa trẻ em và người lớn là sự khác nhau về
chất. Trẻ em là trẻ em, nó vận động, phát triển theo quy luật của trẻ em. Ngay
từ khi cất tiếng khóc chào đời, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên
của xã hội, có nhu cầu giao tiếp với người lớn. Việc nuôi nấng, dạy dỗ trẻ phải
theo kiểu người. Mỗi thời đại khác nhau có trẻ em riêng của mình.
Tóm lại: Trẻ em là trẻ em mà không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ
em là những thực thể đang phát triển. Giới hạn của khái niệm trẻ em là từ lúc
mới sinh ra cho đến trước tuổi trưởng thành (trước 18 tuổi). Không nên lấy
chuẩn người lớn để so sánh với trẻ em mà lấy trẻ em làm chuẩn so với chính



nó trên bình diện rộng. Trẻ em là con đẻ của thời đại và thể hiện “sự thu gọn”
sự phát triển lịch sử từ trước đến nay.
Câu hỏi:
Phân tích ngắn các quan niệm sai lầm về sự phát triển tâm lý trẻ em?
Trả lời:
- Quan điểm duy tâm coi sự phát triển tâm lý trẻ em chỉ là sự tăng lên
hoặc giảm đi về số lượng của các hiện tượng đang được phát triển, mà không
có sự chuyển biến về chất lượng.
- Quan điểm này xem sự phát triển của mỗi hiện tượng như là một quá
trình diễn ra một cách tự phát mà người ta không thể điều khiển được, không
thể nghiên cứu được, không nhận thức được.
- Quan điểm sai lầm này được biểu hiện ở các thuyết sau:
1. Thuyết tiền định:
+ Thuyết này coi sự phát triển tâm lý là do các tiềm năng sinh vật gây
ra, con người có tiềm năng này từ khi mới sinh ra và sự phát triển chỉ là sự
trưởng thành, chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được
quyết định trước bằng con đường di truyền này.
+ Các nhà Tâm lý học tư sản cho rằng: những thuộc tính của nhân
cách, năng lực cũng đã được mã hóa, chương trình hóa trong các trang bị
gen.
+ Tuy nhiên, có những người theo thuyết này có đề cập đến yếu tố môi
trường. Nhưng theo họ, mmôi trường chỉ là “yếu tố điều chỉnh“, “yếu tố thể
hiện“ một nhân tố bất niến nào đó ở trẻ.
Nhà Tâm lý học Mỹ E. Tóocđai cho rằng: “Tự nhiên ban cho mỗi người
một vốn nhất nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải
sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất“ và “vốn tự nhiên“ đó đặt ra giới hạn
cho sự phát triển, cho nên một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả


nào đó “dù giảng dạy tốt”, số khác lại tỏ ra lại có thành tích “dù giảng dạy

tồi”...)
+ Từ quan điểm này làm cho con người mất lòng tin vào giáo dục, vào
sự tu dưỡng và cải tạo bản thân, họ cho rằng vai trò của giáo dục là thứ yếu,
trẻ tốt hay xấu, học giỏi hay kém không phải do giáo dục mà do gien tốt hay
xấu. Từ đó, họ đi đến kết luận: Trẻ em khó bảo, năng lực trí tuệ kém phát
triển là do bẩm sinh chứ không phải do giáo dục,do môi trường.
Như vậy, vai trò của giáo dục đã bị hạ thấp. Giáo dục chỉ là yếu tố bên
ngoài có khả năng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ những phẩm
chất tự nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Và họ đã rút ra kết luận sai sư
phạm lầm: mọi sự can thiệp vào quá trình phát triển tự nhiên của trẻ đều là sự
tùy tiện, không thể tha thứ.
2. Thuyết duy cảm:
Đối lập với thuyết tiền định, thuyết duy cảm giải thích sự phát triển của
trẻ chỉ bằng những tác động của môi trường xung quanh. Theo các tác giả
thuộc trường phái này thì:
+ Môi trường là nhân tố quyết định sự phát triển của trẻ em. Vì thế, họ
cho rằng, muốn nghiên cứu con người chỉ cần nghiên cứu, phân tích môi
trường mà con người sống.
+ Quan điểm này cho rằng: môi trường xã hội là cái bất biến, quyết định
trước sự phát triển tâm lý cá nhân, còn con người được xem như là đối tượng
thụ động trước ảnh hưởng của môi trường.
+ Mọi người sinh ra đều có sẵn những đặc điểm bẩm sinh như nhau để
phát triển trí tuệ và đạo đức. Sự khác nhau giữa các cá nhân về điểm này hay
khác là do ảnh hưởng của môi trường, ảnh hưởng của những tác động khác
nhau.
Với quan niệm như vậy, chúng ta không thể giải thích được vì sao trong
một môi trường sống như nhau lại có những nhân cách khác nhau.


3. Thuyết hội tụ hai yếu tố:

Những người theo quan điểm này cho rằng: Sự tác động qua lại giữa
hai yếu tố di truyền và môi trường quyết định trực tiếp quá trình phát triển,
trong đó di truyền giữ vai trò quyết định và môi trường là điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn thành hiện thực.
Theo họ, sự phát triển là sự chín muồi của những năng lực, những nét
tính cách, những hứng thú… mà trẻ sinh ra đã có. Những nét và những đặc
điểm tính cách do cha mẹ truyền lại cho trẻ dưới dạng có sẵn, bất biến…
Một số người theo thuyết này có đề cập đến vai trò của môi trường đối
với tốc độ chín muồi của năng lực và nét tính cách được truyền lại cho trẻ em.
Nhưng theo họ, môi trường không phải là toàn bộ những điều kiện và hoàn
cảnh mà trẻ em sống mà chỉ là gia đình của trẻ…
* Nhận định các thuyết trên:
Mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên bề
ngoài có vẻ khác nhau, nhưng thực chất đều có những sai lầm giống nhau:
+ Họ đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người là bất biến hoặc
tiền định hoặc do tiềm năng sinh vật di truyền hoặc ảnh hưởng của môi
trường bất biến. Những quan điểm này nhầm phục vụ cho giai cấp bốc lột.
(Có nghĩa là sự bất bình đẳng trong xã hội là tất nhiên, là hợp lý).
+ Họ đánh giá không đúng vai trò của giáo dục, từ đó thiếu biện pháp
giáo dục, bi quan trước sản phẩm xấu của giáo dục. Họ xem xét sự phát triển
của trẻ một cách tách rời và không phụ thuộc và những điều kiện cụ thể mà
trong đó quá trình phát triển của trẻ diễn ra.
+ Họ đều cho rằng trẻ em là đối tượng thụ động, cam chịu ảnh hưởng
có tính chất quyết định của yếu tố sinh vật hoặc môi trường… Họ phủ nhận
tính tích cực riêng của cá nhân, coi thường những mâu thuẫn biện chứng
được hình thành trong quá trình phát triển tâm lý của cá nhân, mà không thấy
được con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể có ý thức
sáng tạo nên hoàn cảnh.



Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết tiền định. Đưa ra những nhận xét
cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý.
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết tiền định:
- Quan điểm của thuyết này cho rằng di truyền, những đặc điểm bẩm
sinh hay chính gen là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển tâm
lý trẻ em. Sự phát triển tâm lý do các tiềm năng sinh vật gây ra và con người
có tiềm năng đó ngay từ khi ra đời.
- Sự phát triển chỉ là một quá trình trưởng thành, chín muồi của những
thuộc tính có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước bằng con đường di
truyền này cụ thể đó là sự mã hóa, chương trình hóa được trang bị trong gen.
- Cũng theo luận điểm rằng di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển
tâm lý. Sự phát triển tâm lý các khả năng của con người là cái có sẵn. Quan
điểm này cho thấy di truyền là yếu tố quyết định sự phát triển tâm lý còn môi
trường là yếu tố điều chỉnh, biểu hiện của tính di truyền mà thôi. Chính di
truyền mà không phải yếu tố khác sẽ quy định mức tối đa của sự phát triển đường hướng và mức độ của nó.
- Bẩm sinh di truyền là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển tâm lý
cá thể mang vai trò quyết định nhưng môi trường là yếu tố điều chỉnh, biểu
hiện của tính di truyền.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển
tâm lý
- Trên bình diện văn hóa cũng khó có thể chối cãi hay loại bỏ vai trò
của di truyền tuy nhiên không thể nói rằng di truyền quyết định văn hóa. Bản
thân văn hóa luôn luôn phát triển biến động thì di truyền đến một lúc nào đó
sẽ rất có thể theo kịp sự phát triển này. Hơn nữa, vì tính chất di truyền nên
các cá thể đã khác nhau từ lúc đầu (khi con người được sinh ra) và liên tục vì


văn hóa khác nhau con người lại liên tục khác nhau và vì thế không thể cho

rằng di truyền quy định văn hóa.
- Ở góc độ khác, sẽ dễ dàng nhận thấy di truyền không thể quyết định
sự phát triển của mỗi cá nhân. Sự lĩnh hội và sự tiếp thu hay sự phát triển
đích thực của con người ở nhiều bình diện khác nhau như: tình cảm - ước
mơ - ý chí... không thể do yếu tố gen hay di truyền quyết định. Tất cả những
yếu tố ấy phụ thuộc khá nhiều vào sự lĩnh hội văn hóa xã hội mà nó trực tiếp
phụ thuộc vào “phông” văn hóa - những hành trang văn hóa đích thực mà cá
nhân “sở hữu” như bản lĩnh của chính mình trong cuộc sống.
Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết duy cảm. Đưa ra những nhận xét
cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết duy cảm:
- Môi trường văn hóa xã hội là nhân tố quyết định sự phát triển trẻ em.
Những tác giả theo thuyết này cho rằng giữa môi trường và sự phát triển của
con người có một mối liên hệ đặc biệt mà cụ thể rằng nó chính là yếu tố quy
định tâm lý và sự phát triển của con người diễn ra một cách tương ứng.
- Nhân tố xã hội là nguồn gốc của sự phát triển tâm lý do đó để nghiên
cứu tâm lý con người thì chỉ cần phân tích cấu trúc của môi trường. Môi
trường như thế nào thì tâm lý của con người như thế ấy. Cơ chế hành vi của
con người và những con đường phát triển của nó được ban cho một lần trong
môi trường và vẫn mãi mãi như thế. Nếu trẻ em sinh ra là tờ giấy trắng thì
ảnh hưởng của hoàn cảnh, điều kiện, môi trường, xã hội mà những phẩm
chất - thuộc tính được vẽ lên đó.
- Mọi sự thành công hay thất bại của trẻ đều là do môi trường hay đều
được giải thích bởi môi trường bên ngoài. Muốn nghiên cứu con người chỉ
cần phân tích cấu trúc môi trường của họ như thế nào thì con đường phát
triển hành vi, nhân cách và tâm lý... sẽ như thế.



Nhờ vào tác động của môi trường sự phát triển mới hiện hữu. Ngay cả
những thuộc tính của đặc điểm tự nhiên cũng không phải tự nhiên có mà là
sự tác động qua lại giữa các cá nhân trong xã hội và thế giới tự nhiên là sản
phẩm thực sự của xã hội.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển
tâm lý
- Môi trường là nơi để văn hóa thực thi những chức năng khá đặc biệt
của mình nhưng không thể quá đề cao vai trò của môi trường vì thực tiễn cho
thấy trong cùng những điều kiện, hoàn cảnh xã hội như nhau lại hình thành
những nhân cách hoàn toàn khác nhau, trái ngược nhau và trái lại trong
những điều kiện - môi trường xã hội khác nhau lại hình thành những nhân
cách có nhiều nét tương đồng nhau.
Sự phát triển được hình thành nhờ vào sự tương tác tích cực với môi
trường. Thế nhưng sự phát triển thì không hẳn là sự tích lũy hay sự lĩnh hội
một cách thụ động những tác động của môi trường với tư cách con người là
“sản phẩm” hay “bản sao” của môi trường.
- Những ảnh hưởng tiêu cực sẽ bị “gạn lọc” hoặc thậm chí là bị gạt bỏ
để hướng đến sự phát triển có định hướng và thích ứng.
Câu hỏi:
Trình bày nội dung cơ bản của thuyết hội tụ hai yếu tố. Đưa ra những
nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển tâm lý.
Trả lời:
Nội dung cơ bản của thuyết hội tụ hai yếu tố:
- Sự tác động qua lại giữa môi trường và di truyền quyết định sự phát
triển tâm lý trẻ em. Trong hai yếu tố trên, di truyền giữ vai trò quyết định còn
môi trường là điều kiện để biến những yếu tố có sẵn của di truyền trở thành
hiện thực.


- Trong sự phát triển tâm lý của trẻ, nhịp độ và giới hạn của sự phát

triển là tiền định còn môi trường sẽ ảnh hưởng đến tốc độ chín muồi của năng
lực và tính cách được truyền lại sẵn.
- Sự phát triển là sự chín muồi những năng lực, tính cách mà trẻ sinh ra
đã có. Những nét và những đặc điểm tính cách được thế hệ trước truyền lại
một cách bất biến trong đó nhịp độ và giới hạn của sự phát triển là tiền định.
- Ảnh hưởng của môi trường đối với tốc độ chín muồi của năng lực và
nét tính cách được truyền lại cho trẻ. Môi trường ở đây không phải là tất cả
các điều kiện và hoàn cảnh xung quanh - xã hội mà chỉ là môi trường gia đình
là chủ yếu. Môi trường này mang tính riêng biệt và gần như tách rời với đời
sống xã hội hay yếu tố này không hề được quan tâm.
Một số nhận xét cơ bản về thuyết này trên phương diện sự phát triển
tâm lý
- Sự tác động của hai yếu tố này được hiểu quá máy móc, dường như
sự tác động qua lại giữa chúng quyết định trực tiếp tới quá trình phát triển là
một điều hết sức gượng ép.
- Yếu tố con người hay yếu tố hoạt động chưa thể hiện gì cả trong khi
phân tích các mối quan hệ tương tác đã nói đối với sự phát triển tâm lý
- Nếu cho rằng gen và di truyền trở thành yếu tố quyết định giới hạn
của sự phát triển thì dù có tác động như thế nào đi nữa thì sự phát triển vẫn
diễn ra theo tiến độ riêng và đạt đến mức độ vốn có của nó. Bên cạnh đó, nếu
như cho rằng môi trường chỉ ảnh hưởng một cách “có chừng mực” đến sự
phát triển vậy thì vô tình đã làm giới hạn sức ảnh hưởng của văn hóa, sức
ảnh hưởng của kinh nghiệm.
Câu hỏi:
Nêu khái niệm về sự phát triển tâm lý trẻ em. Phân tích những đặc
điểm cơ bản trong khái niệm ấy.
Trả lời:


Có thể đề cập đến một số khái niệm sau về sự phát triển tâm lý trẻ em

dưới góc nhìn của Tâm lý học:
- Khái niệm 1: Sự phát triển trẻ em là sự thay đổi có tính quy luật của
các quá trình tâm lý, là sự chuyển động đi lên ở nội dung cuộc sống tâm lý
của đứa trẻ từ hình thức thấp đến cao, là quá trình hình thành nên ý thức của
đứa trẻ.
- Khái niệm 2: Sự phát triển tâm lý đó là sự thể hiện tính tích cực của
đứa trẻ trong việc phân chia các quá trình tâm lý, trong việc hình thành những
hành động định hướng và liên kết tính tích cực này nghĩa là trong việc hợp
nhất các quá trình hành động vào một hoạt động tâm lý thống nhất toàn vẹn.
- Khái niệm 3: Sự phát triển tâm lý đó là một quá trình chuyển đổi liên
tục từ cấp độ này sang cấp độ khác theo quy luật phủ định của phủ định. Quá
trình này gắn liền với sự hình thành và phát triển nhân cách.
- Rõ ràng mỗi khái niệm đều nêu bật lên sự phát triển tâm lý từ một góc
nhìn. Có thể nhận định rằng sự phát triển tâm lý vẫn bao hàm những nội dung
chính như sau:
+ Sự phát triển tâm lý là quá trình chuyển đổi liên tục theo hướng đi lên
+ Sự phát triển tâm lý là sự thay đổi chủ yếu của các quá trình tâm lý ở
cá thể, con người
+ Sự phát triển tâm lý gắn liền với sự hình thành và phát triển nhân
cách - ý thức ở con người
+ Sự phát triển tâm lý phụ thuộc vào bản thân cá nhân đó hay tính chủ
thể của cá nhân
+ Sự phát triển tâm lý không thể tách rời khỏi môi trường bên ngoài nói
khác hơn là môi trường bên ngoài có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát
triển tâm lý của một cá nhân
Như vậy, có thể nhận thấy sự phát triển tâm lý trẻ em ở đây thực chất
chính là quá trình cá thể hóa, chủ thể hóa và là quá trình tạo ra những bản


sắc riêng của mỗi cá nhân. Những yêu cầu cơ bản mà tất cả các khái niệm

đều mong muốn hướng đến hay giải quyết:
+ Tìm ra quy luật đặc thù của mỗi cấp độ phát triển
+ Quy luật chuyển đổi từ cấp độ lứa tuổi này sang lứa tuổi khác
+ Sự thay đổi về nhân cách của trẻ trong từng giai đoạn lịch sử xã hội
cụ thể.
Câu hỏi:
Dạy học và giáo dục có vai trò gì đối với sự phát triển tâm lý của trẻ
em?
Trả lời:
- Trẻ chỉ có thể lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, phát triển tâm lý bản thân
nhờ sự tiếp xúc thường xuyên với người lớn, nhưng sự tiếp xúc này phải
được tổ chức đặc biệt và chặt chẽ (trong quá trình sư phạm).
- Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Giáo
dục và dạy học là con đường đặc biệt để truyền đạt những kinh nghiệm xã hội
cho thế hệ sau. Nói tới vai trò chủ đạo của giáo dục và dạy học, chúng ta
nhấn mạnh đó là quá trình tác động có mục đích, có ý thức, có kế hoạch của
thế hệ trưởng thành đối với thế hệ trẻ đang lớn lên, nhằm hình thành những
phẩm chất nhất định của cá nhân, đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, xã
hội.
- Giáo dục được tổ chức chặt chẽ có khả năng:
+ Vạch ra chiều hướng cho sự phát triển nhân cách và dẫn dắt sự hình
thành, phát triển nhân cách của học sinh theo chiều hướng đó.
+ Giáo dục có thể tạo điều kiện thuận lợi để những tiềm năng sinh vật
của trẻ được bộc lộ, phát triển, biến khả năng của trẻ thành hiện thực.
+ Giáo dục có thể đem lại những cái mà bẩm sinh, di truyền, môi
trường tự nhiên không thể đem lại được (học được tiếng nói của loài
người…)


+ Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do khuyết tật hoặc bệnh tật

mang lại.
+ Giáo dục có thể uốn nắn những nét tâm lý xấu được hình thành do
ảnh hưởng tự phát của môi trường.
+ Giáo dục có thể đi trước hiện thực, giúp trẻ phát triển nhanh hơn thực
tế.
Khi khẳng định vai trò chủ đạo của giáo dục và dạy học đối với sự phát
triển tâm lý của trẻ, chúng ta cần lưu ý rằng tâm lý con người mang tính chủ
thể, con người là chủ thể hoạt động hơn nữacon người là một chủ thể tích
cực có thể tự giáo dục, thay đổi được chính bản thân mình, nhưng nó không
tách khỏi những tác động của môi trường, của giáo dục. Do vậy, những tác
động như nhau, có thể ảnh hưởng khác nhau đến trẻ.
- Mối quan hệ giữa giáo dục, dạy học và phát triển là mối quan hệ biện
chứng. Hai quá trình này không phải là hai quá trình diễn ra song song mà
chúng thống nhất nhau.
- Để phát huy vai trò chủ đạo, giáo dục và dạy học phải kích thích, dẫn
dắt sự phát triển, phải đi trước một bước, phải đón trước sự phát triển, tạo
nên ở trẻ quá trình giải quyết mâu thuẫn liên tục để thúc đẩy sự phát triển.
Tuy nhiên dạy học và giáo dục cũng cần tính đến những đặc điểm lứa
tuổi, những đặc điểm của mức độ đã đạt được ở trẻ và quy luật bên trong của
sự phát triển. Vì vậy khả năng của giáo dục và dạy học là không vô hạn mà
yếu tố quyết định sự quyết định tâm lý của trẻ một cách đúng đắn là sự tự
giáo dục của trẻ trong tất cả các thời kỳ của cuộc đời.
Câu hỏi:
Động lực của sự phát triển tâm lý là gì? Nêu những nội dung cơ bản về
vấn đề này.
Trả lời:


Động lực của sự phát triển tâm lý nằm ngay trong bản thân quá trình
sống, trong những điều kiện cụ thể của mối liên hệ qua lại của con người với

thực tại và đặc biệt là động lực của sự phát triển nằm ngay trong chính hoạt
động của bản thân của đứa trẻ. Sự phát triển tâm lý phải dựa trên sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập giữa các mâu thuẫn hay đó chính là sự giải quyết
mâu thuẫn biện chứng giữa cái mới và cái cũ. Sự giải quyết mâu thuẫn này
được thực hiện bởi chính bản thân chủ thể - đó chính là đứa trẻ mà đặc biệt
là dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của người lớn thông qua các tác động dạy học
và giáo dục.
Ở góc độ chung nhất, khi xét về động lực của sự phát triển tâm lý trẻ
em cần nhìn nhận nhiều nhất về mâu thuẫn nội tại trong lòng của khách thể.
Đó chính là những mâu thuẫn giữa mong muốn của chính bản thân và khả
năng thực thi của bản thân mình. Mặt khác, đó còn là những mâu thuẫn giữa
mong muốn này và mong muốn khác, giữa khả năng này và khả năng khác
hay mâu thuẫn giữa mong muốn, đòi hỏi và sự không cho phép hay sự kiềm
chế của chủ thể. Bên cạnh đó, ngay trong lòng của những diễn tiến tâm lý,
còn thấy sự mâu thuẫn giữa tác động bên ngoài (đó chính là xã hội, người lớn
với những chuẩn mực - yêu cầu - đòi hỏi với chính bản thân khách thể (mà đó
là thái độ, khả năng, hành vi thực... và những yếu tố khác tồn tại trong lòng
khách thể).
Có thể phân chia các mâu thuẫn thành bốn nhóm cơ bản sau:
- Nhóm 1: Mâu thuẫn giữa khả năng cũ của đứa trẻ với những nhu cầu
mới được nảy sinh do hoạt động của cá nhân.
- Nhóm 2: Mâu thuẫn giữa khả năng (tinh thần thể lực) của trẻ đang
phát triển với những hình thức cũ của các mối quan hệ đã được hình thành.
- Nhóm 3: Mâu thuẫn giữa hình thức cũ và hình thức mới của những
mâu thuẫn hay sự đối kháng giữa hình thức cũ và hình thức mới của mâu
thuẫn.


- Nhóm 4: Mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung (chính là mâu thuẫn
giữa những đòi hỏi đang phát triển của xã hội, tập thể và những người trưởng

thành với trình độ ban đầu của sự phát triển tâm lý)
Các mâu thuẫn nảy sinh trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi phụ thuộc
vào sự nỗ lực và tự chủ của mỗi cá nhân mà đặc biệt là đặc điểm về tuổi tác,
đặc điểm tâm lý, sinh lý nên ở mỗi một lứa tuổi, những mâu thuẫn này chứa
đựng rất “sâu sắc” đặc trưng của lứa tuổi.
Việc giải quyết tất cả các mâu thuẫn trên sẽ làm cho trình độ hoạt động
tâm lý ngày càng cao và kết quả là trẻ em phát triển chuyển sang trình độ
phát triển tâm lý cao hơn. Tuy nhiên, mâu thuẫn được giải quyết không có
nghĩa là bị triệt tiêu hoàn toàn vì nhu cầu luôn luôn được nâng cao và mâu
thuẫn tiếp tục được nảy sinh. Các mâu thuẫn mới lại tiếp tục thay thế các mâu
thuẫn cũ và tiếp tục được giải quyết và sự phát triển sẽ diễn ra tiếp tục hay
động lực phát triển tâm lý là tồn tại thực.
Câu hỏi:
Trình bày quy luật về tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý trẻ
em - tâm lý lứa tuổi:
Trả lời:
Quy luật này thể hiện ở đặc điểm là các chức năng tâm lý, biểu hiện
tâm lý không thể phát triển ở mức độ như nhau dù trong những điều kiện
giống nhau. Trong sự phát triển tâm lý lứa tuổi có những thời kỳ tối ưu đối với
sự phát triển một hình thức hay một hoạt động tâm lý nào đó. Bên cạnh đó,
trong những điều kiện bất kỳ hoặc thuận lợi nhất của việc giảng dạy và giáo
dục thì các thuộc tính biểu hiện tâm lý của một cá nhân cũng không phát triển
như nhau.
Có thể phân tích quy luật này ở các khía cạnh sau:
* Sự phát triển tâm lý của cá nhân xét trong tiến trình phát triển của mỗi
cá thể:


- Thứ nhất, sự phát triển tâm lý của trẻ ở các mặt riêng biệt như: trí tuệ,
ý thức, đạo đức, quan hệ xã hội, ngôn ngữ giao tiếp không thể diễn ra đồng

đều do sự tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau như: giáo dục, di
truyền...
- Thứ hai, trong sự phát triển tâm lý của trẻ có những giai đoạn sự phát
triển được thực hiện với một tốc độ rất nhanh chóng và có giai đoạn phát triển
rất chậm chạp. Trong tiến trình phát triển, có thể thấy có những giai đoạn phát
cảm (mà ở đó con người có những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển theo
một xu hướng nào đó mà một trong số những điều kiện đó có tính chất tạm
thời.
* Sự phát triển tâm lý cá nhân xét trong quan hệ giữa trẻ này với trẻ
khác:
- Dù rằng sự phát triển tâm lý của mỗi trẻ em đều trải qua những giai
đoạn phát triển giống nhau theo từng bậc trong một trình tự định sẵn nhưng
cách thức phát triển với tốc độ nhịp độ, khuynh hướng riêng là khác nhau. Có
những giai đoạn, ở một số trẻ sự phát triển xuất hiện sớm hoặc chậm hơn so
với trẻ khác.
- Tốc độ, nhịp độ của sự phát triển ở mỗi trẻ là không thể giống nhau
thể hiện ở sự phát triển về thể chất, tinh thần mà cụ thể là nhịp độ phát triển
các quá trình, phẩm chất tâm lý, sự hiểu biết và nắm rõ từng dạng hoạt động
riêng biệt.
- Sự không đồng đều này còn thể hiện ở những khác biệt về tính cách,
hứng thú, đam mê... làm cho mỗi đứa trẻ không có sự phát triển tương đồng
cũng như có những khuynh hướng phát triển khác nhau, tạo ra cái riêng rất
đặc trưng và không lặp lại.
Câu hỏi:
Trình bày quy luật về về tính toàn vẹn trong sự phát triển tâm lý trẻ em tâm lý lứa tuổi:
Trả lời:


Quy luật về về tính toàn vẹn trong sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý
lứa tuổi:

- Tâm lý người có tính trọn vẹn, thống nhất và bền vững. Sự phát triển
tâm lý là sự chuyển biến dần các trạng thái tâm lý dẫn đến sự thay đổi các
đặc điểm tâm lý cá nhân nên sự phát triển tâm lý luôn mang tính trọn vẹn. .
- Các đặc điểm tâm lý của cá nhân mà đặc biệt là mối quan hệ giữa tính
cách - xu hướng... luôn có liên quan chặt chẽ với nhau. Và ngay cả các đặc
điểm về thể chất - tinh thần lại liên quan với nhau cho nên sự thay đổi nếu có
luôn là sự thay đổi mang tính chất hai mặt (tác động, chi phối - kéo theo) làm
cho tâm lý cá nhân được biến đổi toàn vẹn.
- Tính trọn vẹn của tâm lý phụ thuộc khá nhiều vào động cơ chỉ đạo của
hành vi và khi động cơ thực sự được ý thức thì sự phát triển tâm lý luôn bị chi
phối nên lại thể hiện tính toàn vẹn một lần nữa. Cùng với giáo dục, cùng với
sự mở rộng của kinh nghiệm sống, những động cơ hành vi của trẻ sẽ trở nên
có sức mạnh đặc biệt chỉ đạo những hành vi và sự ứng xử của trẻ trong cuộc
sống. Thông qua đó, những diễn tiến tâm lý của trẻ sẽ thống nhất và mang
tính toàn vẹn hơn dưới sự chỉ đạo hay chi phối của một hệ thống động cơ
hành vi nhất định.
Câu hỏi:
Trình bày quy luật về tính mềm dẻo và khả năng bù trừ trong sự phát
triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi:
Trả lời:
Quy luật về tính mềm dẻo và khả năng bù trừ trong sự phát triển tâm lý
trẻ em - tâm lý lứa tuổi:
- Xu hướng bù trừ trong tâm lý là quy luật tâm lý cơ bản trong quá trình
phát triển. Nó dựa trên cả những quy luật về mặt sinh lý cũng như tâm lý
trong sự phát triển của cá thể.


- Tâm lý của trẻ em có thể thay đổi khi có các tác động thích hợp do hệ
thần kinh của trẻ vốn mềm dẻo. Chính tính mềm dẻo của hệ thần kinh cho
phép sự phát triển tâm lý diễn ra dưới những tác động phù hợp và đúng “điểm

rơi”. Dựa trên tính mềm dẻo của hệ thần kinh mà tác động của giáo dục có
thể làm thay đổi tâm lý trẻ em. .
- Một chức năng tâm lý hoặc sinh lý nào đó yếu hoặc thiếu thì các chức
năng tâm lý khác được bù trừ bằng cách tăng cường hoặc phát triển mạnh
hơn. Điều này thể hiện rất rõ đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em bình
thường và càng thể hiện rõ hơn nữa với trẻ em đặc biệt.
- Chính sự mềm dẻo cũng đã tạo ra khả năng bù trừ. Xét trên phương
diện chức năng, chức năng trội ở một bộ phận nào đó sẽ góp phần khắc phục
những chức năng bị hạn chế. Xét trên bình diện cá nhân, khi cá nhân ý thức
được sự thiếu hụt, yếu kém của mình thì chính sự tự ý thức sẽ thôi thúc con
người hoạt động một cách tích cực để khắc phục, bù trừ những khiếm khuyết
khuyết đó.
Câu hỏi:
Trình bày vai trò của tiền đề sinh vật hay yếu tố bẩm sinh di truyền đối
với sự phát triển tâm lý trẻ em – tâm lý lứa tuổi:
Trả lời:
Có thể phân tích về vai trò của tiền đề sinh vật hay yếu tố bẩm sinh di
truyền đối với sự phát triển tâm lý trẻ em – tâm lý lứa tuổi như sau:
- Trước hết, bẩm sinh là những đặc điểm về giải phẩu sinh lý khi khi
sinh ra đứa trẻ đã có. Còn di truyền là những đặc điểm mà thế hệ trước
truyền lại cho thế hệ sau. Có những đặc điểm khi sinh ra đứa trẻ có được
nhưng cha mẹ không hề có đó là những đặc điểm thuộc về bẩm sinh, còn
những đặc điểm sinh lý ở trẻ giống như cha mẹ thì được gọi là đặc điểm di
truyền.
- Đứa trẻ khi ra đời đã được trang bị những đặc điểm, tiền đề của con
người để phát triển tâm lý. Đó là hệ thần kinh não - giác quan - thể chất của


con người; nhu cầu sinh vật của con người; đó là tư chất của con người. Các
đặc điểm di truyền này sẽ ảnh hưởng đến trình độ và đỉnh cao của thành tựu

ở con người.
- Quá trình chín muồi về mặt cơ thể, về mặt sinh lý là tiền đề quan
trọng, là điều kiện cần cho sự phát triển tâm lý và đây là điều kiện khá quan
trọng trong sự phát triển tâm lý trẻ em.
- Những đặc điểm bẩm sinh của đứa trẻ có được từ trong giai đoạn bào
thai đến lúc sinh ra sẽ để lại trên cấu tạo của cơ thể sẽ ảnh hưởng rất rõ đối
với sự phát triển tâm lý trẻ em.
Đơn cử như việc người mẹ mang thai mà lại nghiện thuốc, rượu sẽ ảnh
hưởng trực tiếp trên bào thai và từ đó sẽ để lại những dấu ấn trực tiếp trên
tâm lý trẻ.
Như vậy, các đặc điểm bẩm sinh di truyền là tiền đề là cơ sở quan
trọng để phát triển tâm lý trẻ em. Những đặc điểm tự nhiên quy định những
con đường và phương thức khác nhau của các thuộc tính tâm lý. Bẩm sinh di
truyền ảnh hưởng đến trình độ và đỉnh cao phát triển ở con người, trẻ em
Câu hỏi:
Trình bày vai trò của giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa
tuổi:
Trả lời:
Có thể phân tích về vai trò của giáo dục và sự phát triển tâm lý trẻ em tâm lý lứa tuổi như sau:
- Giáo dục được hiểu là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm
truyền lại cho thế hệ mới những kinh nghiệm mà thế hệ trước đó đã tích lũy
được, hình thành nhân cách của con người theio những yêu cầu của xã hội,
chuẩn bị cho họ có kiến thức, tâm thế tham gia vào cuộc sống xã hội sau này.


- A.N. Leonchiev khẳng định: Sự phát triển lịch sử xã hội loài người
không thể thiếu sự truyền thụ tích cực cho thế hệ trẻ những thành tựu văn
hóa của loài người, không thể thiếu sự giáo dục.
- Được thụ hưởng sự giáo dục của người lớn từ rất sớm đứa trẻ được
chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển về thể lực và một số quá trình tâm lý.

- Nhờ vào sự tác động giáo dục của người lớn, đứa trẻ sẽ được phát
triển các giác quan, các quá trình nhận thức - ngôn ngữ, cảm xúc... trong khi
tham gia các hoạt động, các mối quan hệ dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và tổ
chức của người lớn.
- Sự giáo dục của người lớn giúp trẻ sẽ lĩnh hội những kinh nghiệm lịch
sử xã hội. Sự tác động này nâng đứa trẻ lên theo từng trình độ phát triển và
dần dần người lớn chỉ đóng vai trò kích thích, tổ chức mà trẻ tự hoàn thành,
thực hiện hoạt động để phát triển tâm lý chính mình.
- Giáo dục còn có thể giúp trẻ rèn luyện làm thay đổi một số điều kiện
sinh học, hoạt động thần kinh cấp cao bù đắp một số thiếu hụt về chức năng
làm cho quá trình phát triển của trẻ mang tính phù hợp, thích ứng. Giáo dục
cũng có thể tác động qua lại mật thiết với những ảnh hưởng của môi trường
theo hướng thúc đẩy hoặc kiềm chế chung để tạo ra những điều kiện tương
đối nhất để trẻ phát triển tâm lý.
- Giáo dục có thể định hướng phát triển tâm lý trẻ em góp phần hình
thành những phẩm chất tâm lý cần thiết và điều chỉnh những nét tâm lý đã
hình thành trước đây. Giáo dục có thể thôi thúc, tạo điều kiện để con người,
trẻ em vươn đến đỉnh cao của sự phát triển dựa trên các điều kiện của tư
chất, năng khiếu...
Đối với trẻ em trước tuổi học (vườn trẻ, mẫu giáo), giáo dục gia đình có
ảnh hưởng đặc biệt đến sự hình thành xu hướng và tính cách của trẻ. Những
phẩm chất đạo đức của nhân cách trẻ được hình thành thông qua giao tiếp
giữa những người thân cùng huyết thống hoặc người nuôi dưỡng với nội
dung hướng vào việc giáo dục trẻ nói lời hay (lễ phép), làm việc tốt (chăm


chỉ), ứng xử đẹp (hiếu thảo) và hình thành ở trẻ những thói quen tốt trong
sinh hoạt gia đình (gọn gàng, ngăn nắp, giờ nào việc nấy,…). Sự ảnh hưởng
giáo dục này vừa mang tính chất trực tiếp, vừa để lại những ấn tượng sâu
sắc và khó phai đến suy nghĩ, hành vi của trẻ.

Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc Trung học, con đường giáo dục
nhà trường sẽ kém hiệu quả nếu chỉ giới hạn trong giờ dạy các môn học ngay
cả môn Đạo đức (Giáo dục công dân) trên lớp. Ở lứa tuổi thiếu niên trẻ có
nhu cầu giao tiếp mạnh mẽ, có khát vọng chiếm được uy tín và sự thừa nhận
của bạn bè, muốn tìm cho mình “chỗ đứng” trong tập thể bạn cùng học. Đối
với tuổi đầu thanh niên, sự khẳng định trỗi dậy như một nét tâm lý đặc trưng
đòi hỏi tác động giáo dục phải thực sự tinh tế và khéo léo.
Câu hỏi:
Trình bày vai trò hoạt động của trẻ và tính tích cực của trẻ em đối với
sự phát triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi
Trả lời:
Vai trò hoạt động của trẻ và tính tích cực của trẻ em đối với sự phát
triển tâm lý trẻ em - tâm lý lứa tuổi:
Trước hết, cần xác lập rõ ràng khái niệm về hoạt động và tính tích cực
của trẻ em.
Hoạt động của trẻ em là sự tác động qua lại tích cực của đứa trẻ với
thế giơí bên ngoài. Trong quá trình tác động này diễn ra sự hình thành tâm lý
về phương diện phát sinh cá thể của đứa trẻ.
Hiểu theo nghĩa cụ thể thì hoạt động ảnh hưởng đến sự phát triển tâm
lý là hoạt động đích thực do chính đứa trẻ hay chính chủ thể thực hiện và tích
lũy được những giá trị tạo nên sự “lớn lên” đúng nghĩa về mặt tâm lý hay tinh
thần. Hoạt động này được thực hiện dựa trên sự sẵn sàng, hứng thú, nhu cầu
... của chính đối tượng thực hiện trong sự nỗ lực đích thực về mặt tinh thần.
Có thể hiểu khái niệm tính tích cực như sau:


+ Tính tích cực là thái độ cải tạo, biến đổi của chủ thể đối với thế giới
xung quanh, là phẩm chất quan trọng của nhân cách.
+ Tính tích cực gắn liền với hoạt động, mang tính chủ động của chủ
thể, đối lập với bị động.

+ Động cơ, nhu cầu, hứng thú hoạt động chính là nguồn gốc bên trong
của tính tích cực, là động lực thúc đẩy con người hoạt động.
+ Tính tích cực là sự cố gắng, nỗ lực, vượt khó của chủ thể để đạt
được mục đích đã đề ra.
- Trước hết, có thể khẳng định rằng hoạt động cá nhân là nhân tố quyết
định trực tiếp đối với sự phát triển tâm lý của trẻ em.
- Có những điều kiện tốt những cá nhân không hoạt động hoặc không
hoạt động tích cực thì tâm lý cũng không phát triển.
- Hoạt động cá nhân đóng vai trò là chủ thể, là bộ lọc cho sự phát triển
tâm lý cá nhân.
- Ở bất kỳ giai đoạn lứa tuổi nào thì hoạt động cá nhân đều đóng vai trò
trực tiếp đối với sự phát triển tâm lý dù rằng mức độ ảnh hưởng - quyết định
có thể khác nhau.
- Hoạt động của đứa trẻ rất phong phú, đa dạng trong đó có những hoạt
động đóng vai trò là hoạt động chủ đạo sẽ ảnh hưởng rất rõ đối với sự phát
triển tâm lý của trẻ bên cạnh các hoạt động khác của lứa tuổi trong từng thời
kỳ, giai đoạn lứa tuổi.
- Hoạt động của cá nhân đòi hỏi cá nhân phải luôn tích cực. Ngay từ
nhỏ, đứa trẻ phải tích cực trước sự thay đổi của hoàn cảnh, của kích thích...
để thích ứng và phát triển tâm lý.
- Tính tích cực của trẻ còn thể hiện thông qua sự phát triển của hành
động. Trong quá trình hành động cá nhân - các động tác bản năng, không chủ
định dần dần chuyển sang những hành động có chủ định. Chính những hành
động có chủ định này tạo thành một hệ thống định hướng vào mục đích nhất


×