Câu 1:
Đồng chí hãy phân tích những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XII)
Trả lời:
Sau khi được học tập, quán triệt Nghị quyết TW4 (Khóa XII), bản thân tôi
đã nhận thức được những vấn đề cơ bản sau:
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (Khóa XII) đã ban hành 3
nghị quyết và 01 kết luận, đó là:
- Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
- Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 về một số chủ trương, chính
sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
- Nghị quyết số 06/NQ-TW ngày 05/11/2016 của BCH Trung ương về thực
hiện có hiệu quả tiến trình hội nhậpquốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội
trong bối cảnh nước ta tham giacác hiệp định thương mại tư do thế hệ mới.
- Kết luận số 09-KL/TW, ngày 19/10/2016 Hội nghị Trung ương lần thứ tư
(khóa XII) về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2016; kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước năm 2017
a. Đối với nội dung cơ bản của Nghị quyết số 04:
Đây là nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng, được cụ thể hóa
từ nhiệm vụ thứ Nhất trong sáu nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII
xác định.
Trong các văn kiện, Đảng ta đã nhiều lần cảnh báo sự suy thoái về tư tưởng
chính trị. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay đã chỉ rõ ba vấn đề cấp bách, trong đó vấn đề cấp bách thứ
nhất là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, việc kiểm
điểm theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 4 chưa chỉ ra được bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị là ai, ở đâu. Đến Đại hội XII, Đảng ta tiếp
tục nhận định tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị diễn biến phức tạp, nhưng
vẫn chưa chỉ rõ biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là gì.
Điểm mới của Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) là đã chỉ ra cụ thể chín
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Có thể nêu một số biểu hiện như: Phai
nhạt lý tưởng cách mạng; nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận
và học tập lý luận chính trị; không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; khi có khuyết điểm
thì giấu giếm, thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể
nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh;
lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê
phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng. Nói và viết không đúng
với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói
không đi đôi với làm. Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ. Tham vọng chức quyền, không
1
chấp hành sự phân công của tổ chức. Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung
giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm
người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện...
Cùng với việc chỉ ra chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, Nghị quyết
cũng chỉ ra chín biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chín biểu hiện của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị T.Ư 4 khóa XII, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Cái mới của lần này là Trung ương thẳng thắn
chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị
và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong đó nguy hiểm nhất là
sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của
Đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu
tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức
hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách nhiệm vụ được giao;
không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực
dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lợi; bè phái cục bộ, mất
đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân...
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường,
có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý
tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Xác định rõ mục tiêu là nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng
những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có
hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, Nghị quyết chỉ ra ba quan điểm:
Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa
"xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; "chống" là nhiệm
vụ quan trọng, cấp bách.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát
huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của
nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ
chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các
giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy
các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của
Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.
Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, các tổ chức đảng, cấp ủy cần tập trung chỉ
đạo thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết. Liên quan
đến ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, cần thực hiện thật
tốt các giải pháp sau:
2
Một là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong các tổ chức
đảng và đảng viên về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học
tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc
hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến
thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực
hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị.
Hai là, tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đẩy mạnh
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất là những mô hình mới, kinh
nghiệm hay; khuyến khích phát triển tư duy lý luận phù hợp với đường lối đổi mới
của Đảng. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị
gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy
và học. Chủ động nắm bắt diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên để có chủ
trương, giải pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang,
né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý
kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu
hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Hoàn thiện quy chế đánh giá cán
bộ một cách khoa học, phù hợp; quy định lấy phiếu tín nhiệm ở các cấp, các ngành
định kỳ hoặc đột xuất.
Bốn là, chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình
hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan
điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ
hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Năm là, hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên;
xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân
chủ", "nhân quyền", tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói,
viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái. Tổ chức diễn đàn trao đổi, đối thoại những
vấn đề còn có nhận thức, quan điểm khác nhau liên quan đến đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Sáu là, hoàn thiện quy định về tổ chức, bộ máy và công tác bảo vệ chính trị
nội bộ; bảo đảm sự trong sạch về chính trị trong nội bộ, trước hết là cán bộ lãnh
đạo cấp chiến lược. Chú trọng nắm tình hình và giải quyết tốt vấn đề chính trị hiện
nay; chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống
đối, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. Rà soát, hoàn thiện quy định về quản lý cán
bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, lao động và công tác ở nước ngoài.
Bảy là, xây dựng quy định xử lý những tập thể, cá nhân suy thoái nghiêm
trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có lời nói và việc làm biểu hiện "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" nghiêm trọng.
Tám là, các cấp ủy, chính quyền phải nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực
hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW về quy chế giám sát và phản biện xã hội
3
của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền.
b. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 05:
Ngày 1-11-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XII, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 05NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Đây là nghị quyết rất quan trọng của Đảng, với hàng loạt mục tiêu lớn
cho nền kinh tế đất nước.
Nghị quyết nêu rõ: Trong thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã được
các cấp, các ngành triển khai thực hiện và đạt được kết quả bước đầu. Kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định; tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức hợp lý. Mô hình tăng trưởng
từng bước chuyển đổi theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; năng suất
lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện. Cơ cấu nền kinh tế
chuyển dịch theo hướng tích cực. Nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ có
bước phát triển. Kết cấu hạ tầng tiếp tục được cải thiện, quan tâm đầu tư... Tuy
nhiên, nhìn chung mô hình tăng trưởng về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm được
đổi mới; tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động,
chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi
mới tổ chức, quản lý sản xuất - kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng chậm lại, chất lượng tăng trưởng thấp.
Phương thức phân bổ nguồn lực xã hội chưa có sự thay đổi rõ rệt; năng suất lao
động và năng suất các nhân tố tổng hợp còn thấp. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng
chưa vững chắc, bội chi ngân sách còn lớn, nợ công tăng nhanh, nợ Chính phủ đã
vượt trần cho phép, áp lực trả nợ lớn...
Từ tình hình đó, về mục tiêu cụ thể trong thời gian tới, nghị quyết khẳng
định: Tiếp tục củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát bình
quân dưới 5%/năm; giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước đến năm 2020
xuống dưới 4% GDP, đến năm 2030 xuống khoảng 3% GDP. Quy mô nợ công
hằng năm giai đoạn 2016-2020 không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá
55% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Đến năm 2030, nợ
công không quá 60% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài
của quốc gia không quá 45% GDP.
Giai đoạn 2016-2020, hằng năm có khoảng 30-35% doanh nghiệp có hoạt
động đổi mới sáng tạo. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hằng năm cao
hơn 5,5%; tốc độ tăng năng suất nội ngành đóng góp hơn 60% vào tăng năng suất
lao động năm 2020. Đến năm 2020, tỷ trọng lao động có chứng chỉ đào tạo tăng
lên khoảng 25%; tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 40%. Năng suất
các nhân tố tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng bình quân giai đoạn 2016-2020
khoảng 30-35%; thu hẹp khoảng cách năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước
ASEAN 4.
4
Về một số chủ trương, chính sách lớn, Nghị quyết số 05-NQ/TW nêu rõ:
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô; tiếp tục thực hiện ba đột phá
chiến lược; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; ưu
tiên phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là khoa học - công nghệ
hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên
phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ
trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các
ngành, lĩnh vực trọng tâm...
c. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 06:
Nghị quyết số 06-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới đã khẳng định mục tiêu tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế,
mở rộng thị trường, nhưng phải bảo đảm phát triển bền vững, người dân, DN trong
nước phải hưởng được lợi ích hội nhập…
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh nhân, DN, đội
ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Nghị quyết số 06-NQ/TW khóa XII về hội nhập
kinh tế cho thấy sự chủ động của nước ta đối với các hiệp định thương mại song
phương (FTA) đã ký kết. Cho dù các đối tác cho thời gian để chuẩn bị hội nhập,
nhưng việc thay đổi tư duy, hành động thích ứng chính là bước đi sống còn của
mỗi DN. Thời cơ lẫn thách thức đan xen nhau, có thể chúng ta đang thua về trình
độ sản xuất, nhưng tương lai khoảng cách này sẽ dần được thu hẹp. Nghị quyết
giúp DN nhìn nhận rõ thời cơ, thách thức trong hội nhập, tìm kiếm cơ hội để phát
triển mạnh hơn, sáng tạo hơn và có sức cạnh tranh hơn. Người tiêu dùng cũng có
thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ chất lượng cao, giá cả cạnh tranh; bảo đảm
tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường. Tuy nhiên, các DN vẫn cần sự hỗ trợ tích cực của
Chính phủ về các chính sách, cơ chế hợp lý, nhất là nguồn vốn vay ưu đãi để tăng
năng lực tài chính, cũng như có thêm cơ hội trang bị trang thiết bị, máy móc hiện
đại..để rút dần khoảng cách về trình độ sản xuất với các nước trong khu vực.
Nghị quyết số 06-NQ/TW khóa XII xác định trong hội nhập kinh tế quốc tế,
phải giữ vững và không ngừng phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Trong thời kỳ
hội nhập kinh tế quốc tế, truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc đóng vai
trò nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, kế
thừa và phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu, truyền thống lịch sử tốt đẹp của
dân tộc, bổ sung vào đó những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước là yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng nền văn hóa hiện nay…
Nghị quyết số 06-NQ/TW khóa XII về hội nhập kinh tế khẳng định tầm nhìn
chiến lược của Đảng. Hội nhập để không đơn lẻ với nền kinh tế toàn cầu, đó là cơ
hội để nền kinh tế nước nhà phát triển, nâng cao thu nhập và đời sống tinh thần cho
người dân. Từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta đã có
gần 10 năm chuẩn bị cho những FTA sâu rộng hơn ở cộng động kinh tế ASEAN,
5
EU và mới đây là Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)... So
với một số quốc gia trong khu vực hội nhập kinh tế của Việt Nam tích cực hơn
trong suốt thời gian dài. Đây là thời điểm chúng ta phải nâng cao chất lượng từ các
FTA đã ký kết. Nghị quyết sẽ định hướng tầm nhìn và tạo động lực cho cộng đồng
doanh nghiệp có thêm cơ hội để phát triển và nâng cao thương hiệu của mình trên
thị trường quốc tế.
Câu 2: Với cương vị công tác của mình, đồng chí sẽ làm gì để thực hiện
có hiệu quả các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương IV (khóa XII) đã nêu?
Trả lời:
Với cương vị công tác là …………….. để thực hiện có hiệu quả các giải
pháp mà Nghị quyết TW4 (khóa XII) đã đề ra, bản thân tôi cần phải thực hiện tốt
những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, bản thân phải tập trung làm rõ và nêu cao tinh thần trách nhiệm cá
nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối
sống để từ đó đề ra các hoạt động thực hiện công tác chuyên môn, nhất là các
chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan, ảnh hưởng lớn đến mọi người dân.
Hai là, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành
trên cơ sở tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp. Thực hiện nghiêm túc Quy định
về những điều Đảng viên không được làm. Làm tốt việc kiểm điểm hàng năm để
có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên trong chi bộ nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Ba là, tôn trọng, lắng nghe và giải quyết những tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, cán bộ, chiến sỹ là căn cứ quan trọng để tổ chức xem xét cán bộ.
Bốn là, thực hiện tốt việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
“Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
6