Tải bản đầy đủ (.pdf) (226 trang)

Giáo trình công nghệ vi sinh trong sản xuất nông nghiệp và xử lý ô nhiếm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.74 MB, 226 trang )

1

Chƣơng I

Tình hình chăn nuôi ở Việt Nam thời gian
qua và định hướng phát triển chăn nuôi
đến năm 2010
1.1. Vai trò và vị trí của ngành chăn nuôi trong nền kinh tế quốc
dân
Chăn nuôi là một trong hai lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền nông
nghiệp (chăn nuôi, trồng trọt). Ðặc biệt nông nghiệp lại có ý nghĩa rất
quan trọng đối với nƣớc ta khi có tới hơn 80% dân cƣ sống dựa vào nông
nghiệp. Chăn nuôi đóng vai trò chủ yếu sau:
Chăn nuôi là nguồn cung cấp thực phẩm dinh dƣỡng cao (thịt,
trứng, sữa) cho đời sống con ngƣời.
Khi kinh tế ngày càng phát triển, mức sống của con ngƣời ngày càng
đƣợc nâng lên. Trong điều kiện lao động của nền kinh tế và trình độ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cao đòi hỏi cƣờng độ lao động và lao động trí óc
ngày càng cao thì nhu cầu thực phẩm từ sản phẩm động vật sẽ ngày càng
chiếm tỷ lệ cao trong bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân. Chăn nuôi sẽ đáp
ứng đƣợc yêu cầu đó. Một lợn nái một năm đẻ trung bình 2 lứa, mỗi lứa
10 lợn con cai sữa, nếu đƣa vào nuôi thịt sau 6 tháng sẽ cho ra 2000 kg thịt
lợn. Một con gà mái đàn bố, mẹ trung bình một năm đẻ 250 trứng, ấp nở
ra 170-180 gà con một ngày tuổi, đƣa vào nuôi thịt sau 8 tuần thu đƣợc
370-400 kg thịt gà. Một con bê nuôi thịt sau 10-12 tháng cho 250-300 kg
thịt hơi. Một bò sữa chuyên dụng mỗi năm cho 5000-6000 lít sữa... là
nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho con ngƣời. Các sản phẩm chăn
nuôi đều là các sản phẩm có giá trị dinh dƣỡng cao, hàm lƣợng protein cao
và giá trị sinh vật học của protein cao hơn các thức ăn có nguồn gốc thực
vật vì vậy thực phẩm từ chăn nuôi luôn là các sản phẩm quý trong dinh
dƣỡng con ngƣời.


- Chăn nuôi là nguồn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp.
Các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp tiêu dùng đều sử dụng
nguyên liệu từ chăn nuôi. Thịt, sữa là sản phẩm đầu vào của các quá trình
công nghiệp chế biến thịt, sữa; da, lông là nguyên liệu cho quá trình chế


2

biến, sản xuất da giầy, chăn, đệm, sản phẩm thời trang. Các loại mỹ phẩm,
thuốc chữa bệnh, vaccine phòng nhiều loại bệnh đều có nguồn gốc từ sữa
và trứng, nhung (từ hƣơu). Chăn nuôi cung cấp nguyên liệu cho các nhà
máy chế biến thức ăn cho gia súc...
- Chăn nuôi là nguồn cung cấp sức kéo.
Chăn nuôi cung cấp sức kéo cho canh tác, khai thác lâm sản, đi lại,
vận chuyển hàng hoá trên các vùng núi cao, đặc biệt hiểm trở nhiều dốc.
Ngày nay tuy nhu cầu sức kéo trong cày kéo có giảm đi, nhƣng việc cung
cấp sức kéo cho lĩnh vực khai thác lâm sản tăng lên. Vận chuyển lâm sản
ở vùng sâu, vùng cao nhờ sức kéo của trâu, bò, ngựa thồ, ngựa cƣỡi phục
vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biên giới, du lịch ...
- Chăn nuôi là nguồn cung cấp phân bón cho trồng trọt, thức ăn cho
nuôi trồng thuỷ sản.
Trong sản xuất nông nghiệp hƣớng tới canh tác bền vững không thể
không kể đến vai trò của phân bón hữu cơ nhận đƣợc từ chăn nuôi. Phân
chuồng với tỷ lệ N.P.K cao và cân đối, biết chế biến và sử dụng hợp lý có
ý nghĩa lớn trong cải tạo đất trồng trọt, nâng cao năng suất cây trồng. Mỗi
năm từ một con bò cho 8-10 tấn phân hữu cơ, từ một con trâu 10-12 tấn
(kể cả độn chuồng), trong đó 2-4 tấn phân nguyên chất. Phân trâu, bò, lợn
sau khi sử lý có thể là thức ăn tốt cho cá và các đối tƣợng nuôi thuỷ sản
khác.

Bảng 1.1. Thành phần và số lượng phân nguyên chất của
một số loại vật nuôi
Loại
phân

Trâu

Lợn

Vịt

Nƣớc
(%)

82
73,8
83
16
17

N (%)

P (%)

K (%)

0,313
0,380
0,537
2,461

1,528

0,162
0,284
0,930
1,710
1,030

0,129
0,992
0,984
-

NPK
(%)

1,604
1,622
2,453
-

Sản
Tổng
lƣợng
lƣợng
phân cả NPK (kg)
năm (kg)
(*)
3650
58,54

2190
36,59
700
17,17
-

(*) Trâu, bò chỉ tính lượng phân nhận được trong chuồng; Lợn tính
cho một đời lợn thịt.
- Chăn nuôi là một mắt xích quan trọng trong sản xuất nông nghiệp
bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo.


3

Ðể đạt đƣợc một nền sản xuất nông nghiệp bền vững và góp phần cho
xoá đói giảm nghèo thì chăn nuôi luôn có vị trí quan trọng. Với lợi thế thời
gian cho sản phẩm nhanh: Lợn thịt 6 tháng/ lứa, gà thịt 8 tuần/ lứa, khả
năng sinh sản cao: Lợn nái 10-12 con/ lứa, 2 lứa/ năm; gà trứng cho 280300 quả/ năm; sử dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, chế biến giá trị dinh
dƣỡng thấp để tạo ra những sản phẩn có giá trị dinh dƣỡng cao: thịt, trứng,
sữa ... Vì vậy các đối tƣợng vật nuôi đƣợc xem là đối tƣợng quan tâm phát
triển đáp ứng yêu cầu quay vòng vốn vay xoá đói, giảm nghèo. Chăn nuôi
tận dụng phụ phẩm của trồng trọt, thuỷ sản tạo nên hệ sinh thái nông
nghiệp V.A.C (vƣờn, ao, chuồng) hoặc V.A.C.R (vƣờn, ao, chuồng, rừng)
có hiệu quả kinh tế và bảo vệ đƣợc môi trƣờng sống. Tận dụng nguồn lao
động ở các vùng nông thôn, tham gia vào quá trình sản xuất chăn nuôi, tạo
thêm sản phẩm cho xã hội, tăng nguồn thu và mức sông cho mỗi gia đình.
Với vai trò quan trọng của ngành chăn nuôi và sự quan tâm đúng
mức của Đảng, Nhà nƣớc nên giá trị ngành chăn nuôi và tỷ trọng ngành
chăn nuôi trong nông nghiệp ngày càng tăng (bảng 1.2).
Bảng 1.2. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (tỷ đồng)(*)

Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

Tổng số
10283.2
10294.5
11651.0
12309.1
12999.0
13629.2
14347.2
15465.4
16204.2
17337.0
18505.4
19282.5
21199.7

22944.4

Gia súc
6568.2
6481.8
7344.0
7854.0
8499.2
8848.5
9301.2
9922.6
10467.0
11181.9
11919.7
12298,3
13319.1
14422.2

Gia cầm
1980.1
1988.0
2229.7
2281.2
2304.2
2384.8
2506.5
2690.5
2835.0
3092.2
3295.7

3384.9
3712.8
4091.2

(*) Giá so sánh năm 1994
Trong những năm tới chăn nuôi sẽ đƣợc đẩy mạnh phát triển, nhất
là chăn nuôi lợn có tỷ lệ nạc cao, chăn nuôi bò lấy sữa, lấy thịt, chăn nuôi


4

gia cầm theo hƣớng công nghiệp thịt, trứng, nâng cao năng suất chăn nuôi
và chất lƣợng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm chăn nuôi. Dự kiến, năm
2005 tổng đàn trâu đạt 3,2-3,3 triệu con, đàn bò 4,5-5,2 triệu con, đàn lợn
25-26 triệu con, đàn gia cầm 250-300 triệu con. Sản phẩm thịt hơi 2,58-2,8
triệu tấn, sản lƣợng sữa đạt 120 nghìn tấn, sản lƣợng trứng 5-5,5 tỷ quả.
Phát triển mạnh đàn bò sữa, hiện có 52 ngàn con, dự kiến 2005 có 80100 nghìn con, sản lƣợng sữa tƣơi đạt 120 nghìn tấn. Nâng tỷ lệ tự túc sữa
tƣơi trong nƣớc từ 8-9% hiện nay lên 20% năm 2005. Hiện tại giá nhập
sữa đã giảm từ 1500-1600 USD/ tấn xuống còn 1350 USD/ tấn.
1.2.Tình hình phát triển chăn nuôi thời gian qua
1.2.1. Tình hình chung
Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, trải dài từ vĩ tuyến 805” đến
0
23 5” với diện tích tự nhiên gần 331.000 km2, dân số gần 82 triệu ngƣời,
đƣợc chia thành 7 vùng sinh thái, mỗi vùng có những đặc điểm riêng gắn
với cơ cấu vật nuôi, cây trồng rất khác nhau và đa dạng. Tỷ lệ diện tích và
dân số phân bổ theo các vùng sinh thái (bảng 1.3)
Bảng 1.3. Diện tích và dân số theo các vùng sinh thái
Cả nƣớc
1. Miền núi trung du phía Bắc

2. Đồng bằng sông Hồng
3. Khu 4 cũ
4. Duyên hải miền trung
5. Tây Nguyên
6. Đông Nam Bộ
7. Đồng bằng sông Cửu Long

Diện tích (%)
100
32,0
3,6
15,4
13,5
16,5
7,0
12,0

Dân số (%)
100
17,0
19,7
13,4
10,4
4,5
13,2
21,8

Đất nông nghiệp khoảng 7,4 triệu ha, trong đó đất trồng cây hàng
năm là 5,5 triệu ha (riêng lúa chiếm 4,2 triệu ha); đất trồng cỏ chăn nuôi
0,3 triệu ha; đất mặt nƣớc dùng cho sản xuất nông nghiệp chỉ có 0,27 triệu

ha.
Đất lâm nghiệp có 9,6 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên 8,8 triệu ha,
rừng trồng khoảng 0,8 triệu ha.
Đất chƣa sử dụng khoảng 14 triệu ha, trong đó có 9 triệu ha đất
trống, đồi núi trọc.


5

Sản lƣợng lƣơng thực tăng nhanh trong thời gian gần đây đƣa Việt
Nam từ một nƣớc thiếu lƣơng thực trong thập kỷ 80 trở thành nƣớc xuất
khẩu gạo đứng thứ 2-3 thế giới. Trong 16 năn xuất khẩu gạo (1989-2004)
Việt Nam đã cung cấp cho thị trƣờng thế giới hơn 45,14 triệu tấn gạo, thu
về 10,77 tỷ USD. An ninh lƣơng thực đƣợc đảm bảo và là điều kiện tốt để
thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển.
Năm 1995, tổng sản lƣợng lƣơng thực qui thóc là 27 triệu tấn,
trong đó 24 triệu tấn thóc, 3 triệu tấn màu (1,2 triệu tấn ngô, 1,8 triệu tấn
khoai lang, sắn), bình quân lƣơng thực trên đầu ngƣời là 364,8 kg, xuất
khẩu trên 2 triệu tấn gạo. Năm 1999 đạt 32 triệu tấn lƣơng thực. Năm
2004 mặc dù thời tiết không thuận lợi, sản xuất lúa gặp nhiều khó khăn,
nhƣng Việt Nam vẫn đạt sản lƣợng 39,3 triệu tấn lƣơng thực và xuất khẩu
4,55 triệu tấn gạo. Sản xuất lƣơng thực đạt sản lƣợng cao đã tạo điều kiện
tốt cho sự phát triển công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, gia cầm và đƣa
chăn nuôi phát triển nhanh và ổn định.
Năm 1994, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP cả nƣớc là 35,4%
(công nghiệp 26,6%, dịch vụ 38%). Tỷ trọng chăn nuôi trong tổng giá trị
sản lƣợng nông nghiệp chiếm 25,82%. Trong cơ cấu tổng thu về sản xuất
kinh doanh Nông-Lâm-Thuỷ sản chiếm 75,6%, công nghiệp-xây dựng
chiếm 10,6%, thu từ ngành nghề dịch vụ 13,8%.
Năm 2003, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đã có sự chuyển

dịch tích cực. Cơ cấu tổng thu từ ngành trồng trọt chiếm 68,5%, thu từ
ngành chăn nuôi chiếm 29,5%, thu từ các hoạt động dịch vụ nông nghiệp
chỉ 2%. Trong ngành trồng trọt, tỉ lệ thu từ cây hàng năm chiếm 77,8%,
thu từ cây lâu năm 19,7%.
1.2.2.Tình hình phát triển chăn nuôi
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới, ngành
chăn nuôi đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể.
1.2.2.1.Số lƣợng vật nuôi
Thống kê đàn gia súc, gia cầm cả nƣớc trong thời gian qua (Bảng 1.4)
Bảng 1.4. Số lượng gia súc, gia cầm cả nước qua các năm

Năm

Trâu
(1000
con)

TS.Bò
(1000
con)

Bò sữa
(con)

1980
1981
1982

2313,0
2380,3

2445,1

1664,2
1771,7
1944,4

4843

Lợn
(1000
con)
10001,2
10493,4
10784,9

TS.Gia
cầm
(1000
con)

Gà (1000
con)

61522
67001
73359

48391,0
53847,4
56861,3



(con)
173900
196500
224900


6

1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002

2003
2004

2500,2
2549,2
2590,2
2657,6
2752,7
2806,8
2871,3
2854,4
2855,6
2883,4
2960,8
2971,1
2963,1
2953,7
2943,6
2951,3
2955,7
2897,2
2818,3
2814,4
2834,9
2870,0

2173,5
2148,0
2597,6
2783,6

2979,1
3126,6
3201,7
3120,8
3151,0
3193,8
3333,0
3466,7
3638,7
3800,3
3904,8
3984,2
4063,5
4127,9
3899,1
4062,9
4397,3
4910,0

5800

11000
12100
13080
15000
16500
18700
22563
24501
26645

29401
34982
41241
55800
80000
95800

11201,9
11759,9
11807,5
11795,9
12050,8
11642,6
12217,3
12260,5
12183,2
13888,7
14873,9
15569,4
16037,4
16921,4
17639,7
18132,1
18885,7
20193,7
21765,9
23210,0
25461,1
26140,0


79165
85857
87803
96129
95424
94063
100962
103820
105259
117876
126399
131669
140004
151406
160550
167890
179323
198046
216010
233290
254060
218150

60721,5
63472,2
64816,7
69861,8
69098,4
72385,4
77064,7

80184,0
80578,2
89704,9
95087,2
99627,1
107958,4
112788,7
120567,0
126361,0
135760,0
147050,0
158037,0
159450,0
203650,0
196363,5

271800
354700
402600
432400
413800
410700
386800
372800
312290
312490
353200
422802
550174
512812

51498
514810
516000
543860
569152
621013
780331
1020200

Số liệu trên bảng cho thấy: Năm 1980, đàn trâu có hơn 2,3 triệu con;
đàn bò gần 1,7 triệu con trong đó bò sữa 4.843 con; đàn lợn hơn 10 triệu
con; đàn dê 173.900 con. Tổng đàn gia cầm 61,5 triệu con, trong đó đàn
gà là 48,4 triệu con. Năm 1990, đàn trâu 2,85 triệu con; đàn bò 3,12 triệu
con (bò sữa 11.000 con); đàn lợn 12,26 triệu con; đàn dê 372.800 con;
tổng đàn gia cầm 183,8 triệu con. Năm 1999, đàn trâu 2,95 triệu con; bò
9,06 triệu con (bò sữa 29.400 con); lợn hơn 18,88 triệu con; gia cầm
179,32 triệu con; đàn dê 516.000 con. Năm 2003, đàn trâu có xu hƣớng
giảm chỉ còn hơn 2,8 triệu con; các đối tƣợng gia súc, gia cầm khác tiếp
tục tăng: đàn bò đạt 4,4 triệu con (bò sữa: 80.000 con); đàn lợn 25,5 triệu
con; gia cầm 254 triệu con. Năm 2004, đàn gia súc các loại đều tăng, riêng
đàn gia cầm giảm do ảnh hƣởng của dịch cúm vào cƣôi năm 2003 đầu
năm 2004 và còn ảnh hƣởng đến các năm sau.
Tốc độ tăng đàn gia súc, gia cầm trong 10 năm qua tính trung bình 3,06,0%, trong đó đàn lợn tăng 6,77%; bò tăng 4,1% (bò sữa tăng mạnh
48,06%); gia cầm tăng 6-9%/năm; riêng đàn trâu không tăng và ở một số
vùng có xu hƣớng giảm (-0,04%).


7

1.2.2.2. Sản phẩm chăn nuôi

Sản phẩm chăn nuôi nhận đƣợc từ đàn vật nuôi nói trên hàng năm đều
tăng (Bảng 1.5). Năm 1980 là 448.400 tấn thịt hơi các loại (trong đó thịt
lợn 287.000 tấn); trứng hơn 1 tỷ quả; sữa 3200 tấn. Năm 1990, thịt hơi các
loại là 1.007.900 tấn (thịt lợn 729.000 tấn ; gia cầm 167.900 tấn; trâu bò
111.900 tấn); trứng gần 1,9 tỷ quả; sữa 9300 tấn. Năm 2002 tƣơng ứng là
2.146.300 tấn (lợn 1.653.600 tấn; thịt gia cầm 338.400 tấn; thịt trâu bò
154.200 tấn ); trứng 4,53 tỷ quả; sữa 35.000 tấn. Năm 2003, thịt hơi 2,3
triệu tấn (thịt lợn chiếm 77%, thịt gia cầm 15%, thịt trâu bò 8%); trứng
4,85 tỷ quả; sữa 151,31 nghìn tấn. Tốc độ tăng sản phẩm chăn nuôi hàng
năm 4,4-17,3%.
Bảng 1.5.Sản phẩm chăn nuôi cả nước qua các năm
(thịt hơi các loại-tấn)
Năm

T ổng số

1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993

1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

448400
510900
643400
691900
715500
748600
833195
890328
886125
956984
1007900
1015200
1078866
1171538
1235933
1322097
1408320
1515004
1608476

1711724
1835923
1989291
2146300
2300000

Thịt lợn
287000
345000
461400
510600
527000
560300
625576
665725
652846
714189
729000
715500
797156
878380
937730
1006918
1076004
1166215
1230621
1318196
1408961
1513279
1653600

1795400

Thịt
gia
cầm

Thịt trâu


147246
153767

77357
79512

167900
146380
154435
169878
186411
197084
212954
226100
250100
261808
286513
322602
338400
372720


111900
123388
127275
123280
111792
118064
119362
122653
127755
131720
140449
153410
154200
160600

Trứng
(1000
quả)
1103200
1155000
1265600
1335800
1402500
1472000
1674100
1720000
1759700
1807200
1896400
2016900

2269086
2346910
2672108
2825025
3083777
3168646
3226666
3442863
3708605
4161844
4530000
4854000

Sữa
3200

4216
4342

9000
9300
9352
13043
15073
16234
20925
27856
30768
32000
39692

52172
64703
95000
96600


8

Mức sản xuất sản phẩm chăn nuôi/đầu ngƣời/năm tăng qua các giai
đoạn (Bảng 1.6), nhƣng đang còn mức rất thấp (chỉ bằng ½-1/3 lƣợng tiêu
thụ bình quân của các nƣớc đang phát triển).
Bảng 1.6. Sản phẩm chăn nuôi sản xuất bình quân/ đầu người/năm
1995
1997
2003
Năm
Thịt hơi các loại
Trong đó:
+Thịt lợn hơi
+Thịt gia cầm hơi
+Thịt trâu bò hơi
Trứng (qu ả)
Sữa (ml)

Kg

%

Kg


%

Kg

%

17,746

100

19,589

100

22,4

100

13,51
76,1
2,64
14,8
1,58
8,9
37,9
280,8

15,04
76,8
2,95

15,1
1,6
8,1
41,3
407,6

17,25 77,0
3,36
15,0
1,79
8,0
45,0
500,0

1.2.2.3.Tình hình chăn nuôi lợn
Lợn là loài vật nuôi có khả năng lợi dụng tốt các phụ phẩm công-nông
nghiệp, khả năng sinh sản cao, quay vòng khá nhanh, cho phân bón nhiều
và tốt.Vì vậy chăn nuôi lợn đã trở thành nghề truyền thống của nông dân
và là nghành chăn nuôi chủ yếu ở nƣớc ta. Lợn đƣợc nuôi phổ biến ở tất cả
các vùng sinh thái nông nghiệp, đặc biệt tập trung nhiều ở vùng đồng bằng
sông Hồng: 22,5% tổng số đầu con và 26% tổng sản phẩm, khu 4 cũ tƣơng
ứng 16,4% và 13%, đồng bằng sông Cửu Long: 15% và 22%. Nhƣ vậy,
riêng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đàn lợn chiếm
37,5% đầu con và 48% sản lƣợng thịt lợn của cả nƣớc. Đàn lợn vẫn đƣợc
nuôi chủ yếu theo phƣơng thức bán thâm canh trong nông hộ (90-95%)
với quy mô nhỏ (3-5 con/hộ), số hộ nuôi quy mô lớn hơn từ 6 con trở lên
chỉ chiếm 1,8%. Một tỷ lệ nhỏ đàn lợn (5-10%) đƣợc nuôi trong các trang
trại (200-300 con) theo phƣơng thức thâm canh( công nghiệp). Lợn vẫn là
nguồn cung cấp thịt chính (77% tổng lƣợng thịt các loại), nhƣng tiêu thụ
trong nƣớc là chủ yếu, mỗi năm chỉ xuất khẩu đƣợc 5000- 10000 tấn thịt.

Cơ cấu giống lợn hiện đang nuôi chủ yếu vẫn là các giống lợn nội. Ở phía
Bắc đàn lợn nái gần 1,5 triệu con trong đó nái Móng Cái chiếm 40-45%,
lợn nái lai 32-35%, các giống địa phƣơng khác 10-15%, lợn nái ngoại
hoặc nái lai nhiều máu ngoại chỉ 1-2%. Ở phía Nam 0,73 triệu con lợn nái
thì lợn nái lai nhiều máu ngoại và lợn Ba Xuyên, Thuộc Nhiêu chiếm tỷ lệ
cao (70-80%), lợn nái ngoại chiếm 10-15%, còn lại là các giống địa
phƣơng khác. Trong đàn lợn nuôi thịt, tỉ lệ lợn lai 50% máu ngoại ( con lai
F1) là 67%, lợn nội 30%, lợn ngoại và nhiều máu ngoại mới chiếm 3%.


9

1.2.2.4. Tình hình chăn nuôi gia cầm
Gia cầm là loài vật nuôi có khả năng sinh sản nhanh nhất, vòng đời
ngắn nhất, vốn đầu tƣ ít và quy mô chăn nuôi linh hoạt, vì vậy trong
những năm gần đây gia cầm là đốI tƣợng nuôi quan trọng trong các
chƣơng trình xoá đói giảm nghèo. Gia cầm đƣợc nuôi ở tất cả các vùng
sinh thái nông nghiệp. Đàn gà 75% tập trung ở các tỉnh phía Bắc (từ khu 4
cũ trở ra), trong khi đàn vịt lạI phân bố tập trung nhiều ở đồng bằng sông
Cửu Long (hơn 50% tổng đàn vịt cả nƣớc). Phần lớn gia cầm (70-80%)
đƣợc nuôi theo phƣơng thức quảng canh, bán thâm canh trong các nông
hộ, mỗi hộ 20-30 con, một số ít nuôi thâm canh (công nghiệp) trong các
trang trại với quy mô 1000-2000 con. Thịt gia cầm sản xuất ra chiếm 15%
lƣợng thịt các loại, chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nƣớc. Trứng gia cầm
sản xuất ngày càng tăng nhƣng còn ở mức độ thấp (dƣới 50
quả/ngƣời/năm). Các giống gia cầm nuôi chủ yếu vẫn là các giống địa
phƣơng (80%) năng suất thấp, các giống cao sản nhập nội năng suất cao
hãy còn ít (20%). Những năm gần đây xu hƣớng chăn nuôi các giống gà
thả vƣờn, lông màu đang đƣợc quan tâm và phát triển với tốc độ nhanh.
1.2.2.5. Tình hình chăn nuôi trâu bò

Trâu, bò là các loài vật nuôi ăn cỏ, có thể lợi dụng tốt đồng cỏ và các
phụ phẩm nông-công nghiệp để tạo thành thịt, sữa, sức kéo. Đàn bò phân
bố ở nhiều vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau nhƣng tập trung ở các
tỉnh Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (45,5% tổng đàn), 5 vùng
sinh thái còn lại chiếm 54,5%, riêng Tây Nguyên đất đai rộng, điều kiện
thuận lợi nhƣng đàn bò chỉ chiếm 10,8%. Đàn trâu phân bố tập trung ở
miền núi và trung du phía Bắc ( 52%), tiếp đó là khu 4 cũ ( 22%). Đàn
trâu, bò phần lớn nuôi trong nông hộ (2-3 con /hộ) theo phƣơng thức
quảng canh, bán thâm canh. Bò sữa đƣợc quan tâm phát triển mạnh trong
những năm gần đây chủ yếu ven các thành phố lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh
và đƣợc nuôi thâm canh. Thịt trâu, bò chỉ chiếm 8% tổng lƣợng thịt các
loại, lƣợng sữa sản xuất ra còn ít, mới chỉ chiếm 8,6% lƣợng sữa tiêu thụ ở
Việt Nam. Một số vùng trâu, bò đƣợc dùng để cày, kéo nhƣng nhu cầu
cung cấp sức kéo (đặc biệt ở trâu) ngày càng giảm. Cơ cấu giống bò chủ
yếu vẫn là bò nội (bò vàng Việt Nam) chiếm 85% tổng đàn với tầm vóc
nhỏ, năng suất thịt sữa đều thấp. Khối lƣợng trƣởng thành bò cái 180-200
kg/con, bò đực 210-250 kg/con, tỉ lệ thịt xẻ 40-45%, bò lai Zêbu chiếm
14,4%, các giống bò cao sản nhập nội mới chiếm 0,5% tổng đàn bò.


10

1.2.2.6.Tình hình chăn nuôi các đối tƣợng vật nuôi khác
Trong những năm gần đây thực hiện chủ trƣơng chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi hƣớng tới chiến lƣợc phát triển nông nghiệp bền vững,
ngành chăn nuôi đã đƣợc quan tâm và phát triển đa dạng hơn. Ngoài các
vật nuôi truyền thống: lợn, trâu bò, gà thì dê, cừu, ngan, vịt, chim cút, bồ
câu, đà điểu… cũng đƣợc chú ý đầu tƣ phát triển. Đồng thời với việc bảo
tồn quỹ gen các gia súc, gia cầm địa phƣơng, việc nhập nội các gia súc gia
cầm cao sản phục vụ phát triển chăn nuôi thâm canh, sản xuất hàng hoá đã

đƣợc triển khai thực hiện nhƣ: bò sữa cao sản từ Úc; lợn có tỷ lệ nạc cao
từ Bỉ, Nhật; gà lông màu từ Trung Quốc; vịt cao sản thịt, trứng từ Anh,
Thái lan; ngan Pháp; bồ câu Pháp…đã tạo nên sự đa dạng trong sản phẩm
chăn nuôi ở nƣớc ta, đang góp phần tích cực trong các chƣơng trình xoá
đói giảm nghèo vƣơn lên làm giàu từ chăn nuôi và đã mở ra bƣớc phát
triển mới của ngành chăn nuôi.
1.3. Định hƣớng phát triển chăn nuôi đến năm 2010
1.3.1. Mục tiêu sản xuất chăn nuôi đến năm 2010
+ Mục tiêu chung của phát triển chăn nuôi là:
- Đảm bảo nhu cầu thực phẩm cho tiêu dùng trong nƣớc và sản
xuất đƣợc thực phẩm có chất lƣợng cao để xuất khẩu.
- Cung cấp phân bón cho cây trồng và nguyên liệu khác cho công
nghiệp.
- Tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện thu nhập và điều kiện sống
cho các vùng nông thôn. Khai thác hiệu quả diện tích bãi chăn và phụ
phẩm nông-công nghiệp.
- Góp phần xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp bền vững, bảo
tồn tính đa dạng sinh học, bảo vệ môi trƣờng trên cơ sở công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ngành chăn nuôi.
- Tăng dần giá trị ngành chăn nuôi so với tổng giá trị nông nghiệp
lên 30% vào năm 2010, đƣa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính
trong nông nghiệp.
+ Mục tiêu cụ thể
Năm 2010 Việt Nam đặt mục tiêu tổng đàn lợn 30 triệu con, đàn
trâu 3,5 triệu con, đàn bò 4,6 triệu con, đàn gia cầm 350 triệu con. Sản
phẩm chăn nuôi tính theo đầu ngƣời (tính cho 90 triệu dân): thịt 42 kg,
trứng 77 quả, sữa 2500ml. Trong quá trình phát triển chăn nuôi coi trong
năng suất, chất lƣợng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, an toàn (thực phẩm
sạch) và khả năng cạnh tranh.



11

1.3.2. Định hƣớng phát triển chăn nuôi (2001-2010)
Nghị quyết về một số chủ trƣơng và chính sách về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của Chính phủ ban hành ngày
15/6/2000 chỉ rõ:
“Phát triển đàn lợn phù hợp với nhu cầu của thị trường tiêu dùng
trong nước, một số vùng chăn nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu. Phát
triển chăn nuôi bò theo hướng thâm canh có năng suất cao, phấn đấu
trong 10 năm tới có 200000 con bò sữa, trong đó 100000 con bò cái vắt
sữa với sản lượng 300000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ
yếu là gà vịt.”
Từ định hƣớng phát triển chung nói trên, định hƣớng phát triển cụ
thể các loài vật nuôi nhƣ sau:
3.2.1. Chăn nuôi lợn
+ Hướng phát triển
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi lợn ở tất cả các vùng để cung cấp
thịt (2-6 triệu tấn/năm), cung cấp phân bón cho trồng trọt… Thịt lợn dùng
để tiêu thụ trong nƣớc là chính (70-75%), đồng thời một phần thịt lợn cho
xuất khẩu (25-30%).
+Biện pháp
- Cải tiến phƣơng thức chăn nuôi lợn truyền th ống và phát tri ển
các trang trại chăn nuôi lợn theo phƣơng thức công nghiệp tại các tỉnh
vìng trung du Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, miền Đông Nam Bộ, đồng
bằng sông Cửu Long. Tìm kiếm thị trƣờng xuất khẩu thịt lợn.
- Tiếp tục nạc hoá đàn lợn bằng cách nuôi lợn ngoại và lợn lai
nhiều máu ngoại, đƣa đàn lợn có tỉ lệ nạc trên 50% lên 25-30% tổng đàn.
Đồng thời lƣu ý xử lý chất thải, phòng chống ô nhiễm môi trƣờng với các
cơ sở chăn nuôi lợn tập trung có quy mô lớn.

3.2.2.Chăn nuôi gia cầm
+ Hướng phát triển
Phát triển chăn nuôi gà thả vƣờn, gà có chất lƣợng cao để tiêu thụ
trong nƣớc và xuất khẩu, đồng thời coi trọng phát triển chăn nuôi gà công
nghiệp chuyên dụng thịt, trứng cung cấp cho nhu cầu trong nƣớc. Lƣu ý
phát triển chăn nuôi gà ở vùng trung du, đồng bằng và ven đô thị.
Phát triển chăn nuôi vịt tập trung ở đồng bằng sông Hồng, đồng
bằng sông Cửu Long và các tỉnh duyên hải để cung cấp thịt, trứng, lông
cho thị trƣờng trong và ngoài nƣớc.
+Biện pháp
- Cải tiến phƣơng thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng
thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi gia cầm công nghiệp.


12

- Gây tạo giống gà thả vƣờn, gà chất lƣợng cao về thịt, trứng. Tiếp
tục nhập nội các giống gà công nghiệp có năng suất thịt, trứng cao.
3.2.3. Chăn nuôi trâu bò
+ Hướng phát triển
Phát triển chăn nuôi trâu bò ở miền núi vùng Đông Bắc, Tây Bắc
và các tỉnh Bắc Trung Bộ để lấy thịt, sức kéo và cung cấp phân bón cho
trồng trọt. Chọn lọc nhân thuần đàn trâu nội.
Phát triển chăn nuôi bò thịt ở các vùng có đồng cỏ và nhiều phụ
phẩm nông-công nghiệp, đặc biệt vùng Trung Bộ và Tây Nguyên. Thịt bò
phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc là chính nhƣng cần tìm kiếm thị
trƣờng cho xuất khẩu.
Phát triển chăn nuôi bò sữa ven các thành phố lớn và khu công
nghiệp (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…) và ở 2 cao nguyên Mộc Châu
và Lâm Đồng để có thể tự túc 25% nhu cầu về sữa tiêu thụ trong nƣớc.

+ Biện pháp
- Cải tiến phƣơng thức chăn nuôi truyền thống ở các nông hộ, đồng
thời xây dựng các cơ sở chăn nuôi bò thịt, bò sữa hiện đại.
- Tiếp tục Zêbu hoá đàn bò. Nhập một số giống bò chuyên dụng sữa,
chuyên dụng thịt năng suất cao. Tiến hành lai tạo giữa bò chuyên dụng
sữa, chuyên dụng thịt với bò đã đƣợc Zêbu hoá.
Với các đối tƣợng vật nuôi khác tiếp tục quan tâm đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi Ngựa ở vùng núi Đông Bắc, Tây Bắc để lấy sức kéo, thịt;
Dê để lấy thịt sữa; Cừu lấy thịt, lông; Ngan, Ngỗng, các động vật quý
hiếm khác nhƣ Đà điểu, Cá sấu…ở những nơi có điều kiện và các vùng
thích hợp.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Phân tích tình hình chăn nuôi của Việt Nam trong 10 năm vừa qua
và định hƣớng phát triển đến năm 2010.


13

Chƣơng II

Giống và công tác giống vật nuôi
Trong chăn nuôi giống là tiền đề để nâng cao năng suất và chất lƣợng
sản phẩm. Làm tốt công tác giống cho phép tăng nhanh số lƣợng đàn gia
súc, tạo những tiền đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao phẩm chất đàn
gia súc, năng suất và chất lƣợng sản phẩm chăn nuôi.

2.1. NGUỒN GỐC VÀ SỰ THUẦN HOÁ VẬT NUÔI
Gia súc, gia cầm là những vật nuôi thuộc lớp có vú, lớp chim đƣợc
hình thành do quá trình lao động sáng tạo của con ngƣời và trên bản thân

con vật có dấu vết của quá trình lao động sáng tạo đó.
2.1.1. Nguồn gốc vật nuôi
Tất cả vật nuôi ngày này đều bắt nguồn từ thú hoang dã đã đƣợc thuần
hóa nhờ sức lao động và trí thông minh sáng tạo của con ngƣời.
Ngƣời ta cho rằng chó là con vật đƣợc thuần hóa đầu tiên, nhƣng ý
kiến này chƣa thực xác đáng. Gần đây ngƣời ta cho rằng dê, cừu là những
gia súc đƣợc thuần hóa sớm nhất mà nguồn gốc chúng là dê rừng.
Bò nhà hiện nay có 2 nhóm: nhóm không có u có nguồn gốc từ bò
rừng “Tua”, sống ở rừng châu Âu, châu Á, Bắc Phi. Các địa điểm thuần
hóa bò này là Trung Á, Ấn Ðộ, Malaysia, Bắc Phi và Nam châu Âu.
Nhóm bò có u hiện nay đang phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới, á nhiệt
đới, nguồn gốc của nó có thể là một dạng đặc biệt hoặc do đột biến di
truyền của bò rừng Tua. Bò rừng có lông mềm, dài, thẳng, trán có xoáy ốc,
sắc lông đen hoặc nâu xám có sọc vàng dọc sống lƣng, sừng dài, đen, cong
nhƣ cánh cung, bò rừng rất khỏe và nhanh nhẹn, khá dữ tợn, con cái cao
150-170 cm, con đực cao 175-200 cm.
Trâu nhà hiện nay có nguồn gốc từ trâu rừng Ấn Ðộ, từ đó trâu đƣợc
thuần hóa lan theo 2 hƣớng: hƣớng Ðông Nam Á và hƣớng châu Phi,
Trung cận đông, Nam châu Âu. Có thể chia trâu làm 2 nhóm: nhóm sừng
ngắn, thƣờng gặp ở Nhật, Bắc Trung Quốc, Ai Cập, Ý, Nam Liên Xô (cũ),
nhóm sừng dài thƣờng gặp ở Miến Ðiện, Nam Trung Quốc, Việt Nam.
Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng châu Âu và lợn rừng châu Á,
chúng đƣợc thuần hóa ở nhiều địa điểm khác nhau: Ấn Ðộ, Ban tích,
Siberi, Anpơ, Ðông Nam Á trong đó có Việt Nam. Lợn rừng thƣờng có da


14

dày, lông cứng, màu xám đen hoặc sọc nâu sẫm, chân khỏe, chạy nhanh,
mõm dài, khỏe, con đực có răng nanh dài.

Gà nhà có nguồn gốc từ gà rừng, gà rừng thƣờng bé nhỏ, đẻ theo mùa
vụ, trứng nhỏ, gà rừng có thể bay cao và bay khá xa. Gà nhà đƣợc thuần
hóa đầu tiên ở Ấn Ðộ. Các loại gia cầm khác nhƣ ngan đƣợc thuần hóa ở
Châu Phi, gà tây ở Mêhico, ngỗng ở Châu Á.
Ngựa là con vật đƣợc thuần hóa muộn nhất: cuối thời kỳ đồ đá, bƣớc
sang thời kỳ đồ đồng trong khi các loại gia súc khác đƣợc thuần hóa vào
đầu thời kỳ đồ đá.
Sự thuần hóa có thể xảy ra cùng một lúc, lẻ tẻ ở nhiều nơi kết quả là
đã tạo đƣợc những nhóm gia súc xuất phát. Bán đảo Ðông Dƣơng, trong
đó có Việt Nam, là một nơi thuần hóa, là nơi xuất phát của nhiều nhóm gia
súc kết quả của quá trình lao động sáng tạo của tổ tiên chúng ta.
2.1.2. Sự thuần hóa vật nuôi
Thuần hóa vật nuôi thực chất là quá trình lao động sáng tạo của con
ngƣời. Trong quá trình đó, con ngƣời có những tác động cơ bản đến thú
hoang, tạo nên những thay đổi ở thú hoang, các tác động cơ bản bao gồm:
- Con ngƣời thay đổi địa bàn hoạt động của thú hoang, hạn chế khả
năng di động của chúng, làm đảo lộn tập quán sinh sống vốn đã bảo thủ của
thú hoang. Tự tìm kiếm lấy thức ăn, sống thành bầy đàn chung đụng nhau,
luôn ẩn náu, lẩn tránh kẻ thù... thay đổi địa dƣ phân bố và điều kiện khí hậu
sinh sống của thú hoang.
- Con ngƣời tác động bằng điều kiện dinh dƣỡng, chế độ chăm sóc,
nuôi dƣỡng nhằm không ngừng cải biến phẩm chất của thú hoang phù hợp
với mong muốn của con ngƣời.
- Con ngƣời không ngừng chọn lọc, nhân giống, bồi dƣỡng những đặc
tính có lợi, củng cố, nâng cao những đặc tính đó.
Do những tác động làm lay động cải biến tính di truyền vốn có của
thú hoang, kết hợp với những tác động bằng điều kiện ngoại cảnh đƣợc
tiến hành trong một quá trình lâu dài, thú hoang dã có những biến đổi chủ
yếu bao gồm:
- Thay đổi về tầm vóc, tính tình. Tầm vóc ngoại hình thú hoang rất

phù hợp với bản năng sống hoang dã của chúng, khỏe mạnh, hung tợn, di
động nhanh, thích ứng cao với ngoại cảnh. Trong khi đó, gia súc ngay sau
khi thuần hóa tầm vóc nhỏ đi, tính tình hiền lành, dễ sai khiến, đi đông
chậm, thích ứng với điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng của con ngƣời. Về
sau, do điều kiện nuôi dƣỡng của con ngƣời ngày càng hoàn thiện, do tác
động của chọn lọc mà tầm vóc của gia súc đƣợc tăng lên hoặc tầm vóc
lớn, nhỏ theo định hƣớng chọn tạo giống của con ngƣời


15

-Thay đổi về hình dáng, cấu tạo và chức năng các bộ phận: thú hoang
thƣờng có da dày, lông cứng, xƣơng lớn nhƣng gia súc thƣờng có da
mỏng, lông mịn, xƣơng nhỏ hơn. Những bộ phận trực tiếp tạo nên sản
phẩm càng có những biến đổi rõ rệt hơn. Chẳng hạn, bầu vú bò rừng kém
phát triển, lƣợng sữa của chúng chỉ đủ nuôi con, trong khi bầu vú bò sữa
rất lớn, có thể cho sữa gấp 5-6 lần nhu cầu của bê con. Vì vậy, hình dáng
bò sữa thƣờng có hình “nêm” do bầu vú rất phát triển, cơ thể phát triển
mạnh ở phần sau. Lợn rừng có đầu và vai phát triển ngƣợc lại lợn nhà,
phần lƣng, mông, đùi là phần thịt có giá trị nhất lại phát triển mạnh nhất.
-Thay đổi về khả năng sản xuất: đây chính là mục tiêu và cũng là biểu
hiện rõ rệt nhất của sự thuần hóa. So với thú hoang, sức sản xuất của gia
súc tăng hơn rất nhiều: gà rừng đẻ 20-30 trứng/năm trong khi gà nhà đẻ
200-300 trứng/năm, lợn rừng đẻ 5-6 con/năm trong khi lợn nhà đẻ 10-12
con/lứa, một năm 1,8-2,5 lứa.
- Hình thành nên các phẩm giống gia súc, gia cầm theo các hƣớng sản
xuất khác nhau. Cho tới nay, từ 15 loài động vật có vú, 10 loài chim khởi
đầu, con ngƣời đã thuần hóa, gây chọn đƣợc hàng nghìn phẩm giống mới
rất đa dạng. Về bò: các loại bò sữa (Holstein Friesian, Jersey, Brown
Swiss…), bò thịt (Aberdin Angus, Santa Gertrudis, Hereford...), bò kiêm

dụng sữa thịt (Ximantan…), bò cày kéo...
Về lợn: lợn hƣớng nạc (Landrace, Yorkshire...), lợn hƣớng mỡ (Ỉ,
Lincon...), lợn kiêm dụng.
Về gà: có gà trứng (Leghorn), gà thịt (Cornish) gà kiêm dụng trứng
thịt (Rhode island, Newhampshine, Sussex...), các giống gà thả vƣờn…
2.1.3. Khái niệm về giống vật nuôi
2.1.3.1. Ðịnh nghĩa
Khái niệm về giống vật nuôi trong chăn nuôi khác với khái niệm
giống trong phân loại sinh học. Khái niệm này dùng để biểu thị một nhóm
vật nuôi có nguồn gốc gần nhau và có chung một số tính trạng nhất định.
Theo quan điểm sinh học có thể định nghĩa: “Giống gia súc là một
quần thể sai khác nhau, nhƣng trong phần lớn các trƣờng hợp về kiểu gen
hoặc kiểu hình lại giống nhau hơn là so với các giống khác”.
Trên quan điểm thực tiễn thì: Ðộng vật thuần giống có nghĩa là động
vật mà về mặt nguồn gốc, ngoại hình, sức sản xuất chúng đáp ứng đƣợc
những yêu cầu nhất định của một phƣơng hƣớng nhân giống.
Kết hợp cả 2 quan điểm đó có thể định nghĩa giống vật nuôi một cách
đầy đủ nhƣ sau:
“Giống vật nuôi là một nhóm vật nuôi hoàn chỉnh của một loài nào
đó, chúng có chung một nguồn gốc, đƣợc hình thành bởi quá trình lao


16

động sáng tạo của con ngƣời trong những điều kiện kinh tế và tự nhiên
nhất định, chúng có số lƣợng nhất định, có giá trị kinh tế và giá trị làm
giống, có những đặc tính về ngoại hình, sinh lý và đặc điểm kinh tế nhất
định, có những yêu cầu nhất định về điều kiện sống. Những đặc tính và
yêu cầu ấy có thể di truyền cho đời sau và cho phép ta phân biệt đƣợc
giống này với giống khác”.

Những tính trạng của giống có thể chia làm 2 loại:
- Tính trạng chất lƣợng: gồm các tính trạng mà biểu hiện bên ngoài
của chúng có thể phân biệt đƣợc với nhau rõ ràng, dƣt khoát, có thể xác
định bằng một tính từ nhƣ: màu sắc lông trắng (đen, vàng,...), hình dáng
mào gà (mào cờ, mào sít...), tai lợn (cụp, đứng,...). các tính trạng này chịu
ảnh hƣởng sâu sắc bởi tính di truyền. Môi trƣờng sống cũng ảnh hƣởng tới
tính trạng chất lƣợng nhƣng không rõ nét bằng tính di truyền.
- Tính trạng số lƣợng: gồm các đặc điểm mà biểu hiện ra bên ngoài
không phân biệt với nhau đƣợc một cách rõ ràng, dứt khoát, thƣờng phải
biểu hiện ra qua nhiều trạng thái trung gian cho nên không thể dùng một
tính từ để xác định mà phải dùng thống kê qua số liệu đƣợc cân, đong, đo,
đếm và dùng phƣơng pháp thống kê phân tích độ chính xác của số liệu.
Các tính trạng số lƣợng bao gồm: khối lƣợng, chiều cao, chiều dài, sản
lƣợng thịt, sữa, trứng, tốc độ sinh trƣởng...
Giữa tính trạng số lƣợng và điều kiện sống có mối quan hệ chặt
chẽ mặc dầu biến dị của các tính trạng này có cơ sở di truyền nhƣng điều
kiện sống giữ một vai trò hết sức quan trọng. Ranh giới giữa hai loại tính
trạng số và chất lƣợng không thật rõ ràng, trong nhiều trƣờng hợp chúng
còn có mối liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Trong chăn nuôi, phần
lớn các tính trạng số lƣợng đều mang giá trị kinh tế của con giống.
Ngoài ra tập tính (habit) và trạng thái thần kinh cũng là những đặc
điểm của giống.
2.1.3.2. Phân loại giống
Dựa vào mức độ tác động của con ngƣời trong quá trình thuần
dƣỡng gia súc, ngƣời ta phân chia giống thành 3 nhóm.
3.2.1. Giống nguyên thủy
Nhóm giống này có các đặc điểm chính sau:
- Tầm vóc nói chung nhỏ
- Sức sản xuất thấp, thƣờng mang tính kiêm dụng
- Thành thục muộn

- Thích hợp với điều kiện nuôi dƣỡng chăm sóc ở mức độ thấp.
3.2.2. Giống quá độ
Nhóm giống này có đặc điểm sau:


17

- Tầm vóc tƣơng đối lớn do đã đƣợc chọn lọc, cải tiến
- Sức sản xuất đƣợc nâng lên một bƣớc, hƣớng kiêm dụng
- Thành thục tƣơng đối sớm.
3.2.3. Giống gây thành
Nhóm này có các đặc điểm chính sau:
- Tầm vóc lớn hoặc to, nhỏ theo định hƣớng của con ngƣời
- Sức sản xuất cao, hƣớng chuyên dụng hoặc kiêm dụng
- Thành thục sớm
- Sức chịu đựng bệnh tật kém, dễ bị tác động bởi sự thay đổi của
điều kiện sống.
- Ðòi hỏi điều kiện nuôi dƣỡng chăm sóc ở mức độ cao.
2.2. NGOẠI HÌNH – THỂ CHẤT
Ngoại hình thể chất là một trong ba chỉ tiêu đánh giá chọn lọc gia
súc. Phƣơng pháp đánh giá gia súc thông qua ngoại hình thể chất cho phép
ta đánh giá hàng loạt gia súc, tiến hành đánh giá những tính trạng không
thể cân, đo, đong, đếm, hoặc sử dung các phƣơng pháp phân tích sinh học
khác.
Tuy vậy, nếu chỉ đánh giá ngoại hình thể chất thôi thì không thể
đánh giá đúng bản chất gia súc. Vì vậy, công tác chọn lọc cần kết hợp chỉ
tiêu ngoại hình thể chất với các chỉ tiêu khác.
2.2.1.Ngoại hình
2.2.1.1. Khái niệm
Từ thời kỳ tiền sử trong việc chọn lọc giống vật nuôi, con ngƣời đã

chú ý đến ngoại hình. Trƣớc công nguyên, ngƣời La mã cho rằng gia súc
có lông sẫm thì khỏe, sức chịu đựng cao hơn gia súc có màu lông nhạt.
Khoảng thế kỷ thứ III, Bá Lạc (Trung Quốc), viết sách Tƣơng Mã Kinh
nói về ngoại hình của ngựa. Nhân dân ta từ xƣa đã có nhiều cao dao, tục
ngữ lƣu truyền kinh nghiệm chọn giống thông qua đặc điểm ngoại hình:
“Gà đen chân trắng, mẹ mắng cũng mua”
“Gà trắng chân chì, mua chi giống ấy” (đối với gà)
Ðối với trâu cày: “Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi”
“Miệng gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn”; chọn con chân thon, móng
tròn quản thắt, gân mặt, gối eo, thân mình trƣờng nhiều, tiền treo hậu hạ,
sừng cong cánh ná …
Lê Quý Ðôn trong “Vân Ðài Luân Ngữ” cũng viết:
“Bạch xỉ, xơ mao, đoản vi, hồng bì” tức là: “ Răng trắng, lông thƣa,
đuôi ngắn, da hồng” là ngoại hình đẹp của lợn.


18

Chúng ta có thể định nghĩa ngoại hình nhƣ sau:
“Ngoại hình là hình dáng bên ngoài có liên quan đến thể chất, sức
khỏe, hoạt động của các bộ phận trong cơ thể cũng nhƣ khả năng sản xuất
và nó là hình dạng đặc trƣng của một giống cho phép ta phân biệt dễ dàng
giữa giống này với giống khác”. Con vật khỏe mạnh thì biểu hiện bên
ngoài là: da, lông bóng mƣợt, mềm, đàn hồi, hồng hào, mắt tinh nhanh.
Sức khỏe liên quan chặt chẽ tới thể chất, tới tính thích ứng với điều kiện
bên ngoài, tới sự hoạt động bình thƣờng của các cơ quan bộ phận trong cơ
thể. Khả năng sản xuất của con vật có thể đƣợc đánh giá thông qua sức
khỏe và một số bộ phận trong cơ thể, đặc biệt là các bộ phận có liên quan
trực tiếp đến sản phẩm nhƣ: bầu vú của bò sữa; mông, vai, lƣờn của lợn
thịt... Mặt khác, đặc trƣng của ngoại hình là đặc điểm dễ nhận biết, đặc

điểm để phân biệt giúp ta phân biệt các giống vật nuôi. Chẳng hạn lợn Ỉ
sắc lông đen, lợn Móng cái lƣng có loang đen hình yên ngựa; trâu Murrah
sừng cong, da mỏng; gà Lơ-go lông trắng.
Tóm lại ngoại hình dễ nhận biết khi đánh giá, cho phép ta suy đoán
khả năng sinh trƣởng phát dục, sức sản xuất của vật nuôi cũng nhƣ phân
biệt các giống vật nuôi khác nhau.
2.2.1.2. Ðặc điểm ngoại hình của vật nuôi theo các hƣớng sản xuất
Ngày nay khi đánh giá gia súc giống theo ngoại hình không chỉ
dừng lại ở màu sắc lông da, mà còn phải quan tâm đến kết cấu cơ
thể gắn với hƣớng sản xuất. Đó chính là ngoại hình thể chất theo hƣớng
sản xuất. Gia súc có hƣớng sản xuất khác nhau thì ngoại hình cũng khác
nhau. Bò thịt có ngoại hình khác bò sữa, lợn hƣớng nạc khác lợn hƣớng
mỡ, gà đẻ trứng khác gà thịt, ngựa cƣỡi khác ngựa kéo, cừu lấy lông thô
khác cừu lấy lông mịn.


19

Ngoại hình Bò sữa
- Thân hình cái nêm, phần sau phát
triển hơn.
- Đầu dài, cổ dài, vai hẹp, ngực sâu
nhƣng không rộng, lƣng đùi dài,
chân cao.
- Da mỏng, đàn hồi, lông dày,
mƣợt. đầu vú phát triển, tĩnh mạch
vú nỗi rõ.
-------------------------------------------

Ngoại hình Bò thịt

- Thân hình chữ nhật, toàn thân đầy
đặn, sâu, rông.
- đầu ngắn, cổ ngắn vai nở, ngực
sâu rộng; lƣng, hông thân rộng, đầy
thịt, đùi ngắn, nở, chân thấp.
- Lớp mỡ dƣới da dày, lông thƣa,
mịn. Bầu vú không phát triển.
--------------------------------------------

Ngoại hình Lợn hƣớng nạc
- Thân dài, hẹp, phần mông đùi phát
triển lớn.
- Đầu nhỏ, mặt gọn, mắt tinh, vai,
lƣng, hông đầy đặn, chắc, chân cao,
bụng gọn.

Ngoại hình Lợn hƣớng mỡ
- Thân ngắn, sâu rộng, toàn thân
đầy đặn.
- Đầu to, má sệ, mắt kém tinh
nhanh, vai, lƣng, hông đầy đặn, hơi
chảy sệ, chân thấp, bụng sệ.

Ngoại hình Gà hƣớng trứng
- Thân hình thon mảnh
- Đầu nhỏ, bụng to, chân thấp
- Đầu to, ức, lƣờn, lƣng, đùi phát
triển, chân cao, vạm vỡ.
- Nhanh nhẹn, ƣa vận đ ộng


Ngoại hình Gà hƣớng thịt
- Thân hình khối chữ nhật đầy
đặn.
- Đầu to, cổ ngắn, thô, ngực,
lƣờn, đùi phát triển
- Trầm tĩnh, chậm chạp.

2.2.2. Thể chất
2.2.2.1. Khái niệm
Khi đánh giá vật nuôi ta chú ý đến ngoại hình tức là chú ý đến các
biểu hiện bên ngoài, những biểu hiện đó phần nào phản ánh cấu tạo và
chức năng của các bộ phận bên trong cơ thể. Nhƣng thông qua ngoại hình
ta không thể biết đầy đủ đƣợc sức sống, sức khỏe, sức đề kháng, tính thích
ứng và khả năng sản xuất. Vì vậy, đánh giá ngoại hình cần đƣợc bổ sung
bằng việc đánh giá thể chất.
Thể chất chính là trạng thái sức khỏe, mức độ năng suất, sức chịu
đựng, tính thích nghi, khả năng chống đỡ bệnh tật của vật nuôi.
Vậy yếu tố gì quyết định thể chất con vật?. Cho tới nay vấn đề này
vẫn chƣa đƣợc giải quyết triệt để. Aristote đề ra học thuyết thể dịch cho
rằng tỷ lệ khác nhau giữa các chất dịch trong cơ thể (máu đỏ, mật vàng,


20

lách đen) quyết định thể chất gia súc. Wirohon cho rằng tổng số các cơ
quan trong cơ thể quyết định thể chất. Culexop dựa vào tỷ lệ các phần của
cơ thể phân loại thể chất. Paplốp dựa vào hoạt động của hệ thần kinh mà
phân loại thể chất... Hiện nay ngƣời ta đang đi sâu vào yếu tố nội tiết, phát
hiện cƣờng độ và kiểu trao đổi chất để đánh giá thể chất.
2.2.2.2. Phân loại thể chất

Xuất phát từ những cơ sở khác nhau trong việc xác định bản chất của
thể chất mà ngƣời ta có những phân loại thể chất khác nhau. Những phân
loại có giá trị trong thực tiễn chọn lọc nhân giống gia súc hiện nay gồm có
các hƣớng sau:
2.2.2.1. Phân loại dựa trên quan hệ giữa các phần trong cơ thể
(Culexop)
Dựa trên những thực nghiệm khảo sát tỷ lệ các bộ phận: thịt, da,
xƣơng, phủ tạng trong cơ thể, Culexop chia thể chất ra làm 4 loại sau:
- Thể chất thô: là các gia súc có da, xƣơng, cơ phát triển mạnh, ít mỡ.
Chúng thƣờng dùng để cày kéo, lấy lông thô…
- Thể chất thanh: là các gia súc có da mỏng, xƣơng, chân nhỏ, đầu
nhẹ, chúng thƣờng là bò sữa cao sản, ngựa chạy.
- Thể chất săn: là các gia súc có da thịt săn, rắn chắc, lớp mỡ ít phát
triển, chúng thƣờng là bò sữa không phải cao sản, ngựa cƣỡi.
- Thể chất sổi: là các gia súc có lớp mỡ dày, da thịt nhão, xƣơng to
nhƣng không chắc, chúng thƣờng là bò nuôi vỗ béo lấy thịt, lợn hƣớng
mỡ.
Trong thực tế, thể chất gia súc thƣờng mang tính chất kết hợp thanh
săn, thanh sổi, thô săn, thô sổi.
- Thanh săn: là loại gia súc xƣơng nhỏ nhƣng chắc chắn, lớp mỡ dƣới
da mỏng, da đàn hồi, lông dày mƣợt, đầu thanh, chân đùi cứng cáp, mông
nở, sức sống dồi dào, thần kinh nhạy cảm, tính tình linh hoạt. Ngựa cƣỡi,
bò sữa thuộc loại hình này.
- Thanh sổi: là loại gia súc có lớp cơ mỡ rất phát triển, da mỏng, mịn
nhƣng nhão, lông mềm, đầu nhẹ. Thần kinh không nhạy cảm lắm, tính tình
trầm tĩnh, dễ vỗ béo. Bò thịt, lợn hƣớng nạc thuộc loại thể chất này.
- Thô săn: là loại gia súc có bộ xƣơng to, to và chắc. Ðầu, chân to,
dáng nặng nề, bắp cơ săn, rắn, dày, lông thô cứng, khả năng làm việc
khỏe. Ngựa kéo nặng, trâu bò cày kéo thuộc nhóm này.
- Thô sổi: là loại gia súc có bộ xƣơng thô, to nhƣng không chắc

chắn, da dày, thịt nhão, thần kinh kém nhạy cảm, lƣời nhác, ít vận động.
Khả năng làm việc, cho thịt đều kém. Loại gia súc này không thích hợp
với hƣớng sản xuất nào cả, thƣờng bị loại thải.


21

2.2.2.2. Phân loại dựa vào hình dáng lồng ngực của vật nuôi
Cách phân loại này dựa vào khả năng trao đổi chất thông qua dung
lƣợng hô hấp và đặc điểm hình dáng lồng ngực con vật, là căn cứ chủ yếu
để phân loại. Theo cách phân loại này ngƣời ta chia ra:
- Thể chất hô hấp: là gia súc có lồng ngực sâu, dài, hơi hẹp, xƣơng
sƣờn hơi xiên. Bộ xƣơng chắc chắn, da săn nhƣng đàn hồi, bộ máy hô hấp
và tuần hoàn phát triển, khả năng trao đổi chất cao. Bò sữa cao sản, ngựa
chạy thuộc nhóm thể chất này.
- Thể chất tiêu hóa: là các gia súc có lồng ngực ngắn, rộng, xƣơng
sƣờn thẳng, da mỏng hơi nhão, lớp mỡ dƣới da phát triển, cƣờng độ trao
đổi chất chậm, dễ vỗ béo. Gia súc nuôi lấy thịt, ngựa kéo, trâu bò cày kéo
thuộc nhóm thể chất này.
- Thể chất hỗn hợp; là loại hình trung gian giữa 2 loại thể chất trên.
Gia súc có thể chất này thƣờng thuộc loại có hƣớng sản xuất kiêm dụng.
2.2.2.3. Phân loại dựa vào hoạt động thần kinh cao cấp (Paplốp).
Cơ sở của sự phân loại này là sức mạnh của các quá trình hoạt động
thần kinh, sự cân bằng của các tốc độ chuyển dịch giữa 2 trạng thái hƣng
phấn và ức chế. Paplốp căn cứ vào 3 đặc điểm đó mà chia ra 4 loại thể
chất sau:
Sức mạnh

Sự cân bằng giữa
hƣng phấn và ức chế


Tốc độ chuyển
dịch

Yếu
Mạnh

Không thăng bằng
Thăng bằng

Nhanh
Chậm

Loại thể chất
Buồn bã
Nóng nảy
Linh hoạt
Bình thản

Một điều đáng chú ý là thể chất luôn gắn liền với sức khỏe, gia súc có
thể chất tốt sẽ có tính thích ứng cao, trái lại, thể chất xấu, tính thích ứng
kém, khả năng sản xuất dễ bị giảm sút khi điều kiện môi trƣờng thay đổi.
Trong chăn nuôi công nghiệp hiện nay, chọn lọc thể thất có ý nghĩa quan
trọng làm giảm thấp tỷ lệ loại thải do cách chăm sóc nuôi dƣỡng theo từng
đàn lớn.
2.2.3. Giám định ngoại hình thể chất của vật nuôi
Giám định ngoại hình thể chất của vật nuôi là phƣơng pháp đánh giá,
chọn lọc hàng loạt, cần tiến hành thƣờng kỳ hằng năm nhằm loại thải
những gia súc xấu nâng cao phẩm chất của đàn về mặt kiểu hình. Có 3
phƣơng pháp giám định sau đây:



22

2.2.3.1. Giám định bằng mắt
Là phƣơng pháp dùng mắt để quan sát và dùng tay sờ nắn, kiểm tra các bộ
phận của con vật. Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng từ lâu. Là phƣơng pháp
đơn giản, nhanh chóng nhƣng tƣơng đối hoàn chỉnh, có thể đánh giá đƣợc
chi tiết từng bộ phận cũng nhƣ tổng quát trên cơ thể con vật.
Nhƣợc điểm của phƣơng pháp này là đòi hỏi ngƣời đánh giá phải có
kinh nghiệm, quen tay, quen mắt, suy luận tổng hợp đƣợc giá trị chung
của con vật.
2.2.3.2. Giám định bằng cách đo các chiều cơ thể
Là phƣơng pháp dùng các loại thƣớc: gậy, dây, compa để đo các chiều
trên cơ thể con vật. Số lƣợng các chiều đo tùy thuộc vào mục đích công
tác giống, thông thƣờng với bò đo 5-8 chiều, với lợn 3-4 chiều, trong các
thí nghiệm có thể đo 13-18 chiều. Các chiều đo thông dụng bao gồm:
Với bò:- Cao vây: khoảng từ mặt đất đến u vai (thƣớc gậy, thƣớc dây)
- Sâu ngực: khoảng cách từ xƣơng ức tới sống lƣng, đo ở vị trí sau
xƣơng bả vai (thƣớc gậy).
Với lợn: - Cao vai: cách đo giống bò (thƣớc gậy)
- Dài thân: khoảng cách từ điểm nối giữa 2 tai đến khấu đuôi theo
chiều cong của lƣng (thƣớc dây).
- Vòng ngực: đo giống bò.
Phƣơng pháp đo các chiều có ƣu điểm là khách quan, có số liệu lƣu
trữ, so sánh, nhƣng đòi hỏi khi đo đạc, con vật phải đứng đúng tƣ thế mới
có kết quả chính xác.
Ngoài ra, thông qua các chiều đo, ta có thể nhận xét sự phát triển của
bộ xƣơng tức là một phần thể chất của con vật hoặc có thể dựa vào kết quả
đo đạc xác định trọng lƣợng con vật, ứng dụng trong trƣờng hợp không có

điều kiện cân gia súc.
Ðể có thể nhận xét, so sánh sự phát triển bộ xƣơng thể chất con vật,
sau khi đo xong ta có thể tính thành các chỉ số.
Các chỉ số quan trọng bao gồm:
- Chỉ số cao chân:
(cao vây - sâu ngực) x 100
Chỉ số cao chân = -----------------------------------Cao vây
Gia súc non có chỉ số này cao, càng lớn càng giảm. Ngựa cƣỡi, bò
sữa có chỉ số này cao hơn bò thịt, ngựa kéo.
- Chỉ số dài thân:
Dài thân chéo x 100
Chỉ số dài thân =
Cao vây
Chỉ số này tăng theo tuổi, trâu bò cày kéo cao hơn trâu bò sinh sản.


23

Chỉ số sau cao:
Cao khum x 100
Cao hông x100
Sau cao =
hoặc =
Cao vây
Cao vây
Gia súc non cao hơn gia súc trƣởng thành.
- Chỉ số tròn mình:
Vòng ngực x 100
Tròn mình =
Dài thân chéo

-

Chỉ số này ít biến đổi theo tuổi. Con vật càng gầy chỉ số này càng
bé. Ở lợn ngƣời ta thƣờng tính Vòng ngực / Dài thân.
Lợn hƣớng nạc < 1, lợn hƣớng mỡ > 1
- Chỉ số khối lƣợng hay to mình:
Vòng ngực x 100
Chỉ số khối lƣợng
=
Cao vây
Ngựa kéo, lợn hƣớng mỡ lớn hơn ngựa cƣỡi, lợn hƣớng nạc
Các công thức tính khối lƣợng (KL) vật nuôi
- Ðối với trâu Việt Nam:
KL = -708,087 + 3,753 x VN + 3,140 D.T.C (đo thức dây)
KL = -654,599 + 3,239 x VN + 3,239 D.T.C (đo thƣớc dây)
Nếu trâu béo cộng thêm 5%, trâu gầy trừ 5% trọng lƣợng tính đƣợc.
- Ðối với bò:
(vòng ngực)2 x dài thân chéo(cm)
VN2 x DTC
KL =
= -------------10.800
10.800
- Ðối với lợn:
(vòng ngực)2 x dài thân thẳng (cm)
VN2 x DTT
KL =
= --------------14.400
14.400
Công thức tính khối lƣợng (KL) do Viện Chăn nuôi xây dựng (năm 1980)
Trâu Việt Nam. KL (kg) = 88,4 x VN2 x DTC (m)

Bò Việt Nam.
KL(kg) = 89,8 x VN2 x DTC (m)
2.2.3.3. Giám định bằng phƣơng pháp cho điểm
Là phƣơng pháp đối chiếu ngoại hình con vật cần đánh giá với một
con vật mẫu (có ngoại hình thể chất lý tƣởng của giống), tiến hành cho
điểm từng bộ phận theo một thang điểm nhất định. Tuỳ theo tính chất
quan trọng đối với hƣớng sản xuất mà thang điểm hoặc hệ số nhân điểm


24

các bộ phận đó khác nhau. Cuối cùng căn cứ vào tổng số điểm phân cấp
ngoại hình gia súc đã giám định. Ví dụ tiêu chuẩn giám định ngoại hình
trâu bò cày kéo (bảng 2.1)
Bảng 2.1. Tiêu chuẩn giám định ngoại hình trâu bò cày kéo
Các bộ
Đặc điểm mô tả
Cái
Ðực
phận

Ðầu và
cổ
Ngực
Vai,
lƣng,
hông
Bụng
Mông
Ðùi

Vú ,c ơ
quan
sinh dục
Bốn
chân
Phát dục
chung
C ộng

điểm

Hệ
số

Tổng
số

điểm

Hệ
số

Tổng
số

Ðực thô nhƣng không nặng.
Cái hơi thanh đầu, cổ cân xứng
Sâu, rộng, nở, dài
Cao, rộng, thẳng


5

1

5

5

1

5

5
5

3
3

15
15

5
5

3
3

15
15


Ðực thon, cái không sệ
Dài, rộng, hơi dốc
To, tròn
Đực: Phát dục tốt.
Cái: Phát dục tốt, bầu vú to
tĩnh mạch rõ,
Thẳng, chắc, móng chụm, tƣ
thế bình thƣờng
Toàn thân cân đối

5
5
5

1
2
2

5
10
10

5
5
5

1
2
2


5
10
10

5

2

10

5

1

5

5

1

5

5

2

10

5


5

25

5

5

25

Xếp cấp:
Kỷ lục:
Ðặc cấp:
Cấp II:

100

> 80
75-79 ;
65- 69;

Cấp I:
Cấp III:

100

70- 74
60- 64

Phƣơng pháp này tƣơng đối chính xác khoa học, hiện vẫn đang đƣợc

áp dụng trong tuyển chọn gia súc thông qua ngoại hình.
2.3. SINH TRƢỞNG PHÁT DỤC
Sinh trƣởng phát dục là chỉ tiêu thứ hai đánh giá, chọn lọc gi ống vật
nuôi. Ðánh giá sinh trƣởng phát dục cho phép ta nhận định đầy đủ hơn về
ngoại hình thể chất, đánh giá đƣợc sự phát triển của cơ thể, từ đó có nhận
định về tác động nuôi dƣỡng, chăm sóc của con ngƣời trong những điều
kiện cụ thể.


25

2.3.1 Khái niệm
2.3.1.1. Sinh trƣởng
Cơ sở chủ yếu của sự sinh trƣởng của cơ thể là sự sinh trƣởng của các mô
bào, sự sinh trƣởng gồm hai quá trình chính là sinh sản và phát triển, có
nghĩa là tế bào phân chia và các tế bào nhỏ lớn dần lên có kích thƣớc và
thể vóc giống tế bào mẹ dẫn tới sự tăng thể khối của toàn cơ thể hay của
từng bộ phận của cơ thể.
Sự sinh trƣởng là một quá trình tích lũy các chất dinh dƣỡng, là sự
tăng chiều cao, chiều dài, bề ngang, khối lƣợng của các bộ phận và toàn cơ
thể trên cơ sở tính di truyền và chịu tác động bởi yếu tố ngoại cảnh.
2.3.1.2. Phát dục
Sự phát triển của cơ thể không phải chỉ ở việc tăng chiều cao, chiều
dài, bề ngang, khối lƣợng mà còn ở chỗ hoàn thiện, tăng chức năng, tính
cách hoạt động của từng bộ phận trong cơ thể.
Phát dục là một quá trình thay đổi chất lƣợng, tức là sự tăng thêm,
hoàn chỉnh các tính chất, chức năng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể vật
nuôi.
Sinh trƣởng, phát dục là hai quá trình của sự phát triển, giữa chúng
có mối liên quan chặt chẽ với nhau cùng tiến hành song song, hỗ trợ và

thúc đẩy cho nhau giống nhƣ mối quan hệ giữa số lƣợng và chất lƣợng. Ở
các giai đoạn phát triển khác nhau có thể sinh trƣởng nhanh hơn phát dục
nhƣng có lúc phát dục nhanh hơn sinh trƣởng.
2.3.2. Ðánh giá sinh trƣởng và phát dục
Ðể đánh giá sinh trƣởng và phát dục ta thƣờng dùng phƣơng pháp
định kỳ cân trọng lƣợng, đo kích thƣớc các chiều cơ thể. Khoảng cách
giữa các lần cân đo tùy thuộc các loại gia súc, khả năng sinh trƣởng (sinh
trƣởng nhanh khoảng cách cân ngắn) mục đích theo dõi; Nói chung,
khoảng cách cần đo rút ngắn, nhận xét sẽ chính xác hơn. Trong sản xuất
có thể cân đo ở các thời điểm sau:
- Lợn:sơ sinh, 1, 2, 4, 6, 8, 10, 12, 18, 24, 36 tháng
- Bò: sơ sinh, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 18, 24, 36, 48, 60 tháng
- Trâu, ngựa: sơ sinh, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 18, 24, 36, 48, 60 tháng
Trong nghiên cứu, trong 10-15 ngày hoặc trong 3-5 ngày có thể cân đo
mỗi ngày 1 lần.
Cân vào sáng sớm khi chƣa cho con vật ăn, đảm bảo trạng thái con
vật bình thƣờng.
Ðể biểu thị tốc độ sinh trƣởng, phát triển ở các thời điểm cần đo cần
áp dụng các chỉ tiêu sau:


×