Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Các tài liệu, dẫn chứng hay sưu tầm về đề thi SỐNG đẹp, THỪA văn MINH THIẾU văn hóa, TRANG PHỤC và văn hóa dành cho người thi khối d, c đại học, cao đảng, trung cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 60 trang )

Các tư liệu, dẫn chứng sưu tầm về chuyên đề nghị

luận xã hội “Sống đẹp”, “Thừa văn minh, thiếu văn

hóa”, “Trang phục và văn hóa”,… dành cho thí sinh
dự thi khối D, C đại học, cao đẳng, trung cấp.

Chúng ta đang "thừa" văn minh, thiếu văn hóa?
Phân biệt văn minh với văn hóa chỉ là tương đối, vì đây là những khái niệm, tuy không đồng nhất,
nhưng gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau. Ngày nay người ta nói tới văn minh vật chất và văn
minh tinh thần. Còn thông thường, nói tới văn minh người ta thiên về giá trị vật chất, còn văn hóa
chứa cả giá trị vật chất và tinh thần. Văn hóa là nói tới phương thức sử dụng và giàu tính nhân
bản. Văn minh hướng tới kỹ thuật, sự tiện lợi trong cuộc sống.
Cái ăn, cái mặc là vật chất (được hiểu là văn minh), nhưng ăn như thế nào, mặc làm sao thì lại là
văn hóa. Tiện nghi vật chất như điện thoại, xe cộ, nhà ở, hạ tầng giao thông (được hiểu là vật chất)
nhưng dùng điện thoại, đi lại như thế nào, ở ra làm sao lại là văn hóa.
Quyền lực chính trị cũng được hiểu là một dạng vật chất, bởi vì đạt đến một trình độ nào đó của văn
minh nhân loại mới có quyền lực. Nhưng sử dụng quyền lực đó ra sao thì lại là văn hóa, thường
được gọi là văn hóa chính trị, văn hóa quản lý, văn hóa cầm quyền. V.v..
1. Đại hội XI khẳng định tiềm lực kinh tế nước ta được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém phát triển. Tuy mức độ tăng trưởng kinh tế các năm có khác nhau, nhưng bình
quân 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 7%/năm và 10 năm 2001-2010 tăng trưởng 7,26%/năm, đạt mục
tiêu chiến lược đã đề ra. Như vậy, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm
2010 theo giá thực tế đạt trên 101,6 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 1,168 USD. Như vậy,
Việt Nam bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Thu nhập thực tế của người
dân năm 2008 so với năm 2000 tăng 2,3 lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 26% năm 2000 xuống còn
khoảng 10% năm 2010.
Đó là tổng kết bằng con số. Thực tế, chúng ta cũng có thể thấy cái ăn, cái mặc của người dân, đặc
biệt là cán bộ công chức, viên chức đã khá hơn nhiều so với trước đây. Các nhà hàng, khách sạn
luôn luôn kín chỗ. Những cuộc liên hoan mừng lên chức, lên sao diễn ra đều đều. Sự hiện diện ở


các nơi này chủ yếu là cán bộ công chức. Ăn xong, mọi người đứng dậy ra về để lại trên bàn thức
ăn thừa vô kể, có khi tới một phần ba. Trong không khí “dô” đó, hầu như ít ai nghĩ đến những thân
phận nghèo, cận nghèo. Nhiều khi sự thừa thãi của một cuộc nhậu lên chức có thể nuôi sống nhiều
gia đình nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa một năm trời. Cái nhân bản của văn hóa đang thiếu
vắng ở những nơi này.
2. Sau 25 đổi mới, theo văn kiện Đại hội XI, kết cấu hạ tầng có bước phát triển quan trọng, nhiều
công trình mới mọc lên và đã phát huy tác dụng. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 24,2% năm 2000 lên trên
30% năm 2010. Diện tích nhà ở tăng từ 8 mét vuông/người lên 12,5 mét vuông/người. Đại lộ,


đường giao thông ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều thành phố, thị xã khác trên
phạm vi cả nước mọc lên từng quý, từng năm. Nhiều đại lộ trước đây chỉ có thấy trong mơ như Đại
lộ Thăng Long ở Hà Nội đẹp nhất nước, Đại lộ Đông - Tây ở Thành phố Hồ Chí Minh, thì nay trở
thành sự thật. Sự phát triển hệ thống giao thông là một kỳ tích trong đổi mới.
Nhưng, càng tự hào với nhiều đường giao thông bao nhiêu thì càng đau lòng với văn

hóa giao

thông bấy nhiêu. Trước hết phải nói văn hóa quản lý giao thông mà cốt tủy là tinh thần trách
nhiệm của những người có trách nhiệm. Trong văn hóa đạo đức thì tinh thần trách nhiệm là một
trong những nội dung quan trọng nhất. Phải nhắc lại một luận đề đúng trên mọi phương diện, đó là
số lượng là cần nhưng chất lượng quan trọng hơn. Không phải làm đường cho xong, kịp ngày kỷ
niệm, báo cáo thành tích, giải ngân để rồi sau đó đường thành ao, thành sông và rồi tai nạn giao
thông liên tục xảy ra. Không thể chấp nhận một kiểu làm giao thông đào hè lên, lấp xuống, lại đào
lên, lấp xuống. Không thể chấp nhận kiểu cung cách làm giao thông, đường càng mở, giao thông
càng tắc, nước càng ngập, bụi càng nhiều. Chỗ nào có biển xanh - sạch - đẹp thì chỗ đó không xanh,
không sạch và không đẹp. Chỗ nào ghi biển “cấm đổ rác” thì chỗ đó rác nhiều nhất. Vì sao con
đường gốm sứ Hà Nội đẹp nhất nước lại có hiện tượng phóng uế bừa bãi? Một trong những nguyên
nhân vì thiếu công trình vệ sinh (nên có ý kiến cho rằng kỷ niệm ngàn năm Thăng Long, bên cạnh
những công trình lớn, nên làm một nghìn công trình vệ sinh để bảo đảm môi trường, một trong

những yếu tố của phát triển bền vững).
Tiếp đến là văn hóa của những người tham gia giao thông. Theo thông tin trên báo hình, báo viết,
mỗi ngày bình quân từ 30 đến 40 vụ tai nạn giao thông và làm từ 30 đến 40 người chết. Mỗi năm
trung bình có khoảng 11.000 người chết do tai nạn giao thông. Nếu tính từ sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước kết thúc đến nay và gần hơn là sau 25 năm đổi mới thì số người chết do tai nạn
giao thông không kém số người chết trong chiến tranh giữ nước. Chiến tranh đã chấm dứt, còn sự
nghiệp đổi mới đang lâu dài. Số người chết do tai nạn giao thông cứ đều đều như vậy theo thời gian,
theo sự đi lên của công cuộc đổi mới, của phát triển đường giao thông. Văn hóa giao thông đang
báo động đỏ.
3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta có nhiều doanh nghiệp, lực
lượng doanh nhân dồi dào. Chỉ trong đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta mới
khôi phục được hình ảnh và vinh dự cho doanh nghiệp và doanh nhân. Và rõ ràng, thật sự, sự
trưởng thành, lớn mạnh của doanh nghiệp, doanh nhân đã góp phần quan trọng, to lớn cho sự phát
triển của đất nước. Ba mươi doanh nhân trong Quốc hội là một tín hiệu đáng mừng, nhưng không
phải chỉ có mừng.

Văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân đang có vấn đề. Không phổ biến nhưng tính chất
nghiêm trọng trong văn hóa quản lý kiểu Vinasin buộc nhân dân nghi ngờ. Có lợi ích cá nhân, bộ
phận nhưng cao nhất phải là lợi ích đất nước. Một xu hướng lợi ích nhóm đang hình thành, đang có
nguy cơ làm xói mòn, tổn thất lòng tin của dân và sự phát triển bền vững của đất nước mà doanh
nghiệp, doanh nhân không thể nói đứng ngoài cuộc, không có trách nhiệm. Những biểu hiện cạnh
tranh không lành mạnh, kinh doanh lấy lỗ lãi làm tiêu chí hàng đầu, và duy nhất, bất chấp nhân
phẩm, vẫn còn tồn tại ở những độ đậm nhạt khác nhau. Tập đoàn kinh tế không phát huy cú đấm
thép của mình mà lại san sẻ sức mạnh đó vào các lĩnh vực khác. Rồi anh độc quyền vẫn còn đó. Sự
lừa đảo, giả dối, buôn gian, bán lậu, bất chấp tính mạng con người, bất chấp sự trường tồn của nòi
giống dân tộc chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những người quản lý thiếu trách nhiệm, nói nhiều làm
ít, không dám công khai, vạch mặt chỉ tên những doanh nghiệp làm ăn gian dối, lừa đảo.
Chúng ta chưa “thừa” doanh nghiệp, doanh nhân. Nhưng điều quan trọng hơn không phải nhiều là
tốt. Phải sàng lọc để có văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp theo tinh thần “thà ít mà tốt”.



4. Cũng tương tự như vậy, chúng ta có nhiều trường đại học, nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo, nhưng
thiếu văn hóa trong giáo dục. Giáo dục là văn hóa nhưng lại thiếu văn hóa giáo dục thì không thể
chấp nhận được. Tư duy và quản lý giáo dục có vấn đề. Có những điều Bác Hồ dạy từ lâu nhưng
những người quản lý giáo dục lại không học và làm theo Bác, lại làm ngược. Ví dụ: Bác dạy thi đua
“Hai tốt” tức là thi đua “dạy tốt và học tốt”. Bác dạy như vậy là đúng quy luật, phản ánh một khía
cạnh của triết lý giáo dục, bao giờ cũng hướng tới xây. Xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Bây giờ
ta lại dạy “chống”. Chống mà không xây thì vô nghĩa. Một hội chứng nói “không”, trong khi đó
đáng lý phải nói “có” mới khoa học, đúng quy luật. 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, hiện nay treo trang
trọng trong các trường tiểu học và trung học cơ sở là Bác dạy “có” chứ có dạy “không” đâu. Nguy
hiểm hơn là trong tư duy của văn hóa quản lý giáo dục vẫn còn nặng về thi cử và thành tích, cho
nên mới có chuyện “chống tiêu cực trong thi cử và chống bệnh thành tích”. Một nền giáo dục mà
vẫn làm cho người học “trăn trở” với hai chữ thi cử thì đó là một nền giáo bằng không. Học thì phải
thi, nhưng nếu người dạy và người học quan niệm dạy và học chỉ để thi, xong thi là hết, không còn
đau đáu với số phận đất nước, sự trường tồn của dân tộc, thì lấy đâu ra nguồn nhân lực chất lượng
cao để phục vụ đất nước. Thiếu văn hóa trong quản lý giáo dục thì không thể có văn hóa giáo dục
được, càng không thể có một khả năng sánh vai với các cường quốc năm châu.
Một biểu hiện khác trong thiếu văn hóa giáo dục là thiếu tư duy khoa học về giáo dục. Chúng ta xây
dựng một nền giáo dục, đào tạo những người đi giáo dục chứ không phải tạo ra những người đi dạy
học. Giáo dục rộng hơn dạy học. Trong giáo dục phải cho người học hiểu, bên cạnh những mặt tốt,
còn phải chỉ ra những mặt xấu, hạn chế. Nếu chúng ta chỉ tuyên truyền cái tốt (đánh giặc chỉ có
thắng, không bao giờ thua, chẳng hạn) thì phản giáo dục, lợi bất cập hại. Giáo dục truyền thống dân
tộc mà chí nói tới cái tốt, không chỉ ra, phân tích những hạn chế của truyền thống (Bác Hồ gọi là
những thói quen, truyền thống lạc hậu) thì nguy hiểm quá. Người Việt, bên cạnh nhiều ưu điểm
cũng không thiếu những thói hư, tật xấu. Xưa nay, vì một kiểu giáo dục một chiều, tức thiếu văn
hóa giáo dục, nên người học có khi chỉ biết “ta thắng địch thua”, người Việt Nam chỉ có tốt không
có gì xấu, Đảng ta chỉ có mặt mạnh, không có mặt yếu. Đó là những trở lực trên con đường phát
triển mà ta không lường hết được.
5. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Từ đó đến nay,
Đảng ta và cán bộ, đảng viên có quyền lực chính trị, tức là quyền lãnh đạo đất nước, xã hội. Có

được thành quả đó là nhờ sự hy sinh xương máu của bao chiến sĩ yêu nước, cách mạng và đồng bào,
đồng chí. Chúng ta cần trân trọng và tự hào với sự cầm quyền của Đảng, vì đó là một bước phát
triển của văn minh, tạo ra sức mạnh quản lý đất nước.
Nhưng thật đáng buồn, đáng lên án là văn hóa cầm quyền, văn hóa quản lý của một bộ phận cán bộ,
đảng viên ở trong tình trạng báo động. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà
còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều
hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa
sự ổn định, phát triển của đất nước”(1).
Chúng ta có đầy đủ và có nơi thừa các chức vụ, những người quản lý nhưng lại thiếu văn hóa quản
lý. Tham nhũng là gì? Là nhũng lạm (cách gọi chính danh tham nhũng của Bác Hồ). Nhũng lạm là
lợi dụng quyền lực để tham ô và nhũng nhiễu dân. Những người như vậy là thừa quyền lực nhưng
thiếu văn hóa cầm quyền. Sự đổ vỡ của Vinasin và nhiều hạn chế, yếu kém trong các trường hợp
tương tự là gì? Là thiếu văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo, quản lý. Những người có trách nhiệm
trực tiếp hay gián tiếp ở đó thiếu, yếu kém cả đạo đức và trình độ quản lý. Có khuyết điểm trong
quản lý ngành mình, bộ mình, địa phương mình mà không dám nhận lỗi, không dám tự phê bình là
thiếu văn hóa quản lý. Có những lầm lỗi nặng nề mà không dám xin lỗi, từ chức là thiếu văn hóa
chính trị mà cụ thể là văn hóa từ chức. Đảng viên, cán bộ của một Đảng chân chính, cách mạng, là


đạo đức, là văn minh theo tấm gương Hồ Chí Minh là phải có văn hóa xin lỗi, văn hóa phê bình và
tự phê bình và dám từ chức khi làm mất lòng tin của nhân dân. Tại sao một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên khi có chút quyền hành trong tay lại lạm quyền, thích dùng mệnh lệnh, vô cảm trước
đời sống của nhân dân, thiếu trách nhiệm với dân? Là do thiếu văn hóa chính trị. Tại sao một bộ
phận không nhỏ cán bộ có khuynh hướng sai lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế cậy quyền,
lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền
lực, tham quyền cố vị…, những tệ nạn có nguy cơ làm sụp đổ chế độ, liên quan đến sự tồn vong của
đất nước của Đảng? Vì thiếu văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền, văn hóa quản lý. Lẽ thường
những người dốt nát lại thích quyền lực, say mê quyền lực và lạm quyền. Họ không rèn đức, luyện

tài mà rèn công nghệ tìm kiếm, săn, mua quyền lực. Có quyền rồi thì đục khoét dân, ăn của đút. Đối
với anh em, đồng chí thì dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình (Bác Hồ gọi là đạo
vị).
Thế giới trong những tháng ngày qua có hai sự kiện liên quan đến chủ đề bài viết. Một là, trận động
đất hiếm có trong lịch sử đã làm cho nhân dân Nhật Bản chịu nhiều tổn thất quá nặng nề về người
và tài sản. Nhưng nước Nhật nhanh chóng phục hội và đứng dậy. Một sức mạnh phi thường nhờ nội
sinh văn hóa đã thấm sâu vào từng tế bào của xã hội, thấm vào máu thịt của từng con người Nhật
Bản khi còn trong bào thai mẹ. Vì vậy, dù sóng to, gió lớn, trở lực khó khăn, người Nhật Bản vẫn
ngẩng cao đầu, xứng đáng để cả thế giới ngưỡng mộ và khâm phục. Hai là nước Anh hồi đầu tháng
đã có cuộc bạo loạn tồi tệ nhất trong 25 năm qua. Ngày 15-8-2011 Thủ tướng Anh Davit Cameron
nói rằng, “nước Anh đang phải đối mặt một nền văn hóa lười biếng, vô trách nhiệm và ích kỷ nguyên nhân chính làm bùng lên cuộc bạo loạn kéo dài 4 ngày qua khiến 5 người chết, hàng ngàn
người bị truy tố tội hình sự, thiệt hại hàng trăm triệu USD”. Ông cho rằng “vụ bạo loạn vừa qua làm
thức tỉnh cả nước, các vấn đề xã hội vốn âm ỷ hình thành nhiều thập kỷ qua đã bùng nổ ngay trước
mắt mọi người. Chứng kiến cảnh bạo loạn trên đường phố, ai cũng muốn những vấn đề xã hội này
được giải quyết và sự xuống cấp đạo đức bị đẩy lùi”. Thủ tướng Cameron hứa sẽ chấm dứt một nền
văn hóa e dè, sợ hãi trong việc thảo luận trường hợp gia đình tan vỡ, cha mẹ nghèo đói, hoặc trong
việc chỉ trích những phụ huynh không nêu gương tốt cho con em họ cũng như cộng đồng”.
Thiếu “vốn kinh tế”, chưa có kỹ thuật, khoa học công nghệ, vật chất thì 30 năm, 50 năm, chậm lắm
là một thế kỷ, sẽ có. Nhưng suy giảm “vốn xã hội”, thiếu văn hóa, xuống cấp, suy đồi về văn hóa thì
một thế kỷ rất khó phục hồi, thậm chí mất cả thiên niên kỷ. Nhưng điều nguy hiểm hơn là trong
hàng trăm năm đó chúng ta mấtnền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, mất sức mạnh nội sinh,
nguồn lực xã hội to lớn, không có động lực của phát triển và phát triển không có mục tiêu.
-------------(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.173.

PGS TS Bùi Đình Phong

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Đình Phong sinh năm 1950, quê xã Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà
Tĩnh, là giảng viên Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Ông Là nhà
nghiên cứu hàng đầu về lãnh tụ Hồ Chí Minh với hàng loạt công trình có giá trị. Ngoài ra,

ông còn có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về Lịch sử, Văn hóa được độc giả
đánh giá cao.


Họ Bùi Tùng Ảnh xin giới thiệu bài viết Chúng ta đang “thừa” văn minh, thiếu văn
hóa? của ông đã đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An.
Phân biệt văn minh với văn hóa chỉ là tương đối, vì đây là những khái niệm, tuy không
đồng nhất, nhưng gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau. Ngày nay người ta nói tới văn
minh vật chất và văn minh tinh thần. Còn thông thường, nói tới văn minh người ta thiên về
giá trị vật chất, còn văn hóa chứa cả giá trị vật chất và tinh thần. Văn hóa là nói tới
phương thức sử dụng và giàu tính nhân bản. Văn minh hướng tới kỹ thuật, sự tiện lợi
trong cuộc sống.
Cái ăn, cái mặc là vật chất (được hiểu là văn minh), nhưng ăn như thế nào, mặc làm sao
thì lại là văn hóa. Tiện nghi vật chất như điện thoại, xe cộ, nhà ở, hạ tầng giao thông
(được hiểu là vật chất) nhưng dùng điện thoại, đi lại như thế nào, ở ra làm sao lại là văn
hóa. Quyền lực chính trị cũng được hiểu là một dạng vật chất, bởi vì đạt đến một trình độ
nào đó của văn minh nhân loại mới có quyền lực. Nhưng sử dụng quyền lực đó ra sao thì
lại là văn hóa, thường được gọi là văn hóa chính trị, văn hóa quản lý, văn hóa cầm quyền.
V.v..
1. Đại hội XI khẳng định tiềm lực kinh tế nước ta được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển. Tuy mức độ tăng trưởng kinh tế các năm có khác nhau,
nhưng bình quân 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 7%/năm và 10 năm 2001-2010 tăng
trưởng 7,26%/năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra. Như vậy, Việt Nam là một trong
những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh so với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt trên 101,6
tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 1,168 USD. Như vậy, Việt Nam bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Thu nhập thực tế của người dân năm 2008
so với năm 2000 tăng 2,3 lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 26% năm 2000 xuống còn khoảng
10% năm 2010.
Đó là tổng kết bằng con số. Thực tế, chúng ta cũng có thể thấy cái ăn, cái mặc của người

dân, đặc biệt là cán bộ công chức, viên chức đã khá hơn nhiều so với trước đây. Các nhà
hàng, khách sạn luôn luôn kín chỗ. Những cuộc liên hoan mừng lên chức, lên sao diễn ra
đều đều. Sự hiện diện ở các nơi này chủ yếu là cán bộ công chức. Ăn xong, mọi người
đứng dậy ra về để lại trên bàn thức ăn thừa vô kể, có khi tới một phần ba. Trong không
khí “dô” đó, hầu như ít ai nghĩ đến những thân phận nghèo, cận nghèo. Nhiều khi sự thừa
thãi của một cuộc nhậu lên chức có thể nuôi sống nhiều gia đình nghèo ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa một năm trời. Cái nhân bản của văn hóa đang thiếu vắng ở những nơi này.
2. Sau 25 đổi mới, theo văn kiện Đại hội XI, kết cấu hạ tầng có bước phát triển quan
trọng, nhiều công trình mới mọc lên và đã phát huy tác dụng. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ
24,2% năm 2000 lên trên 30% năm 2010. Diện tích nhà ở tăng từ 8 mét vuông/người lên
12,5 mét vuông/người. Đại lộ, đường giao thông ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
và nhiều thành phố, thị xã khác trên phạm vi cả nước mọc lên từng quý, từng năm. Nhiều
đại lộ trước đây chỉ có thấy trong mơ như Đại lộ Thăng Long ở Hà Nội đẹp nhất nước, Đại
lộ Đông – Tây ở Thành phố Hồ Chí Minh, thì nay trở thành sự thật. Sự phát triển hệ thống
giao thông là một kỳ tích trong đổi mới.
Nhưng, càng tự hào với nhiều đường giao thông bao nhiêu thì càng đau lòng với văn hóa
giao thông bấy nhiêu. Trước hết phải nói văn hóa quản lý giao thông mà cốt tủy là tinh
thần trách nhiệm của những người có trách nhiệm. Trong văn hóa đạo đức thì tinh thần
trách nhiệm là một trong những nội dung quan trọng nhất. Phải nhắc lại một luận đề đúng
trên mọi phương diện, đó là số lượng là cần nhưng chất lượng quan trọng hơn. Không


phải làm đường cho xong, kịp ngày kỷ niệm, báo cáo thành tích, giải ngân để rồi sau đó
đường thành ao, thành sông và rồi tai nạn giao thông liên tục xảy ra. Không thể chấp nhận
một kiểu làm giao thông đào hè lên, lấp xuống, lại đào lên, lấp xuống. Không thể chấp
nhận kiểu cung cách làm giao thông, đường càng mở, giao thông càng tắc, nước càng
ngập, bụi càng nhiều. Chỗ nào có biển xanh – sạch – đẹp thì chỗ đó không xanh, không
sạch và không đẹp. Chỗ nào ghi biển “cấm đổ rác” thì chỗ đó rác nhiều nhất. Vì sao con
đường gốm sứ Hà Nội đẹp nhất nước lại có hiện tượng phóng uế bừa bãi? Một trong
những nguyên nhân vì thiếu công trình vệ sinh (nên có ý kiến cho rằng kỷ niệm ngàn năm

Thăng Long, bên cạnh những công trình lớn, nên làm một nghìn công trình vệ sinh để bảo
đảm môi trường, một trong những yếu tố của phát triển bền vững).
Tiếp đến là văn hóa của những người tham gia giao thông. Theo thông tin trên báo hình,
báo viết, mỗi ngày bình quân từ 30 đến 40 vụ tai nạn giao thông và làm từ 30 đến 40
người chết. Mỗi năm trung bình có khoảng 11.000 người chết do tai nạn giao thông. Nếu
tính từ sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc đến nay và gần hơn là sau
25 năm đổi mới thì số người chết do tai nạn giao thông không kém số người chết trong
chiến tranh giữ nước. Chiến tranh đã chấm dứt, còn sự nghiệp đổi mới đang lâu dài. Số
người chết do tai nạn giao thông cứ đều đều như vậy theo thời gian, theo sự đi lên của
công cuộc đổi mới, của phát triển đường giao thông. Văn hóa giao thông đang báo động
đỏ.
3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta có nhiều doanh
nghiệp, lực lượng doanh nhân dồi dào. Chỉ trong đổi mới, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng ta mới khôi phục được hình ảnh và vinh dự cho doanh nghiệp và doanh
nhân. Và rõ ràng, thật sự, sự trưởng thành, lớn mạnh của doanh nghiệp, doanh nhân đã
góp phần quan trọng, to lớn cho sự phát triển của đất nước. Ba mươi doanh nhân trong
Quốc hội là một tín hiệu đáng mừng, nhưng không phải chỉ có mừng.
Văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân đang có vấn đề. Không phổ biến nhưng tính chất
nghiêm trọng trong văn hóa quản lý kiểu Vinasin buộc nhân dân nghi ngờ. Có lợi ích cá
nhân, bộ phận nhưng cao nhất phải là lợi ích đất nước. Một xu hướng lợi ích nhóm đang
hình thành, đang có nguy cơ làm xói mòn, tổn thất lòng tin của dân và sự phát triển bền
vững của đất nước mà doanh nghiệp, doanh nhân không thể nói đứng ngoài cuộc, không
có trách nhiệm. Những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh, kinh doanh lấy lỗ lãi làm
tiêu chí hàng đầu, và duy nhất, bất chấp nhân phẩm, vẫn còn tồn tại ở những độ đậm nhạt
khác nhau. Tập đoàn kinh tế không phát huy cú đấm thép của mình mà lại san sẻ sức
mạnh đó vào các lĩnh vực khác. Rồi anh độc quyền vẫn còn đó. Sự lừa đảo, giả dối, buôn
gian, bán lậu, bất chấp tính mạng con người, bất chấp sự trường tồn của nòi giống dân
tộc chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những người quản lý thiếu trách nhiệm, nói nhiều làm
ít, không dám công khai, vạch mặt chỉ tên những doanh nghiệp làm ăn gian dối, lừa đảo.
Chúng ta chưa “thừa” doanh nghiệp, doanh nhân. Nhưng điều quan trọng hơn không phải

nhiều là tốt. Phải sàng lọc để có văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp theo tinh
thần “thà ít mà tốt”.
4. Cũng tương tự như vậy, chúng ta có nhiều trường đại học, nhiều cơ sở giáo dục, đào
tạo, nhưng thiếu văn hóa trong giáo dục. Giáo dục là văn hóa nhưng lại thiếu văn hóa giáo
dục thì không thể chấp nhận được. Tư duy và quản lý giáo dục có vấn đề. Có những điều
Bác Hồ dạy từ lâu nhưng những người quản lý giáo dục lại không học và làm theo Bác, lại
làm ngược. Ví dụ: Bác dạy thi đua “Hai tốt” tức là thi đua “dạy tốt và học tốt”. Bác dạy như
vậy là đúng quy luật, phản ánh một khía cạnh của triết lý giáo dục, bao giờ cũng hướng
tới xây. Xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài. Bây giờ ta lại dạy “chống”. Chống mà không


xây thì vô nghĩa. Một hội chứng nói “không”, trong khi đó đáng lý phải nói “có” mới khoa
học, đúng quy luật. 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi, hiện nay treo trang trọng trong các trường
tiểu học và trung học cơ sở là Bác dạy “có” chứ có dạy “không” đâu. Nguy hiểm hơn là
trong tư duy của văn hóa quản lý giáo dục vẫn còn nặng về thi cử và thành tích, cho nên
mới có chuyện “chống tiêu cực trong thi cử và chống bệnh thành tích”. Một nền giáo dục
mà vẫn làm cho người học “trăn trở” với hai chữ thi cử thì đó là một nền giáo bằng không.
Học thì phải thi, nhưng nếu người dạy và người học quan niệm dạy và học chỉ để thi, xong
thi là hết, không còn đau đáu với số phận đất nước, sự trường tồn của dân tộc, thì lấy đâu
ra nguồn nhân lực chất lượng cao để phục vụ đất nước. Thiếu văn hóa trong quản lý giáo
dục thì không thể có văn hóa giáo dục được, càng không thể có một khả năng sánh vai
với các cường quốc năm châu.
Một biểu hiện khác trong thiếu văn hóa giáo dục là thiếu tư duy khoa học về giáo dục.
Chúng ta xây dựng một nền giáo dục, đào tạo những người đi giáo dục chứ không phải
tạo ra những người đi dạy học. Giáo dục rộng hơn dạy học. Trong giáo dục phải cho
người học hiểu, bên cạnh những mặt tốt, còn phải chỉ ra những mặt xấu, hạn chế. Nếu
chúng ta chỉ tuyên truyền cái tốt (đánh giặc chỉ có thắng, không bao giờ thua, chẳng hạn)
thì phản giáo dục, lợi bất cập hại. Giáo dục truyền thống dân tộc mà chí nói tới cái tốt,
không chỉ ra, phân tích những hạn chế của truyền thống (Bác Hồ gọi là những thói quen,
truyền thống lạc hậu) thì nguy hiểm quá. Người Việt, bên cạnh nhiều ưu điểm cũng không

thiếu những thói hư, tật xấu. Xưa nay, vì một kiểu giáo dục một chiều, tức thiếu văn hóa
giáo dục, nên người học có khi chỉ biết “ta thắng địch thua”, người Việt Nam chỉ có tốt
không có gì xấu, Đảng ta chỉ có mặt mạnh, không có mặt yếu. Đó là những trở lực trên
con đường phát triển mà ta không lường hết được.
5. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Từ đó
đến nay, Đảng ta và cán bộ, đảng viên có quyền lực chính trị, tức là quyền lãnh đạo đất
nước, xã hội. Có được thành quả đó là nhờ sự hy sinh xương máu của bao chiến sĩ yêu
nước, cách mạng và đồng bào, đồng chí. Chúng ta cần trân trọng và tự hào với sự cầm
quyền của Đảng, vì đó là một bước phát triển của văn minh, tạo ra sức mạnh quản lý đất
nước.
Nhưng thật đáng buồn, đáng lên án là văn hóa cầm quyền, văn hóa quản lý của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở trong tình trạng báo động. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh:
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự
phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển
của đất nước”(1).
Chúng ta có đầy đủ và có nơi thừa các chức vụ, những người quản lý nhưng lại thiếu văn
hóa quản lý. Tham nhũng là gì? Là nhũng lạm (cách gọi chính danh tham nhũng của Bác
Hồ). Nhũng lạm là lợi dụng quyền lực để tham ô và nhũng nhiễu dân. Những người như
vậy là thừa quyền lực nhưng thiếu văn hóa cầm quyền. Sự đổ vỡ của Vinasin và nhiều
hạn chế, yếu kém trong các trường hợp tương tự là gì? Là thiếu văn hóa chính trị, văn
hóa lãnh đạo, quản lý. Những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp ở đó thiếu, yếu
kém cả đạo đức và trình độ quản lý. Có khuyết điểm trong quản lý ngành mình, bộ mình,
địa phương mình mà không dám nhận lỗi, không dám tự phê bình là thiếu văn hóa quản
lý. Có những lầm lỗi nặng nề mà không dám xin lỗi, từ chức là thiếu văn hóa chính trị mà
cụ thể là văn hóa từ chức. Đảng viên, cán bộ của một Đảng chân chính, cách mạng, là
đạo đức, là văn minh theo tấm gương Hồ Chí Minh là phải có văn hóa xin lỗi, văn hóa phê



bình và tự phê bình và dám từ chức khi làm mất lòng tin của nhân dân. Tại sao một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên khi có chút quyền hành trong tay lại lạm quyền, thích
dùng mệnh lệnh, vô cảm trước đời sống của nhân dân, thiếu trách nhiệm với dân? Là do
thiếu văn hóa chính trị. Tại sao một bộ phận không nhỏ cán bộ có khuynh hướng sai lệch
về quyền lực như quan liêu, cậy thế cậy quyền, lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực,
say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, tham quyền cố vị…,
những tệ nạn có nguy cơ làm sụp đổ chế độ, liên quan đến sự tồn vong của đất nước của
Đảng? Vì thiếu văn hóa chính trị, văn hóa cầm quyền, văn hóa quản lý. Lẽ thường những
người dốt nát lại thích quyền lực, say mê quyền lực và lạm quyền. Họ không rèn đức,
luyện tài mà rèn công nghệ tìm kiếm, săn, mua quyền lực. Có quyền rồi thì đục khoét dân,
ăn của đút. Đối với anh em, đồng chí thì dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của
mình (Bác Hồ gọi là đạo vị).
Thế giới trong những tháng ngày qua có hai sự kiện liên quan đến chủ đề bài viết. Một là,
trận động đất hiếm có trong lịch sử đã làm cho nhân dân Nhật Bản chịu nhiều tổn thất quá
nặng nề về người và tài sản. Nhưng nước Nhật nhanh chóng phục hội và đứng dậy. Một
sức mạnh phi thường nhờ nội sinh văn hóa đã thấm sâu vào từng tế bào của xã hội, thấm
vào máu thịt của từng con người Nhật Bản khi còn trong bào thai mẹ. Vì vậy, dù sóng to,
gió lớn, trở lực khó khăn, người Nhật Bản vẫn ngẩng cao đầu, xứng đáng để cả thế giới
ngưỡng mộ và khâm phục. Hai là nước Anh hồi đầu tháng đã có cuộc bạo loạn tồi tệ nhất
trong 25 năm qua. Ngày 15-8-2011 Thủ tướng Anh Davit Cameron nói rằng, “nước Anh
đang phải đối mặt một nền văn hóa lười biếng, vô trách nhiệm và ích kỷ – nguyên nhân
chính làm bùng lên cuộc bạo loạn kéo dài 4 ngày qua khiến 5 người chết, hàng ngàn
người bị truy tố tội hình sự, thiệt hại hàng trăm triệu USD”. Ông cho rằng “vụ bạo loạn vừa
qua làm thức tỉnh cả nước, các vấn đề xã hội vốn âm ỷ hình thành nhiều thập kỷ qua đã
bùng nổ ngay trước mắt mọi người. Chứng kiến cảnh bạo loạn trên đường phố, ai cũng
muốn những vấn đề xã hội này được giải quyết và sự xuống cấp đạo đức bị đẩy lùi”. Thủ
tướng Cameron hứa sẽ chấm dứt một nền văn hóa e dè, sợ hãi trong việc thảo luận
trường hợp gia đình tan vỡ, cha mẹ nghèo đói, hoặc trong việc chỉ trích những phụ huynh
không nêu gương tốt cho con em họ cũng như cộng đồng”.

Thiếu “vốn kinh tế”, chưa có kỹ thuật, khoa học công nghệ, vật chất thì 30 năm, 50 năm,
chậm lắm là một thế kỷ, sẽ có. Nhưng suy giảm “vốn xã hội”, thiếu văn hóa, xuống cấp,
suy đồi về văn hóa thì một thế kỷ rất khó phục hồi, thậm chí mất cả thiên niên kỷ. Nhưng
điều nguy hiểm hơn là trong hàng trăm năm đó chúng ta mấtnền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, mất sức mạnh nội sinh, nguồn lực xã hội to lớn, không có động lực của phát
triển

phát
triển
không

mục
tiêu.
————–
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.173.

KHÔNG TIẾN HÓA THÌ MỌI THỨ BỊ XÓA BỎ
có phải 'Văn hóa xây nên được tháp Văn minh' ?
Nguyễn Tất Thịnh

05:54' AM - Thứ bảy, 08/08/2015


Tôi nghe thấy không ít học giả hay bình luận: ở Nước ta có nhiều người bị gọi là 'trọc phú' 'thừa
văn minh nhưng thiếu văn hoá' !' . Hẳn họ có ý mặc nhiên: Văn hoá cao hơn Văn minh! Còn tôi
cho rằng : Văn hoá là nền, Văn minh là đỉnh! Văn hoá tuyệt vời mới tạo nên đỉnh cao đẹp... Đáng
ngại hơn khi có trào lưu tôn giữ mọi thứ thuộc về ngày xưa, kể cả các nhà tù ở một số nơi ( ??? )
vì nghĩ chúng là một phần của thứ Văn hoá gì đó!!!!


Định nghĩa về VĂN HOÁ: là toàn bộ hệ giá trị của một Cộng đồng / Dân tộc / Quốc gia ( bao
gồm vật thể và phi vật thể ) được khai nguyên, tích tụ , phát triển mang tính truyền thống, thành các
: tập quán / tục lệ / nghi lễ / tín ngưỡng / nhân sinh quan... như chuẩn mực ứng xử với nhau / xã hội
/ thiên nhiên cho hầu hết những thành viên trong đó!
Như vậy Văn Hoá chứa đựng những giá trị tinh thần, mang tính cội nguồn, tính động lượng, tính
định hướng ( với cá nhân và số lớn ) của mỗi Cộng đồng / Dân tộc / Quốc gia, tạo nên NĂNG LỰC
CHUYỂN HOÁ ( bản chất của các DÒNG SỐNG )
. Tính Cội nguồn ( mạnh hay yếu ) sẽ chi phối và tạo khuynh hướng và năng lực hướng nội và bảo
tồn, củng cố về bản sắc Ưu trội quá khứ
. Tính Động lượng ( mạnh hay yếu ) sẽ chi phối khuynh hướng và năng lực hành động, khai phóng
và thay đổi hiện tại
. Tính Định hướng ( mạnh hay yếu ) sẽ chi phối khuynh hướng và năng lực chí thú mục tiêu, tập
hợp lực lượng và đi đến tương lai
MẠNH thì đương nhiên là thúc đẩy phát triển tiến hoá, khiến các cá nhân thành viên trong hay cá
nhân bên ngoài Văn hoá đó đều được hưởng lợi ích với trình độ chất lượng văn minh cao trong lối
sống, cư xử, quản trị...ở mọi quy mô.

Suy tư, khảo nghiệm về ba thuộc tính trên, chúng ta thấy Văn hoá ( do hàm lượng và năng lực của
ba thuộc tính nói trên trong mỗi Cộng đồng ) mà có tác dụng chuyển hoá như thế nào, đến trình độ
gì hướng đến tiến hoá:
. Những Cộng đồng dày lịch sử, trong đó nhiều về Văn hoá không hẳn là mặc nhiên nhờ đó có thể
phát triển. Do vậy khái niệm Văn hoá dù là gốc rễ / dòng nhựa sống / bản sắc riêng không tự vốn
thế mà đồng nhất với tiến hoá văn minh. Vì thế không phải những gì thuộc về Văn hoá, được gọi là
Văn hoá cũng đáng ngợi ca, cố giữ gìn nếu đứng từ quan điểm tiến bộ Nhân loại )
. Văn hoá có lực đẩy / hút ( tĩnh ) và ly tâm / hướng tâm ( động ). Nếu lực hút / hướng tâm là chủ


đạo thì tương đồng với nghĩa Cộng đồng sở hữu thứ Văn hoá đi đến sự khép kín, tự cô lập...với
chuẩn riêng 'không giống ai' , chẳng hoà nhập được....dần đến trạng thái vừa tự cao tự đại vừa thoái
hoá về tinh thần, lối sống của mình. Có khuynh hướng quản trị xã hội bằng Văn hoá kiểu ( tập lệ,

phong tục, dị tín ...), trong đó chỉ lên ngôi những 'Thành Hoàng / Chánh tổng / Thày mo...cùng tệ
nạn....
. Văn hoá không đánh đồng được với tính Nhân Đạo khi không đạt đến giá trị phổ quát và phổ cập
toàn Nhân loại ( được thừa nhận là thuộc tính chung của mọi con người trong mọi không gian, thời
gian và hoàn cảnh sống ). Chẳng hạn cô Tấm là sản phẩm Văn hoá Việt không thể là biểu tượng
chung cho chân thiện mĩ được. Thứ văn hoá 'tắt lửa tối đèn có nhau' nhưng chẳng thể bảo vệ được
chị Dậu, không giúp chị khá lên, lại ngày càng sinh nở ra nhiều Lý trưởng và Nghị hách hiểm độc
hơn sau này...thì không thể ngợi ca cho được!
. 'Văn hoá kiến tạo Văn minh' mới thực cần thiết để chính Văn hoá đáng trở thành tài sản phái sinh
( chứ không phải là tiêu sản hay 'thứ cổ' không có tác dụng thúc đẩy đến tiêu chuẩn tiến hoá cao
hơn ! ). Trong đó hàm lượng của ba thuộc tính nêu trên đủ để Cộng đồng / Dân tộc / Quốc gia luôn
có Riêng, hướng đến Quý, đáng là Một đối với lịch sử tồn tại và phát triển của chính mình nhưng
đóng góp tích cực, hữu ích, mạnh mẽ cho phát triển chung với các Cộng đồng / Dân tộc / Quốc gia
khác
....
Chúng ta định nghĩa về VĂN MINH trong ý nói trên: là trình độ của các Cộng đồng / Dân tộc /
Quốc gia đạt được đến đâu trong việc tìm ra, ứng dụng, phổ cập những tiêu chuẩn chất lượng về
cách sống, làm việc, ứng xử trong mọi việc, lao động và quản trị từ cá nhân đến quy mô lớn, trong
đó kế thừa, tương thích, cộng hưởng, phát triển được những tinh hoa của các nền Văn hoá khác
nhau cho tiến trình tiến hoá của toàn Nhân loại
Chúng ta có rất nhiều ví dụ về những thứ vốn là Văn hoá hoặc là phái sinh của Văn hoá mà không
Văn minh :
. Phong tục đâm trâu / chém lợn / thậm chí tế thần đồng nam trinh nữ...
. Chùa chiền, đền miếu: nghi ngút khói hương, vàng mã, cô đồng, bói toán, giải hạn, cầu may...
. Ma chay, bốc mộ, cúng giỗ, cưới xin, lễ tết, hội hè... Đất lề quê thói...
. Đắp điếm, thờ phúng, linh thiêng hoá người đã chết, khiến người sống thêm ám muội
. Vô vàn những biến thể khác như: quan cách, phong bì, thân quen, xin cho...
....
Văn hoá đi ngược chiều tiến hoá bởi vì sự tự níu giữ với chuẩn giá trị quá khứ, không đồng nhịp
với con đường và nhu cầu phát triển cần thiết với tiến bộ của chính Cộng đồng của nó, của Nhân

lọai ! Bất cứ cá nhân cho đến Cộng đồng nào cũng có Văn hoá ( thậm chí nhiều và dày ), nhưng
chất lượng của thứ Văn hoá đó là gì, như thế nào, có xây nên được các tầng tháp Văn minh không
lại là chuyện khác ! Trên đầm lầy u tối, mục rỗng, ám khí chỉ mọc được những cây quăn queo lúp
xúp, những con chui nhủi bạc nhược....sao có thể xây nên toà tháp nào đây? Muốn xây phải nạo
vét, cải tạo tính chất 'đầm lầy' đó!
....
Vậy Văn hoá tuyệt vời là gì? LÀ THỨ VĂN HOÁ VỚI BA THUỘC TÍNH CƠ BẢN NÓI TRÊN
HỘI NHẬP ĐƯỢC VỚI TÍNH NHÂN ĐẠO, CÓ NĂNG LỰC XÂY DỰNG NÊN VĂN MINH
VÀ ĐÓNG GÓP VÀO TIẾN HOÁ CHUNG CỦA NHÂN LOẠI


Tâm thư ông chủ Facebook gửi con gái sơ sinh
‘Như các bậc cha mẹ khác, chúng ta mong con có thể lớn lên trong một thế giới tốt
đẹp hơn ngày hôm nay’.
Nhân sự kiện con gái chào đời, nhà sáng lập Facebook đã viết một bức thư gửi con gái
dài hơn 2.200 từ, trong đó hy vọng sẽ xây dựng cho con một thế giới tốt đẹp hơn.
Thư gửi con gái Max yêu quý!
Mẹ con và cha vẫn không thể nào bày tỏ hết niềm hy vọng mà con mang đến cho chúng
ta vào tương lai. Con có cả một cuộc sống đầy hứa hẹn. Cha mẹ mong con luôn luôn
hạnh phúc và khỏe mạnh để có thể khám phá nó thật trọn vẹn. Con đã cho chúng ta một
lý do để nghĩ về tương lai, về thế giới mà con sẽ sống.
Giống như tất cả những bậc làm cha, làm mẹ khác, chúng ta mong con có thể lớn lên
trong một thế giới tốt đẹp hơn so với ngày hôm nay.
Trong khi những bài báo thường tập trung phản ánh những điều sai trái, song bằng nhiều
cách khác nhau, thế giới đang dần trở nên tốt đẹp hơn. Sức khỏe được cải thiện. Cái
nghèo dần bị xua đuổi. Kiến thức ngày một gia tăng. Con người đang ngày càng kết nối
với nhau hơn. Tiến bộ công nghệ khiến cuộc sống của con tốt hơn hẳn so với chúng ta
hôm nay.
Chúng ta sẽ cố gắng làm tốt phần của mình để mang đến những điều này, không chỉ vì
yêu con mà còn vì trách nhiệm đạo đức đối với những đứa trẻ trong các thế hệ kế tiếp.

Chúng ta tin rằng mọi sinh mệnh đều có giá trị ngang bằng nhau, trong đó thế hệ tương lai
sẽ chiếm phần chủ yếu. Xã hội của chúng ta có nghĩa vụ phải đầu tư cho hiện tại để cải
thiện cuộc sống của tất cả những người sẽ sinh ra, sẽ có mặt trong tương lai chứ không
chỉ vì những người đã và đang ở đây lúc này.
Nhưng ngay lúc này, thế giới của cha mẹ lại không tập trung hướng tới những lợi ích
chung của hai thế hệ, cũng là các vấn đề mà thế hệ các con sẽ phải đối mặt.
Đơn cử như bệnh tật. Ngày nay, chúng ta tiêu tốn một khoản tiền chăm sóc bệnh nhân
nhiều gấp 50 lần những gì đầu tư cho nghiên cứu trị liệu, điều sẽ giúp các con tránh khỏi
bệnh tật trong tương lai.
Y học chỉ thực sự trở thành một ngành khoa học đích thực trong ít nhất 100 năm tới.
Chúng ta đã tìm thấy những phương pháp chữa trị hoàn chỉnh cho một số căn bệnh và
những liệu trình điều trị tốt nhất cho mọi người. Khi công nghệ phát triển tăng tốc, chúng
ta sẽ có được một cú bứt phá trong việc ngăn ngừa, chữa trị hay quản trị tất cả những thứ
đó trong vòng 100 năm tới.
Ngày nay, hầu hết mọi người đều chết vì năm căn bệnh chủ yếu: tim mạch, ung thư, đột
quỵ, suy nhược thần kinh và các bệnh truyền nhiễm. Chúng ta có thể thay đổi những điều
này.


Chữa trị bệnh sẽ mất rất nhiều thời gian. Trong một khoảng thời gian ngắn chừng 5 năm
hay 10 năm, có vẻ như chúng ta không tạo ra được sự khác biệt. Nhưng về lâu dài, hạt
giống được gieo trồng ấy sẽ phát triển rồi đến một ngày con và con cái của mình sẽ thấy
những gì mà chúng ta vẫn đang hằng mơ ước: một thế giới không có bệnh tật…

Hy vọng của chúng ta vào thế hệ các con tập trung ở hai điều: đẩy mạnh tiềm năng của
con người và thúc đẩy sự bình đẳng. Phát triển tiềm năng con người là kéo dài biên giới
sự sống của con người thêm. Thế hệ các con có thể học hỏi và trải nghiệm mọi thứ nhiều
hơn gấp 100 lần so với chúng ta ngày nay không? Các con có thể sống lâu hơn và khỏe
mạnh hơn so với chúng ta không? Chúng ta có thể kết nối với cả thế giới để tạo ra những
cơ hội, ý tưởng mới không? Chúng ta có thể khai thác năng lượng sạch hơn để bảo vệ

môi trường hơn không?
Thúc đẩy bình đẳng là đảm bảo tất cả mọi người có thể tiếp cận với các cơ hội bất kể dân
tộc, gia đình, hoàn cảnh mà học được sinh ra. Chúng ta làm điều này không phải vì công
lý hay sự từ thiện mà là vì sự tiến bộ vĩ đại của con người. Chúng ta có thể xóa bỏ đói
nghèo không? Chúng ta có thể cung cấp những dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản đến
cho mọi người không? Chúng ta có thể nuôi dưỡng những mối quan hệ giữa trên hòa
bình và hữu nghị giữa các quốc gia không? Chúng ta có thể thực sự trao quyền làm chủ
cho tất cả mọi người: phụ nữ, trẻ em, những dân tộc thiểu số hay người nhập cư không?
Câu trả lời cho những câu hỏi đó đang chờ thế hệ các con giải đáp!
Để đạt được những mục tiêu phát triển tiềm năng con người và thúc đẩy bình đẳng ấy,
chúng ta sẽ phải có những cách làm mới. Chúng ta phải có những khoản đầu tư dài hạn
trong 25, 50 hay thậm chí là 100 năm. Những thách thức lớn đòi hỏi một thời gian rất dài
mà không thể giải quyết chúng một sớm một chiều.
Chúng ta phải đặt mình vào vị trí của những người mà chúng ta phục vụ. Không thể trao
quyền cho mọi người một khi ta không hiểu được nhu cầu và mong muốn của họ. Chúng
ta phải xây dựng công nghệ để làm nên thay đổi. Rất nhiều tổ chức đầu tư tiền bạc để
vượt qua thách thức nhưng những gì tiến bộ nhất lại đến từ việc tăng năng suất thông qua
cải tiến, phát minh.


Chúng ta phải tham gia vào các chính sách và vận động các cuộc tranh luận. Nhiều tổ
chức không sẵn sàng cho điều này nhưng những tiến bộ phải được hỗ trợ bởi những
chính sách bền vững.
Chúng ta phải ủng hộ những chuyên gia mạnh mẽ và độc lập nhất ở trong mỗi lĩnh vực.
Việc hợp tác với họ sẽ hiệu quả hơn là việc cố gắng thực hiện các nhiệm vụ bằng nỗ lực
cá nhân.
Chúng ta phải chấp nhận rủi ro ngày hôm nay để có được những bài học cho ngày mai.
Chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề đau đầu. Chúng ta vẫn còn dò dẫm và gặp
thất bại nhưng sẽ luôn lắng nghe và học hỏi để tiếp tục tiến lên.
Kinh nghiệm của chúng ta trong những việc như: học tập cá nhân, truy cập internet, giáo

dục cộng đồng và y tế cộng đồng đã định hình triết lý của chúng ta. Thế hệ của chúng ta
lớn lên trong những lớp học mà tất cả đều học được những điều tương tự nhau, với tốc
độ như nhau bất kể lợi ích hay nhu cầu của mỗi người là khác nhau.
Thế hệ các con sẽ biết cách tự đặt ra mục tiêu của đời mình: trở thành một kỹ sư, một
nhân viên y tế, nhà văn hay nhà lãnh đạo. Các con có công nghệ và đủ thông minh để biết
được học thế nào là tốt nhất và cần phải tập trung vào điều gì. Các con sẽ mau chóng đạt
được thành công trong những môn học mà mình quan tâm nhất, nhận được những sự trợ
giúp nhiều như mình mong muốn vào những lúc khó khăn nhất.
Các con sẽ khám phá được những thứ thậm chí không được dạy ở trường lúc này. Các
giáo viên cũng sẽ có những công cụ và dữ liệu tốt hơn để truyền dạy cho con, giúp con
đạt được mục tiêu của mình. Thậm chí, sinh viên trên toàn thế giới còn có thể sử dụng
những công cụ học tập cá nhân thông qua Internet ngay cả khi họ không sống gần những
trường đại học tốt nhất.
Tất nhiên là sẽ mất rất nhiều công sức và cần rất nhiều công nghệ để mang đến cho mọi
người một sự khởi đầu công bằng trong cuộc sống. Nhưng học tập cá nhân có thể là cách
đem đến cho trẻ em một nền giáo dục tốt hơn, với những cơ hội bình đẳng hơn.

Ngay lúc này chúng ta đang xây dựng những điều trên và kết quả là rất hứa hẹn. Không
chỉ giúp sinh viên thực hiện tốt các bài kiểm tra, nó còn trao cho họ những kỹ năng và sự
tự tin để tìm hiểu bất cứ điều gì họ muốn. Và cuộc hành trình mới chỉ bắt đầu mà thôi. Khi
con đi học, công nghệ giảng dạy sẽ mau chóng cải thiện hàng năm một.


Mẹ của con và cha đều từng giảng dạy sinh viên và chúng ta hiểu hơn ai hết những gì
công nghệ có thể mang lại. Nó sẽ giúp kết nối với những nhà lãnh đạo giáo dục lớn nhất
thế giới và giúp những trường học trên toàn cầu nuôi dưỡng việc học tập cá nhân. Nó sẽ
kết nối với các diễn đàn cộng đồng (đó là lý do vì sao chúng ta đang bắt đầu khởi động
diễn đàn San Francisco Bay Arena của mình). Nó sẽ xây dựng nên một nền công nghệ
mới với những ý tưởng mới. Nó sẽ học được những bài học lớn lao từ sai lầm để tiến tới
thành công.

Một khi chúng ta hiểu được thế giới mà mình có thể tạo ra cho các con, chúng ta có trách
nhiệm tập trung đầu tư vào tương lai để biến điều đó thành hiện thực. Chúng ta sẽ cùng
nhau làm nên điều này.
Những cơ hội lớn nhất đến với các con sẽ được tạo ra bằng việc tất cả mọi người đều có
thể truy cập Internet. Mọi người thường nghĩ rằng Internet chỉ là thứ để giải trí hoặc liên
lạc thông tin. Nhưng với rất nhiều người trên thế giới, Internet có thể còn là một con
đường sống. Nó cung cấp cho họ một cơ hội học tập khi khoảng cách địa lý ngăn trở họ
tới những trường học tốt nhất. Nó cung cấp thông tin y tế để phòng tránh các căn bệnh
hay nuôi con khỏe mạnh hơn nếu họ không ở gần một bác sĩ. Nó cung cấp những dịch vụ
tài chính nếu họ không sống gần một ngân hàng. Nó cũng cho họ cơ hội việc làm nếu họ
không sống trong một nơi có kinh tế phát triển.
Internet thực sự rất quan trọng. Cứ khoảng 10 người truy cập Internet thì có một người
thoát được cảnh đói nghèo và kiếm thêm được một việc làm. Nhưng vẫn còn đó hơn một
nửa dân số thế giới, hơn 4 tỷ người không có quyền truy cập Internet. Nếu chúng ta có
thể kết nối với họ, hàng trăm triệu người có thể thoát khỏi đói nghèo. Chúng ta cũng có
thể giúp hàng trăm triệu trẻ em được tới trường học hành và cứu được hàng triệu mạng
sống bằng cách cho mọi người tiếp cận với thông tin phòng tránh bệnh dịch.
Công nghệ và sự hợp tác có thể giúp ích rất nhiều cho những nỗ lực dài hạn đó. Sẽ có
một công nghệ mới khiến cho Internet có giá cả phải chăng hơn và mang lại quyền truy
cập Internet tới những vùng xa xôi, khó khăn nhất. Nó sẽ mang tới sự hợp tác giữa các
chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận và các công ty. Nó sẽ hòa mình với cộng đồng để hiểu
thứ họ cần. Mỗi người đều có quan điểm riêng về con đường đi tốt nhất nhưng chúng ta
đều phải nỗ lực rất nhiều trước khi muốn thành công. Chỉ có cùng nhau chung tay hành
động, chúng ta mới có thể tạo ra một thế giới bình đẳng hơn.
Nhưng chỉ riêng công nghệ, tự nó, không thể giải quyết được vấn đề. Xây dựng một thế
giới tốt đẹp hơn bắt đầu từ việc xây dựng những cộng đồng bền vững và khỏe mạnh. Trẻ
em có được cơ hội học hỏi tốt nhất chỉ khi chúng được khỏe mạnh trong tình yêu thương
gia đình, một chế độ chăm sóc dinh dưỡng tốt và một môi trường ổn định.
Trẻ em phải đối mặt với những trải nghiệm bất hạnh với trong cuộc sống thường phát triển
trí não và thể chất kém lành mạnh. Những nghiên cứu cho thấy thay đổi về mặt vật lý

trong não bộ khiến cho khả năng nhận thức thấp đi.
Mẹ của con là một bác sĩ và một chuyên gia giáo dục. Cô ấy hiểu điều này hơn ai hết. Nếu
các con có một tuổi thơ không lành mạnh, thật khó khăn để con có thể phát huy đầy đủ
tiềm năng của mình. Nếu con phải chật vật vì kế sinh nhai, về cái ăn, cái mặc, lo lắng vì bị
lạm dụng hay tệ nạn, con không thể phát huy tiềm năng. Nếu các con lo sợ phải đi tù chứ
không phải là đi học vì màu da của mình, lo sợ rằng gia đình sẽ bị trục xuất vì nhập cư bất
hợp pháp, nếu các con là nạn nhân của bạo lực vì lý do tôn giáo, thật khó để phát huy
tiềm năng của mình.


Chúng ta cần một thể chế giáo dục mới, trong đó tất cả được kết nối với nhau. Đó là triết
lý mà mẹ của con đang theo đuổi. Bằng cách hợp tác với các trường học, trung tâm y tế,
các phụ huynh và chính quyền địa phương, bằng cách đảm bảo tất cả trẻ em đều được
chăm sóc tốt nhất, chúng ta có thể bắt đầu dẹp bỏ những bất bình đẳng bằng sự kết nối.
Chỉ khi kết nối với nhau, chúng ta mới có thể cung cấp cho tất cả mọi người một cơ hội
bình đẳng.
Sẽ phải mất rất nhiều năm để phát triển đầy đủ mô hình này. Nhưng đó là một ví dụ sinh
động khác cho cách thức phát huy tiềm năng và thúc đẩy bình đẳng con người. Nếu muốn
làm bất cứ điều gì trong hai điều ấy, ta cần xây dựng được một cộng đồng toàn diện và
khỏe mạnh.
Thế hệ của con sẽ sống trong một thế giới tốt hơn, tốt hơn rất nhiều so với thế hệ của
chúng ta. Hôm nay, mẹ của con và cha đã cam kết sẽ dành cuộc sống của mình để cống
hiến chút sức lực nhỏ bé giúp giải quyết những thách thức lớn kia. Cha sẽ tiếp tục phục
vụ cộng đồng như một Giám đốc điều hành của Facebook trong những năm tới. Nhưng
những việc quan trọng hơn vẫn còn chờ con thực hiện một khi con đã trưởng thành còn
chúng ta thì quá già để có thể gánh vác.
Khi con trở thành thế hệ kế tiếp của gia đình Chan – Zuckerberg, chúng ta cũng đã thống
nhất rằng sẽ lập ra quỹ Zuckerberg Chan để thúc đẩy tiềm năng con người và sự bình
đẳng cho tất cả các trẻ em trong thế hệ tương lai. Những lĩnh vực đầu tiên mà chúng ta sẽ
thực hiện sẽ là học tập cá nhân, chữa trị bệnh tật, kết nối cá nhân và xây dựng một cộng

đồng vững mạnh. Chúng ta sẽ hiến tặng 99% cổ phần Facebook của mình, hiện trị giá
khoảng 45 tỷ USD cho quỹ để thúc đẩy sứ mệnh này.
Chúng ta biết đây chỉ là một đóng góp nhỏ bé so với tất cả nỗ lực và công sức mà những
người đi trước đã làm trong lĩnh vực này. Nhưng chúng ta muốn chung tay cùng góp sức.
Chúng ta sẽ chia sẻ chi tiết kế hoạch trong vài tháng tới khi giải quyết xong những chuyện
cá nhân gia đình.
Chúng ta làm điều này chỉ bởi vì đằng sau lưng mình là một cộng đồng toàn cầu mạnh
mẽ. Xây dựng Facebook đã tạo ra một nguồn lực lớn để cải thiện thế giới cho các thế hệ
tiếp theo. Mỗi thành viên trong cộng đồng Facebook đều đang đóng góp một phần trong
công việc này.
Chúng ta có thể thực hiện được những điều lớn lao này chỉ bằng cách “đứng trên vai”
những người khổng lồ là đủ: những chuyên gia, cố vấn, các đối tác và nhiều con người tài
giỏi khác đang ngày đêm góp sức trong lĩnh vực này.
Chúng ta cũng chỉ có thể tập trung phục vụ cộng đồng bởi vì được sống giữa vòng tay yêu
thương của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là điều tuyệt vời. Chúng ta hy vọng con cũng
sẽ có được những mối quan hệ sâu sắc và tràn đầy cảm hứng như thế trong cuộc sống
của mình.
Max, chúng ta yêu con và cảm thấy cần phải có trách nhiệm mang đến một thế giới tốt
đẹp hơn cho con và tất cả các trẻ em khác. Chúng ta muốn con có một cuộc sống tràn
ngập tình yêu, hy vọng và niềm hạnh phúc. Chúng ta không thể đợi để xem những gì con
mang đến thế giới này.


Những tư tưởng tạo nên bước nhảy vọt kỳ diệu của
Nhật Bản
Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
04:46' CH - Thứ ba, 15/12/2015

Những tư tưởng làm nên bước nhảy vọt của Nhật Bản Fukuzawa Yukichi (1835-1901) là một nhà tư
tưởng "khai quốc công thần" có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại. Những

tư tưởng về chính trị, xã hội, kinh tế mà Fukuzawa truyền bá đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
của Nhật Bản cận đại.
Tài năng và nhân cách Fukuzawa Yukichi thăng hoa cùng với những năm tháng của cuộc cải cách
Minh Trị duy tân. Ông đã để lại trước tác với số lượng lên tới hàng vạn trang, trong đó tiêu biểu
phải kể đến là"Khuyến học" (Gakumon no susume) được ông viết trong thời gian 1872 - 1876.
Khi mới được in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi
dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây
thực sự là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kỳ Duy Tân. Kể từ đó đến
nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục, chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản
Iwanami Bunko cũng đã tái bản đến 76 lần.
Trong cuốn sách này, Fukuzawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực
thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của nền học vấn
mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị... Khuyến Học đã làm lay
chuyển tâm lý người dân Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Với tuyên ngôn "Trời không tạo ra người
đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người", Fukuzawa Yukichi đã gây kinh
ngạc và bàng hoàng - như "không tin vào tai mình" - cho đa số người dân Nhật Bản vốn bị trói buộc
bởi đẳng cấp, thân phận, quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền suốt hàng trăm năm dưới
chính thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác
biệt là do trình độ học vấn.
Về học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học "từ chương" và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây
dựng nền học vấn dựa trên "thực học". Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng
ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh
phương Tây phải có chọn lọc.
Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là "Làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản" trong bối cảnh
các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa.Với độc giả Việt Nam
hiện nay, nhiều tư tưởng của Fukuzawa Yukichi trong Khuyến Học có lẽ không còn là điều mới mẻ
gân chấn động lòng người như đối với người dân Nhật Bản ở thời Minh Trị. Tuy nhiên, cách đặt
vấn đề của ông thì vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với những quốc gia đang trên con đường
hiện đại hóa.
Cuốn "cẩm nang" của người Nhật này cũng sẽ giúp cho độc giả Việt

Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính cách và tinh thần của
người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô "ăn
nhờ ở đậu", nhờ có sự khai sáng của những con người như
Fukuzawa Yukichi mà đã trở thành "quốc dân" của một đất nước
Nhật Bản hiện đại và văn minh như ngày nay.
Xin trích giới thiệu một số trích đoạn của cuốn sách với bạn đọc.
Các bạn cũng có thể click vào đây để download e-book cuốn sách
(.PRC file).


Trích cuốn Khuyến Học, Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
1. Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì Lòng yêu nước cũng hàm hồ,
nông cạn, vô trách nhiệm.
2. Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc (độc lập, tự do) thì dù có phải biến cả thế giới
thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính
quyền lộng quyền?
3. Đáng buồn là nước ta chỉ có người Nhật mà không có quốc dân Nhật.
4. ...đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng
trong cuộc đọ sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn
ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con
mắt người phương Tây.
5. Thử nhìn lại xem, không ít người trong nhân dân dưới thời Minh Trị vô học, mù chữ, cái thiện,
cái ác không phân biệt nổi, chỉ biết ăn xong rồi lại ngủ, "vô công rồi nghề". Không những thế,
thường đã ngu dốt lại hay tham vọng, tìm mọi cách lừa đảo, luồn lách pháp luật, không cần hiểu ý
nghĩa của luật pháp, không cần biết đến nghĩa vụ của bản thân, chỉ biết đẻ cho thật nhiều con nhưng
lại không hề chăm sóc, dạy dỗ chúng.
Những kẻ ngu dốt đó không biết xấu hổ và con cái của họ khi lớn lên cũng chẳng có ích gì cho đất
nước, trái lại chỉ là gánh nặng, nỗi khổ cho xã hội. Xã hội mà toàn là những con người như vậy thì
có đem đạo lý ra giảng giải cũng vô ích, chỉ còn cách buộc phải làm là dùng sức mạnh để răn đe, để
trấn áp những hành động bạo lực, hành vi quậy phá, phá rồi mà thôi. Đó cũng là lý do khiến cho các

chính phủ chuyên chế, chính phủ độc tài được thể tồn tại trên thế giới.
6. Nước Nhật chúng ta hiện nay yếu kém, hoàn toàn không thể sánh vai với các cường quốc Âu, Mỹ
giàu mạnh. Nhưng về quyền lợi, với tư cách là một quốc gia, thì chúng ta hoàn toàn ngang hàng với
họ. Trường hợp nếu các cường quốc phương Tây đi ngược lại đạo lý quốc tế, xâm phạm đến lãnh
thổ của chúng ta thì cho dù có phải biến cả thế giới này thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ.
Như tôi đã nói ở phần 1, khi đất nước bị làm ô nhục thì tất cả người Nhật chúng ta sẵn sàng xả thân
để bảo vệ đến cùng thanh danh của Tổ quốc.
Nhưng, còn tình trạng giàu, nghèo, mạnh, yếu dứt khoát không phải là do mệnh Trời hoặc là do ý
Trời mà ta đành phải cam chịu. Mà đó là do con người có nỗ lực hay không chịu nỗ lực mà thôi.
Nhờ nỗ lực như thế, không biết chừng mới hôm qua còn là kẻ ngu dốt, nhưng ngày mai đã trở thành
người tài giỏi; mới hôm qua còn tự vỗ ngực giàu mạnh, nhưng ngày mai trở nên hèn kém. Từ xa
xưa, lịch sử đã nhiều lần minh chứng cho điều này.
7. Nếu như toàn thể quốc dân, ai nấy đều chỉ tìm cách dựa dẫm hay ỷ lại vào người khác, không có
tính tự lập thì khi ra xã hội cũng sẽ lại trở thành những kẻ chuyên ăn bám đục khoét tiền của của đất
nước, của các tổ chức xã hội. Giữa cá nhân với cá nhân có lẽ cũng chẳng còn ai sẵn lòng giúp đỡ ai.
Tất cả đều dửng dưng với nhau, còn nhìn thấy người mù lòa qua đường cũng không có một ai chìa
tay ra giúp đỡ...


8. Cổ nhân có câu: "Dân thì phải tuân theo sự cai trị. Còn cai trị thế nào thì dân không cần phải
biết". Câu này có nghĩa là ở trên đời, những người hiểu được đạo lý không nhiều. Chi bằng thiểu số
người đó lên nắm chính trị, cai trị nhân dân, bắt dân phai tuân theo chính sách vạch ra là được.
Không cần phải thông báo hay giải thích gì cả. Như thế tốt hơn là việc cái gì cũng phải giải thích,
phải cắt nghĩa, mà có giải thích xong, cắt nghĩa xong thì đâu lại vào đấy cứ như nước đổ đầu vịt
vậy.
Đây là lời răn của Khổng Tử. Nhưng lời răn này thật phi lý, hoàn toàn xa rời thực tế.
Người có năng lực để có thể cai trị được dân chúng thật ra rất ít ỏi. Trong cả ngàn người may ra mới
có được một người. Giả dụ, dân số của một quốc gia nọ là một triệu người. Trong số đó chỉ có
1.000 người có tri thức. 990.000 người còn lại là những kẻ một chữ cắn đôi cũng chịu. Cứ cho rằng
1.000 người có trí tuệ đó, cai trị số dân ngu bằng tất cả lòng yêu thương, chăm bẵm họ như chăm

bẵm bầy cừu. Và 990.000 người mù chữ này cũng một mực tuân theo lời răn dạy của "cha mẹ dân",
sống trong cảnh ngu si hưởng thái bình. Cứ như thế, dần dần quan hệ chủ nhân và khách ăn nhờ ở
đậu. Mà đã là phận khách ăn nhờ ở đậu thì nhân dân (khách) cứ chỉ biết dựa vào chính phủ (chủ
nhân). Người dân đâu cần màng tới việc nước, càng không chút mảy may lo lắng vận mệnh quốc
gia. Việc quốc gia đại sự đã có chủ nhân lo rồi...
9. Dưới mắt tôi, việc điều hành đất nước không mang lại kết quả cũng có nghĩa là trình độ của
chính phủ Minh Trị đại để cũng chỉ như trình độ của chính quyền phong kiến chuyên chế mà chúng
ta đã lật đổ. Nhân dân ta vẫn còn trong vòng u mê như xưa, cũng có nghĩa là người dân dưới thời
Minh Trị cũng vẫn chỉ là người dân dưới thời Mạc phủ, không hơn không kém. Hãy thử so sánh
công lao, sức lực, tiền của mà chính phủ đã bỏ ra với kết quả đạt được thì mới thấy ít ỏi biết nhường
nào.
Qua đó tôi muốn khẳng định với mọi người rằng nền văn minh của quốc gia không thể tiến bộ nếu
chỉ bằng quyền lực của chính phủ.
10. Trên cương vị cá nhân thì người nào cũng tỏ ra thông thái. Nhưng hễ trở thành quan chức chính
quyền thì sự thông thái thường thấy lại biến đi đâu mất. Nhưng khi tập hợp nhau trong tập thể thì
cái cảnh "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" thường xuyên xảy ra.
Tôi buộc phải nói rằng chính phủ Nhật Bản hiện nay là một tổ chức của nhiều người có tri thức, tập
hợp nhau lại để làm một việc hồ đồ. Có lẽ họ đã không thể phát huy được cá tính vì bị trói buộc bởi
nếp nghĩ theo kiểu "chủ nghĩa bình yên vô sự".


Chính sách của chính phủ không hiệu quả là vậy. Bằng một số kế sách như dùng những lời lẽ hoa
mỹ mị dân, dùng quyền lực, áp đặt văn minh.... chính phủ có thể giật dây được dân chúng. Nhưng
như thế cũng chỉ là nhất thời mà thôi. Chính phủ trị dân bằng uy quyền thì dân sẽ đáp lại bằng sự
giả vờ chấp hành. Chính phủ lừa dối cũng sẽ tạo ra vỏ bọc hữu hiệu. Mà cứ như vậy thì không thể
chỉ dựa vào quyền lực để thúc đẩy văn minh xã hội.
11. Từ đời này qua đời khác, người ta chỉ học để làm quan chứ có ai muốn học để làm dân đâu.
Làm quan đã trở thành cái đích trong cuộc đời. Ngay cả các bậc tiên sinh danh giá cũng không thoát
khỏi ảnh hưởng đó. Tuy nhiên, xu hướng "làm quan" cũng là điều dễ hiểu vì khí chất xã hội đã
khiến người ta phải như vậy. Cứ thế, trào lưu "quyền lực là chìa khóa vạn năng" nhiễm sâu vào lòng

người. Nên dân ta ai cũng chỉ muốn làm trong công sở chính quyền, rồi tìm cách leo lên hàng quan
chức chính phủ để có quyền hành và bổng lộc.
Thí dụ: gần đây trên các tờ báo hiếm thấy bài viết nào có ý kiến ngược lại với ý kiến của chính phủ.
Lâu lâu chính phủ đưa ra được một vài chính sách cải cách nho nhỏ, tức thì những bài viết tán
dương tâng bốc chính phủ xuất hiện đầy rẫy trên mặt báo. Những bài viết như vậy có khác nào thái
độ phỉnh nịnh khéo léo của các cô gái làng chơi để lấy lòng khách mua hoa đâu. Tệ hại hơn nữa,
những người viết bài đó lại chính là những thành viên trong nhóm Tây học. Thật khó có thể chấp
nhận. họ đâu có phải là "gái làng chơi" và lại càng không phải là những kẻ tâm thần hay thiếu hiểu
biết.
Thái độ xu nịnh và suy nghĩ cơ hội đang đầy rẫy trong xã hội Nhật Bản như hiện nay là do đâu? Vì
chưa có được một minh chứng thực tế nào chứng tỏ có tự do dân quyền trong xã hội, vì người Nhật
Bản đã nhiễm quá nặng bản tính nhu nhược, không còn nhìn ra bản sắc vốn có của mình.
Tóm lại, hiện nay Nhật Bản có chính phủ, có cả dân. Nhưng có lẽ chúng ta mới chỉ có dân mà chưa
có "quốc dân Nhật Bản".
12. Khai hóa văn minh bắt đầu từ việc tự mình bắt tay vào làm và chứng minh bằng thực tế cụ thể,
cho mọi người tận mắt thấy việc thực. Làm trước nói sau. Chứ không thể để như tình trạng nước ta
hiện nay, hễ định làm gì cứ phải họp bàn, giải thích, thảo luận dài dòng vô bổ. Chính phủ có quyền
ban bố chỉ thị, mệnh lệnh. Nhưng hiểu và biến chúng thành hiện thực phải là nhân dân, là khu vực
tư nhân. Chính vì thế, song song với việc mở trường tư thục, chúng ta quyết định thực hiện sự
nghiệp khai sáng cho dân chúng bằng cách giảng dạy học thuật, làm thương nghiệp, nghiên cứu luật
pháp, xuất bản sách, phát hành báo, với tư cách của một người thuộc khu vực tư nhân, không nằm
trong chính phủ.
Chúng ta làm việc này trong phạm vi, bổn phận của một quốc dân làm theo luật pháp, không sợ làm
mất mặt chính phủ. Nếu chính phủ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, với bổn phận của mình, chúng
ta sẽ đường đường chính chính kháng nghị, tranh luận với chính phủ cho đến khi chính phủ tỉnh
ngộ, giành lại chữ "Tự do Dân quyền".
13. Trình độ của nền văn minh hiện có ở nước ta là kết quả của bao đời ông cha chúng ta tự lực làm
nên, nhưng nếu đem so với phương Tây thì rõ ràng "mình mới bước được một bước thì người ta đã
nhảy ba bước". Đã chậm hơn phương Tây thì đương nhiên phải học, đằng này trong chúng ta lại
nảy sinh tư tưởng chỉ biết ngồi bi quan than thở: vì họ chạy nhanh như vậy ta có cố mấy cũng chẳng

làm sao mà bằng được phương Tây.
Đến giờ chúng ta mới cảm nhận được môt thực tế là nền độc lập của nước ta sao mà mong manh,
yếu ớt đến khi đứng trước sức mạnh của phương Tây.


14. Không thể đánh giá được công cuộc khai hóa văn minh của một nước nếu chỉ nhìn vào diện
mạo bề ngoài không thôi. Dù chính phủ Minh Trị có tự mãn đến mấy vì đã xây dựng đợc rất nhiều
trường học, nhà máy xí nghiệp, xây dựng lục quân hải quân, thì tất cả những thứ đó cũng chỉ là cái
vỏ bên ngoài, chỉ là "phần xác" của một quốc gia văn minh. Để hoàn thiện hình thức bề ngoài thì rất
đơn giản vì chỉ cần có tiền. Có tiền là xây được trường học, mua được máy móc, dựng được nhà
xưởng, trang bị, súng ống, tàu bè cho quân đội.
Nhưng, có một vấn đề không hiện ra thành hình ở đây. Vấn đề này mắt không nhìn thấy, tai không
nghe được, không thể mua bán, không thể vay mượn. Nó liên quan tới hết thảy người Nhật Bản
chúng ta. Nó có ảnh hưởng rất mạnh. Không có nó, mọi hình thái của văn minh như những gì mà tôi
đã nêu ra ở trên đều không thể phát huy được hiệu quả trong thực tế. Nó là cái quan trọng nhất và
phải được coi là "phần hồn" của văn minh. Vậy đó là cái gì?
Đó chính là: "Chí khí độc lập của nhân dân, tinh thần độc lập của nhân dân"!
15. Thời gian qua, chính phủ nước ta ra sức xây dựng trường học, chấn hưng xí nghiệp nhà xưởng,
cải cách quân đội và hầu như đã hoàn tất diện mạo bề ngoài, "phần xác" của một nước văn minh
trên đất Nhật Bản. Thế nhưng, cái quan trọng nhất mà chúng ta thiếu đó là chí khí, tinh thần của
nhân dân để đưa đất nước thực sự độc lập, thực sự bình đẳng với phương Tây. Nhân dân ta cũng
không có cả chí khí tinh thần quyết không để đất nước thua kém phương Tây. Và không chỉ nhân
dân không có chí khí đó tinh thần đó mà ngay cả những quan chức chính phủ - những người có
trách nhiệm phải tìm hiểu phương Tây - cũng thế, chưa tìm hiểu thì họ đã tặc lưỡi buông xuôi, vì
chính họ cũng mang tâm lý tự ti, mặc cảm trước phương Tây. Đã tự ti và mặc cảm như vậy thì còn
đầu óc đâu để mà tỉnh táo nắm bắt tình hình được nữa.
Vấn đề chính là ở chỗ: nếu không có chí khí độc lập, tinh thần độc lập thì mọi hình thái của văn
minh chỉ còn là hình thức, hoàn toàn vô dụng.
16. Chính quyền phong kiến Mạc phủ trước đây, chỉ biết dùng quyền lực để cai trị, còn chính phủ
Minh Trị hiện nay, dùng cả sức và trí để cai trị. Chính quyền cũ không biết thủ thuật để cai trị dân,

còn chính phủ mới bây giờ thì ngược lại. Chính quyền cũ dùng mọi cách làm tê liệt, làm rã rời sức
dân, chà đạp tới tận chân tơ kẽ tóc của dân, quy định cả cách ăn mặc, đi đứng của mọi thành phần
trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc mọi sự lẫn lộn. Còn chính phủ hiện nay thì cai trị khéo léo tới
mức người dân bị lấy mất cả "hồn lẫn xác" mà cũng không hay. Vì thế, dân ta trước sợ chính quyền
như sợ ma quỷ, còn dân ta ngày nay thì tôn chính quyền lên như thần thánh để thờ...
17. ... trường học là trường học của chính phủ, quân đội là quân đội của chính phủ. Đường sắt, bưu
điện, điện tín, công trình kiến trúc bằng đá, cầu cống bằng sắt thép cũng như vậy. Tất cả đều là của
chính phủ.
Người dân suy nghĩ về những việc trên như thế nào? Và dân chúng nói với nhau ra sao? Họ bảo
rằng: "Chính phủ hiện nay vừa có sức mạnh vừa có đầu óc, nên chẳng ai có thể đọ nổi. Chính phủ ở
trên cao trị quốc, mọi thứ đã có chính phủ lo nghĩ và làm cho rồi. Còn chúng ta là loại dân đen ở
dưới, cứ có cái ăn để sống là được. Việc nước là chuyện đại sự, là việc của "các quan trên", chứ đâu
phải là việc của lũ dân đen mình là lo".
...
Nếu nhân dân ta không tỉnh ngộ, không nhận ra sự "lầm tưởng" mà cứ thế quen dần với tình trạng
như hiện nay, thì chính phủ có đổ công đổ của để hoàn thiện "cái vỏ" văn minh nhiều đến đâu đi
nữa cũng chỉ tổ làm cho khí lực trong dân ngày một mất đi và như thế tinh thần - phần hồn của văn
minh - cũng suy yếu theo.
18. Cả ngàn năm qua, chính phủ nắm trong tay mọi quyền hành trên đất nước... Nhân dân chỉ còn
biết nhắm mắt tuân theo các chỉ thị của chính phủ. Đất nước ta giống như tài sản riêng của chính


phủ, còn nhân dân chẳng khác nào như những người ăn nhờ ở đậu vậy... Và thế thì quốc gia cũng
chỉ như cái nhà trọ, để người dân tạm dừng chân trong cuộc đời họ mà thôi...
19. Tại sao lũ chí sĩ rởm lại cứ hoành hành mãi vậy? Bọn này hễ cứ mở miệng là đều có cùng giọng
điệu... Người thường dễ bị lừa phỉnh bằng vẻ ngoài của chúng. Kỳ thực bọn chúng đều là một lũ chí
sĩ rởm cả. Được cất nhắc vào chức vụ cao một chút, ngoài lương bổng, phụ cấp quy định ra, không
hiểu sao tiền cứ vào như nước. Hóa ra, kẻ trông coi việc xây cất thì luôn thúc giục chủ thầu phải
cống lễ. kẻ trông coi ngân khố thì đòi thị dân phải biếu xén quà cáp mới cho vay tiền. Những
chuyện như vậy diễn ra như cơm bữa đến độ trở thành lệ...

20. Người ta thường nói: "Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người
đứng dưới người". Kể từ khi tạo hóa làm ra con người thì tất cả sinh ra đều bình đẳng, mọi người
đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới, giàu nghèo.
Loài người, chúa tể của muôn vật, bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân tay mà biến mọi thứ có
trên thế gian thành vật có ích cho bản thân mình. Nhờ thế mà thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở,
sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm cản trở cuộc sống của đồng loại. Con người có thể
sống yên ổn, vui vẻ trên thế gian. Đó là ý Trời, là niềm hi vọng của Trời đối với con người.
Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một
vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ ngu độn; giữa người giàu và kẻ nghèo; giữa
tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.
Như thế là tại làm sao? Nguyên nhận thực ra rất rõ ràng.
Cuốn sách dạy tu thân "Thự ngữ giáo" có câu: "Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức
là người ngu dốt". Câu nói trên cũng có thể hiểu: Sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần
độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.
Trên thế gian có cả việc khó lẫn việc dễ. Người làm việc khó được coi là người quan trọng. Người
làm việc dễ thường có địa vị thấp, bị coi thường. Công việc cần sự khổ nhọc về tinh thần được xem
là việc khó, còn lao động chân tay là việc dễ. Vì thế học giả, quan chức chính phủ, giám đốc các
công ty lớn, chủ trang trại sử dụng nhiều nhân công... là những người có địa vị cao, quan trọng. Và
một khi đã là những người có địa vị, quan trọng thì đương nhiên gia đình họ cũng giàu sang sung
túc đến mức tầng lớp hạ đẳng nằm mơ cũng không được. Tuy vậy, nếu suy nghĩ kỹ lưỡng gốc rễ
của vấn đề thì chỉ có một nguyên nhân. Đó chẳng qua là do có chịu khó học hay không mà thôi, chứ
có người nào được trời phú đâu. Ngạn ngữ có câu: "Trời không ban cho con người phú quý. Chính
con người tạo ra giàu sang phú quý." Có nghĩa là Trời nhìn vào kết quả hoạt động, lao động của con
người để ban thưởng.
Như tôi đã đề cập: Ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu nghèo. Vì thế, có thể nói
rằng: Người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người quan trọng, sống sung túc; người vô
học sẽ trở thành con người thấp kém, nghèo khổ.


21. Thử nhìn vào công cuộc văn minh đang diễn ra trên đất nước ta mà xem, tôi chỉ có thể nói rằng

chúng ta đang làm ngược với quy luật.
Ở nước Nhật chúng ta hiện nay, người chủ trương thúc đẩy văn minh, gìn giữ độc lập trước áp lực
phương Tây là những người thuộc tầng lớp giữa trong xã hội, là các nhà trí thức và đơn độc chỉ có
họ. Nhưng số đó cũng chỉ là thiểu số ít ỏi. Còn đa phần các trí thức đều thiếu con mắt nhận biết thời
cuộc. Họ yêu quý và lo giữ chỗ cho bản thân hơn là lo lắng, ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió
chiều nào theo chiều đó. Đa số các trí thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn
đón cơ hội leo vào hàng "quan chức", sa vào các sự vụ quản lý vặt vãnh, tiêu phí thời gian bằng
nhưng việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Họ thỏa mãn với quyền cao bổng hậu. Tệ
hại hơn nữa, họ lại tự cao tự đại: "Uyên bác như chúng tôi đã tập trung hết trong hàng ngũ chính
quyền rồi, trong xã hội đâu còn ai?"
Tôi buộc phải nói rừng những người trí thức như vậy là nỗi bất hạng cho công cuộc văn minh đất
nước. Lẽ ra phải đảm nhiệm vai trò mở mang, nuôi dưỡng văn minh với tư cách của người trí thức,
thì họ lại vùi đầu vào việc kiếm lợi cho riêng bản thân, họ chẳng bận tâm đến sự thoái hóa của tinh
thần học vấn trong xã hội, đất nước ra sao họ cũng mặc. Như thế mà vẫn tự cho mình là trí thức
được sao?
Đó là một thực tế đáng hổ thẹn.
22. Chúng ta chỉ có một mục đích gánh vai nâng đỡ tinh thần độc lập trong nhân dân.
Chúng ta lẻ loi, đang đứng mũi chịu sào trong cơn cuồng phong, trong dòng nước xiết, chúng ta
đang phải gồng mình chống chọi với cả một trào lưu đang làm thoái hóa xã hội. Nhiệu vụ của chúng
ta thật khó khăn. Nhưng chính lúc này đòi hỏi chúng ta phải có lòng quả cảm và tinh thần cương
quyết.
Dũng khí của con người không sinh ra từ sách vở.
Đọc sách là phương tiện nâng cao học vấn.
Học vấn là phương pháp tiến tới thực tiễn.
Chính kinh nghiệm, sự từng trải sản sinh ra lòng quả cảm.
Hội Keio chúng ta, bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ, nguyện đem hết tri thức kiến thức có
được, xây đắp con đường phát triển văn minh. Để đi tới đó, chúng ta không phân biệt, không từ nan
bất kỳ lĩnh vực nào, ngành học nào. Chúng ta làm thương nghiệp, khuyến nông, viết sách, dịch



sách, phát hành báo, tất cả những gì liên quan tới văn minh.
Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về vai trò, sự đóng góp của bản thân, phải đi tiên phong trong
nhân dân. Chúng ta cùng hợp tác với chính phủ.
Sức dân và sức chính quyền có cân bằng thì tiềm lực quốc gia mới gia tăng, nền móng độc lập của
quốc gia mới vững chắc, có như vậy nước ta mới mong được bình đẳng với phương Tây.
23. Nhân dân lẫn chính phủ, nếu cả hai phía đều làm trọn bổn phận, trách nhiệm của mình thì chẳng
cần phải nói gì thêm cả. Nhưng cũng có những lúc chính phủ đi chệch hướng, thi hành lối chính trị
chuyên chế bạo tàn, chạy theo quyền lực vô tri thức. Những lúc như thế, nhân dân buộc phải hành
động. Và sẽ hành động theo một trong ba giải pháp như sau. Hoặc từ bỏ khí tiết, khuất phục chính
phủ. Hoặc phản kháng chính phủ bằng bạo lực. Hoặc sẵn sàng hiến thân, hy sinh tính mạng chứ
không chịu để mất khí tiết.
Tôi xin giải thích rõ hơn.
- Giải pháp thứ nhất: Nếu chấp nhận vứt bỏ khí tiết, tuân theo chính phủ vô điều kiện thì có thể coi
đây là giải pháp mù quáng. Tôi đã giải thích ở phần trước: Đạo làm người là tuân theo đạo trời. Nếu
vất bỏ đạo lý, khí tiết, đồng lõa với những sai trái bất chính thì tự chúng ta đã làm hỏng vị thế của
con người, và tập quán xấu đó sẽ truyền tới đời con, đời cháu. (...)
- Giải pháp thứ hai: cá nhân chống lại chính quyền, là điều không tưởng. Vì thế mà tập hợp nhau,
lập nhóm lập đảng gây nên nội chiến, nội loạn. Cách này tôi không cho là cách làm nghiêm túc. Bởi
nếu xảy ra nội loạn thì vấn đề phân biệt thiện, ác sẽ bị loại bỏ. Các bên chỉ dựa vào sức mạnh trên
chiến trường để giải quyết. Và kẻ thắng sẽ quyết định tất cả. (...)
- Giải pháp thứ ba: giữ trọn đạo lý chính nghĩa, sẵn sàng hy sinh mạng sống trước mọi áp bức của
chính quyền. Tức là tin tưởng một lòng một dạ vào đạo Trời, dù phải chịu mọi cực hình của chính
quyền chuyên chế, bạo ngược cũng không khuất phục, giữ vững khí tiết, bảo vệ chân lý, niềm tin,
hơn nữa không bao giờ sử dụng vũ khí bạo lực, chỉ dùng đạo lý để kháng cáo với chính phủ (...)
24. ... Nếu chúng ta chất vấn chính quyền bằng lý lẽ thì những luật pháp tốt hoặc những chính sách
tuyệt vời hiện hành trong quốc pháp không bị ảnh hưởng. Thuyết phục bằng lý lẽ, điều đó sẽ thấm
dần vào lòng người theo lẽ tự nhiên. Năm nay, thuyết phục chưa được thì sang năm tiếp tục thuyết
phục cho tới khi chính quyền hiểu ra. Vì mục đích của nó là ngăn chặn và cải thiện bất chính trong
chính quyền. Và một khi chính phủ đã chấp thuận cải thiện chính sách thì việc chất vấn chính phủ
cũng sẽ chấm dứt.

Nếu chúng ta dùng sức mạnh đối địch với chính phủ thì chính phủ cũng sẽ đáp lại bằng việc đàn áp,
bắt bớ. Quan chức chính phủ dù có là những kẻ bạo chính thì cũng là người Nhật chúng ta cả. Trước
những lời lẽ đúng với đạo lý của những người chất vấn chính phủ trong hòa bình và sẵn sàng hy
sinh thân mình vì đạo lý đó thì không có lẽ không thuyết phục hoặc không làm lay động được các
quan chức chính phủ. Tôi nghĩ rằng họ không thể không hối hận về những lầm lỗi, sai trái của họ và
sẽ cải tà quy chính.
25. Nếu khảo sát cụ thể các hoạt động ở mỗi con người thì sự hoạt động đó có thể chia thành hai
loại như sau:
Thứ nhất là hoạt động với tư cách của một cá nhân độc lập.
Thứ hai là hoạt động với tư cách của một thành viên trong xã hội con người.
Mưu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ ở ổn định dựa vào hoạt động của khối óc và cơ thể là lẽ thường tình ở


con người.
(...) Tất nhiên, đối với con người việc tự lập kiếm kế sinh nhai rất quan trọng. Người xưa thường
dạy: "Hãy kiếm sống bằng chính mồ hôi của mình". Thế nhưng theo tôi, cho dù chúng ta có làm
đúng theo lời dạy này thì cũng chưa phải là đã làm đúng trách nhiệm và nghĩa vụ với tư cách là con
người. Lời dạy này mới dừng lại ở chỗ răn người ta làm người thì đừng để thua kém muông thú và
cũng chỉ dạy có thế.
Các loài chim chóc, muông thú, tôm cá, côn trùng... tự chúng không kiếm mồi được sao? Ví như
loài kiến chẳng hạn. Loài kiến không những biết kiếm mồi mỗi ngày mà còn biết làm hang, làm tổ,
tích trữ mồi trong suốt mùa đông giá rét.
Vậy mà trên đời này, có không ít người, hành vi của họ cũng chỉ ngang với đàn kiến thôi mà cũng
tự mãn.
(...) Nhưng, tôi lại hoàn toàn không nghĩ rằng loài người với tư cách là chúa tể của muôn loài - mới
có được kết quả nhỏ nhoi như vậy mà đã coi là hoàn tất mục đích đích thực của cuộc đời.
Giải quyết được cái ăn, cái mặc, chỗ ở mà đã mãn nguyện, đã cảm thấy hài lòng rồi thì hóa ra cuộc
đời con người trên thế gian này chỉ đơn thuần là được sinh ra rồi chết đi thôi hay sao? Tình trạng
lúc anh ta chết đi có khác gì lúc được sinh ra. Tức là quanh quân vẫn chỉ là chuyện sao cho có nhà
cửa, có cuộc sống ổn định và có của ăn của để nữa. Vẻn vẹn chỉ có vậy. và nếu đến thế hệ con cháu,

cũng lặp đi lặp lại y hệt cuộc sống của anh ta thì dù có trải qua hàng trăm đời, làng xóm thị trấn nơi
anh ta đã sống xưa thế nào nay chắc cũng vậy, không chút thay đổi.
Không một người nào nghĩ tới sự nghiệp công ích, công cộng, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân và
gia đình. Ngoài ra thì mặc kệ.
Không một người nào có suy nghĩ là phải làm gì, để lại cái gì cho quê hương khi đang còn sống.
Người châu Âu có câu: "Nếu mọi người ai cũng chỉ mong thỏa mãn và an nhàn cho riêng cá nhân
mình, thì thế gian này cũng không có gì khác khi mới có loài người".
26. Một khi còn sống trên đời, còn giao tiếp với mọi người thì bản thân mỗi con người vẫn còn là
một thành viên trong xã hội. Cho nên lẽ đương nhiên là phải có nghĩa vụ với xã hội. Ngay cả học
vấn, kỹ thuật, chính trị, luật pháp... không có cái nào là không cần thiết để cho con người sống trong
xã hội, tất cả những thứ này sinh ra là vì xã hội con người.
(...)
Con người ta, bất kỳ là ai, hễ có chút ít "sở trường" là đều muốn đem ra giúp ích cho đời. Đó âu
cũng là lẽ thường. Nhiều khi tưởng chừng như con người không có ý thức vì xã hội, nhưng rồi
không biết bằng cách nào mà con cháu họ vẫn nhận được ơn huệ. Đó là vì trong con người có thiện
tâm, nên các nghĩa vụ trong xã hội rồi cũng đều được thực hiện.
Nếu trong xã hội từ xa xưa mà không có những con người như vậy thì chúng ta ngày nay đâu có
được hưởng thành quả văn minh đang tràn đầy khắp nơi trên thế gian.
27. Mục đích của học vấn phải đặt ở tầm cao.
Nếu tôi không nhầm thì việc nấu cơm, đun nước cũng là học vấn. Việc bàn luận về quốc gia đại sự
cũng là học vấn. Nhưng lo cuộc sống của gia đình thì dễ hơn lo kinh tế, chính trị của một quốc gia.
Hơn nữa trên đời này cái gì dễ kiếm thì ít được quý trọng, càng khó kiếm thì giá trị càng cao.


Tôi nhận thấy sinh viên hiện nay có xu hướng né tránh việc khó, tìm kiếm việc dễ.
Dưới thời phong kiến, người học có miệt mài học hành cũng không có chỗ để ứng dụng học vấn, vì
trong xã hội đó con người mất tự do. Do vậy cực chẳng đã họ chỉ còn biết học, tự mình tích lũy học
thức. Vì thế, sinh viên chúng ta hiện nay khó mà theo kịp họ về tri thức.
Sinh viên hiện nay không bị bất kỳ hạn chế cả. Cứ có học là có thể ứng dụng ngay kết quả học tập
vào thực tế. Tôi lấy ví dụ, các sinh viên theo ngành Âu học trong ba năm, họ học lịch sử, học vật

lý... Sau khi ra trường họ được tuyển dụng ngay tức thì để làm giáo viên giảng dạy, hoặc đi làm
công chức chính quyền nếu họ muốn. Ngoài ra, nhiều người còn tìm cách đơn giản hơn, nhanh hơn.
Đó là chỉ cần lùng sục và đọc qua các cuốn sách dịch đang bán chạy, đi đây đi đó để có chút thực tế,
tích lũy thêm một ít thông tin trong và ngoài nước, gặp dịp may là được chọn ngay vào làm việc
trong các công sở. Thế là họ nghiễm nhiên trở thành một thành viên đắc lực trong bộ máy nhà nước.
Những điều tôi lo sợ là các hiện tượng trên đây nếu trở thành xu hướng, thành trào lưu trong xã hội
thì học vấn sẽ mất đi bản chất đích thực và mục đích cao quý của nó.
(...) Chỉ đến khi trên khắp mọi miền đất nước Nhật Ban, nơi đâu cũng gặp những người vừa có tài,
vừa có đức, ngày đêm rèn giũa và tích lũy thực lực thì ắt hẳn đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ
ngang hàng, sánh vai với nền văn minh của các cường quốc phương Tây.
28. Tạm gác sang bên vị trí của cá nhân, nếu chúng ta quan tâm tới nghĩa vụ đối với xã hội, thì
trước hết là không làm vẩn đục danh dự người Nhật Bản, tiếp đến là mọi người dân đồng lòng góp
sức mang lại vị trí quốc tế trong độc lập và tự do cho Nhật Bản. Như thế mới được coi là làm tròn
nghĩa vụ giữa cá nhân và xã hội.
Tôi thừa nhận những người đang toại nguyện với cuộc sống của bản thân họ trong căn nhà riêng của
mình là những người độc lập. Nhưng tôi không thể thừa nhận họ là những người Nhật Bản độc lập
được. Hãy thử nhìn kỹ xem. Ở thời điểm này, nền văn minh của nước Nhật Bản chỉ có Danh mà
không có Thực. Về hình thức thì trông cũng được đấy, nhưng về tinh thần thì thật đáng buồn lòng.
Lực lượng quân sự của Nhật Bản, từ lục quân tới hải quân có khả năng kháng cự với lực lượng quân
sự của các cường quốc phương Tây chưa? Hiển nhiên là chưa. Nước Nhật không thể chống chọi
được với các thế lực phương Tây trong lúc này.
Thế còn trình độ học vấn của Nhật Bản hiện nay ra sao? Với nền học vấn hiện thời, chúng ta có thể
đem rao giảng cho người phương Tây không? Rõ ràng là không có cái gì cả. Ngược lại, chúng ta
phải học ở họ mọi thứ. Và không chỉ đơn thuần là cứ học những thứ mà chúng ta chưa có là được...
29. Những hỗn loạn trong buổi đầu du nhập văn minh phương Tây là điều không tránh khỏi. Việc
chính phủ Nhật Bản yêu cầu phương Tây viện trợ, cung cấp văn minh cho chúng ta cũng không
phải là sai.
Nhưng điều quan trong mà tôi muốn nói là tất cả những gì đang diễn ra trên đất nước ta hiện nay
cũng chỉ là giải pháp nhất thời. Chúng ta không thể thuê vĩnh viễn người phương Tây làm thay
chúng ta *). Chúng ta ra sức học tập họ, nhưng không nên quá sùng bái, tôn thờ họ. (* - Để học hỏi

thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật phương Tây, chỉ riêng chính phủ Minh Trị đã thuê hơn 500
chuyên gia, học giả trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là Giáo dục, Luật pháp, Xây dựng, Nông nghiệp và
In ấn, sang Nhật Bản làm việc trong suốt thời kỳ Minh Trị duy tân (1868-1912))
Có cách nào để Nhật Bản không phụ thuộc vào quốc gia khác? Làm như thế nào để chúng ta có thể


×