Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Nghiên cứu về đòn bẩy tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam trong giai đoạn 2009 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.56 KB, 80 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu về đòn bẩy tài chính của hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2009-2015” là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi, các thông tin dữ liệu được sử dụng trong bài nghiên cứu là
trung thực, các nội dung trích dẫn đều ghi rõ nguồn gốc và các kết luận trong bài nghiên
cứu chưa được công bố trong bất cứ một nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Tác giả đề tài

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM
NHTW
NHNN
NHTMNN
NHNNg
NHTMCP
VCSH
TCTD
BCTC
Lev
PROF
SIZE
GROW
COLL
GDP

: Ngân hàng thương mại
: Ngân hàng trung ương


: Ngân hàng nhà nước
: Ngân hàng thương mại nhà nước
: Ngân hàng nước ngoài
: Ngân hàng thương mại cổ phần
: Vốn chủ sở hữu
: Tổ chức tín dụng
: Báo cáo tài chính
: Đòn bẩy tài chính
: Lợi nhuận
: Quy mô
: Tăng trưởng
: Tài sản thế chấp
: Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội

ii


DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................................ii
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.........................................................................................................2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI......................................................................................................................9
THỰC TRẠNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM...............................................................................................31
KHUYẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2015-2020.........................................51
PHỤ LỤC: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐÒN BẦY
TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.............................................................1


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................................ii
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI.........................................................................................................2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI......................................................................................................................9
THỰC TRẠNG ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM...............................................................................................31
KHUYẾN NGHỊ VỀ VẤN ĐỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2015-2020.........................................51
PHỤ LỤC: PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐÒN BẦY
TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.............................................................1

iii


iv


LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là trung gian
tài chính có vai trò cung cấp và luân chuyển vốn cho các chủ thể kinh tế, chính vì thế
sự ổn định và an toàn vốn của hệ thống ngân hàng thương mại là một trong những chủ
đề được các nhà hoạch định chính sách quan tâm nhiều nhất trong thời kì hậu khủng
hoảng tài chính thế giới. So sánh về quy mô tổng tài sản với các ngân hàng trên thế
giới, các ngân hàng thương mại Việt Nam thuộc nhóm ngân hàng vừa và nhỏ, tỷ lệ an
toàn trong cấu trúc vốn thấp. Bên cạnh đó, xu hướng tăng tỷ lệ vay nợ để bù đắp tổn
thất sau khủng hoảng tài chính của các ngân hàng thương mại càng làm cho mức độ an

toàn của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp đi. Trên thế giới đã có nhiều nghiên
cứu về cấu trúc vốn và đòn bẩy tài chính của các ngân hàng thương mại, nhưng xét về
hoàn cảnh thực tế của các ngân hàng Việt Nam, có rất ít nghiên cứu nói về chủ đề này.
Chính vì thế một nghiên cứu về đòn bẩy tài chính và các chỉ tiêu an toàn vốn của ngân
hàng thương mại là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn này.

1


TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới liên quan đến đòn bẩy tài chính của ngân
hàng thương mại
Đòn bẩy tài chính đối với loại hình doanh nghiệp đặc biệt – ngân hàng thương
mại – đã được nghiên cứu từ lâu, đặc biệt từ phía các cơ quan giám sát và quản lý.
Theo nghiên cứu của Michael, 2003, trước những năm 1980, quản lý định lượng về
đòn bẩy tài chính là một vấn đề ít được đề cao. Một số quốc gia trên thế giới có quy
định về an toàn vốn tối thiểu nhưng không quy định cụ thể về mức đòn bẩy tài chính
cần áp dụng cho các ngân hàng thương mại. Năm 1988, Những nỗ lực về quản lý tỷ lệ
đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại được ghi nhận nhờ sự ra đời của Hiệp
ước Basel I, tuy nhiên Basel I không trực tiếp đưa ra tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà chỉ đưa
ra quy định về hệ số an toàn vốn (CAR). Tỷ lệ này theo quy định của Basel I không
phản ánh đúng mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng khi chỉ tính đến rủi ro tín
dụng và việc phân loại tài sản không có các mức trọng số rủi ro riêng khiến cho tỷ lệ
đòn bẩy tài chính tại ngân hàng cao hơn mức rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận.
Sau cuộc khủng hoảng những năm 90, các quy định của Basel I đã không còn phù hợp.
Năm 2004, Basel II được ban hành, chính thức có hiệu lực vào tháng 1/2007. Quy ước
Basel II gồm 3 trụ cột cơ bản: (i) Trụ cột 1, yêu cầu vốn tối thiểu; (ii) Trụ cột 2, công
tác kiểm tra rà soát; (iii) Trụ cột 3, thông tin thị trường. Basel II đã đưa ra nhiều điểm

mới trong cách xác định tỷ trọng vốn tối thiểu: (1) Về việc phân loại tài sản có, NHTM
được lựa chọn trong 3 phương pháp xác định trọng số rủi ro của tài sản gồm phương
pháp tiêu chuẩn, phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ và phương pháp xếp hạng tín
dụng nâng cao. (2) Về việc tính hệ số an toàn vốn tối thiểu, Basel II đã đề cập tới rủi
ro vận hành và rủi ro thị trường, đồng thời, dù tỷ lệ CAR tối thiểu không tăng, nhưng
Basel II đã yêu cầu ngân hàng tăng vốn điều lệ, thông qua việc tăng tỷ trọng rủi ro lên
mức 150%, đưa thêm yêu cầu vốn đối với rủi ro vận hành và rủi ro thương mại.Mặc dù
mức tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các NHTM chưa được quy định trực tiếp, nhưng Basel
II đã giới hạn được mức đòn bẩy thông qua quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng 2007-2009, quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu trong
hệ thống ngân hàng được chứng tỏ là không hiệu quả. Ủy ban Basel đã ban hành Basel
III nhằm nâng cao mức quy định về an toàn hệ thống ngân hàng so với Basel II. Ngoài
việc thắt chặt quy định về hệ số an toàn vốn CAR, Basel III đã bổ sung quy định về
đòn bẩy tài chính, theo đó đưa ra yêu cầu về mức vốn tối thiểu cần thiết dựa trên giá trị
2


tài sản không phân theo trọng số rủi ro. Quy định về đòn bẩy tài chính được áp dụng
nhằm hạn chế sự gia tăng việc sử dụng đòn bẩy quá mức trong hệ thống ngân hàng
nhằm tránh quá trình giảm đòn bẩy có thể gây ảnh hưởng sâu rộng tới hệ thống tài
chính.
Bên cạnh hiệp ước tiêu chuẩn vốn của Ủy ban Basel, nhiều nghiên cứu gần đây
cũng đã chỉ ra rằng, đòn bẩy tài chính nên sớm được áp dụng như một tỷ lệ phụ thêm
cho các tỷ lệ an toàn vốn trên cơ sở rủi ro thông qua việc hạn chế ảnh hưởng của việc
giảm các trọng số rủi ro trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, từ đó làm giảm sự gia tăng
của rủi ro hệ thống (Borio và Zhu, 2012). Trong thời kỳ tăng trưởng, điều kiện nền
kinh tế tốt hơn với mức lãi suất thấp sẽ làm gia tăng cầu tín dụng. Với điều kiện các
yếu tố khác không đổi, việc gia tăng cầu tín dụng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự mở
rộng cho vay của các NHTM, qua đó các NHTM gia tăng việc sử dụng đòn bẩy tài
chính để đáp ứng cầu tín dụng. Khi đó ngân hàng với mức vốn thấp sẽ bắt buộc phải

tăng vốn hoặc hạn chế cấp tín dụng. Nghiên cứu của Brei và Gambarcota (2014) cũng
đã khẳng định kiểm soát tỷ lệ đòn bẩy tài chính là ràng buộc mạnh hơn trong thời kỳ
kinh tế tăng trưởng để hạn chế rủi ro hệ thống của NHTM và là công cụ nới lỏng khi
nền kinh tế suy thoái.
Mở rộng về vấn đề đòn bẩy tài chính tại các NHTM, vấn đề này trong tài chính
doanh nghiệp cũng không ngừng được cập nhật trong các nghiên cứu gần đây. Một số
nghiên cứu tiêu biểu có thể kể đến là Umar (2011) phát hiện ra rằng cơ cấu quản trị tốt
kéo theo môt tỷ lệ đòn bẩy cao ở các công ty. Nghiên cứu của Gunaratha (2013) cho
thấy mức độ đòn bẩy tài chính có tương quan cùng dấu với các loại rủi ro tài chính.
Nghiên cứu của Alcock và cộng sự (2013) kết luận rằng trong ngắn hạn, các nhà quản
lý có thể sử dụng đòn bẩy tài chính để nâng cao lợi nhuận, nhưng việc sử dụng đòn
bẩy trong dài hạn có thể có tác động tiêu cực đến tình hình tài chính của công ty.
Về các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính của các NHTM, có nhiều nghiên
cứu xem việc nghiên cứu đòn bẩy tài chính như việc nghiên cứu cấu trúc vốn, hay nói
cách khác người ta xem xét có bao nhiêu phần trăm trong vốn được tài trợ bởi nợ, bao
nhiêu phần trăm trong vốn được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu. Việc nghiên cứu định
lượng các nhân tố tác động đến đòn bẩy tài chính hay cấu trúc vốn cũng đã được thực
hiện ở nhiều nghiên cứu trên thế giới tiêu biểu là công trình nghiên cứu của Rient
Gropp và Florian Heider (2009), nghiên cứu của Monica Octavia và Rayna Brown
(2008), nghiên cứu của Ebru Caglayan (2010). Các nghiên cứu định lượng này nhìn
chung chỉ ra các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính của NHTM
gồm: Quy mô ngân hàng, khả năng sinh lợi của ngân hàng, khả năng tăng trưởng của
ngân hàng, rủi ro và thuế thu nhập doanh nghiệp, tăng trưởng kinh tế.
3


Thứ nhất, Công trình nghiên cứu của Rient Gropp và Florian Heider (2009) trong
báo cáo nghiên cứu của NHTW Châu Âu bàn về “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc
vốn ngân hàng”. Công trình nghiên cứu này dựa trên quy mô mẫu của hơn 200 ngân
hàng của các quốc gia phát triển: 15 quốc gia thuộc Liên Minh Châu Âu và Mỹ trong

khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 2004.
Để đánh giá tác động của các nhân tố lên cấu trúc vốn ngân hàng, công trình
nghiên cứu đã sử dụng biến đại diện cho cấu trúc vốn là đòn bẩy tài chính (biến phụ
thuộc) và được đo lường: Đòn bẩy tài chính = 1 – VCSH/Tổng tài sản (Trong đó đòn
bẩy tài chính được tính theo giá trị sổ sách và theo giá trị thị trường).
Công trình nghiên cứu sử dụng các nhân tố tác động lên cấu trúc vốn ngân hàng
(biến độc lập) là:
- Biến tỷ số giá trị thị trường so với giá trị sổ sách (MTB) = giá trị tài sản thị
trường/giá trị trên sổ sách của tài sản.
- Biến Lợi nhuận (Profits) tính bằng tỷ suất lợi nhuận = lợi nhuận/tổng tài sản.
- Biến Quy mô (Size) = Logarit của tổng tài sản.
- Biến Tài sản thế chấp (Collateral) = (Tổng chứng khoán + Tín phiếu kho bạc +
Tín phiếu khác + Trái phiếu + Các chứng chỉ tiền gửi + Tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng + Đất đai và nhà cửa + Các tài sản hữu hình khác)/Giá trị sổ sách của tổng tài
sản.
- Biến Cổ tức (Dividends) là một biến giả bằng 1 nếu trong năm các ngân hàng
có chia cổ tức, ngược lại bằng không nếu không chia cổ tức
- Biến rủi ro (Risk) bằng độ lệch chuẩn hàng năm của lợi nhuận giá chứng khoán
hàng ngày * (giá trị thị trường của VCSH/giá trị thị trường của ngân hàng).
Để đánh giá tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc, công trình nghiên cứu
đã sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính như sau:
Lict = β 0 + β1MTBict −1 + β 2 Profict −1 + β 3 Ln(Sizeict −1 ) + β 4Collict −1 + β 5 Divict + cc + ct + uict (1)
Lict = β 0 + β1MTBict −1 + β 2 Prof ict −1 + β 3 Ln(Sizeict −1 ) + β 4Collict −1 + β 5 Divict + β 6 Ln( Riskict −1 ) + cc + ct + uict (1)

(Trong đó: i là ngân hàng, c là quốc gia, t thời gian)
Trong nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích mô hình tuyến tính
bình phương nhỏ nhất có kết hợp đánh giá tác động của ảnh hưởng cố định các nhân tố
(fixed effects) lên các biến của mô hình là biến thời gian, biến quốc gia. Kết quả
nghiên cứu đã chứng minh rằng các biến độc lập có ảnh hưởng lên biến phụ thuộc đại
diện cho cấu trúc vốn của ngân hàng. Và hướng tác động cụ thể như sau: Biến cổ tức

và rủi ro tác động ngược chiều lên đòn bẩy tài chính; biến quy mô và tài sản thế chấp

4


tác động cùng chiều lên đòn bẩy tài chính; biến lợi nhuận và tỷ số giá trị thị trường
không có ý nghĩa thống kê.
Ngoài ra nhằm mở rộng nghiên cứu, công trình nghiên cứu đã bổ sung các biến
vĩ mô vào mô hình. Tăng trưởng, GDP, lạm phát, rủi ro trên thị trường chứng khoán.
Kết quả cho thấy tăng trưởng GDP và lạm phát tác động cùng chiều lên đòn bẩy tài
chính và rủi ro thị trường chứng khoán thì tác động ngược chiều lên đòn bẩy tài chính.
Thứ hai, là công trình nghiên cứu của Monica Octavia và Rayna Brown (2008)
về “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn ngân hàng tại các quốc gia đang phát
triển. Tác giả đã sử dụng các biến độc lập, biến phụ thuộc và mô hình tương tự như
nghiên cứu của Rient Gropp và Florian Heider (2009). Mẫu nghiên cứu được tác giả
chọn gồm 56 ngân hàng từ 10 quốc gia đang phát triển trong thời gian từ năm 1996
đến 2005.
Kết quả nghiên cứu khẳng định các biến độc lập: biến Quy mô (Size) và giá trị sổ
sách (MTB) tác động đồng biến; biến Lợi nhuận (Profits), tài sản thế chấp (Collateral),
biến cổ tức (Dividends), biến Rủi ro (Risk) có tác động nghịch biến lên Đòn bẩy tài
chính của ngân hàng.
Thứ ba, là công trình nghiên cứu của Ebru Ḉağlayan (2010) nghiên cứu về “Các
nhân tố tác động đến Cấu trúc vốn bằng chứng từ các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ”. Công
trình nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ 25 ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ với biến phụ
thuộc là biến Đòn bẩy tài chính và các biến độc lập là: Tỷ số giá trị thị trường so với
giá trị sổ sách (MTB), lợi nhuận (PROF), quy mô (SIZE), tài sản hữu hình (TANG).
Và kết quả nghiên cứu của tác giả cũng khẳng định các nhân tố trên có ảnh hưởng đến
đòn bẩy tài chính của ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hầu hết các biến trong mô hình nghiên cứu đều có ý
nghĩa thống kê đối với mô hình và hướng tác động của mô hình cụ thể như sau: Biến

tỷ số giá trị thị trường so với giá trị sổ sách (MTB) và Quy mô (SIZE) tác động cùng
chiều lên đòn bẩy tài chính; biến lợi nhuận (PROF), biến tài sản hữu hình (TANG) tác
động ngược chiều lên biến đòn bẩy tài chính.
So sánh kết quả các nghiên cứu trên, ta nhận thấy có sự khác biệt về hướng tác
động của các nhân tố tác động lên đòn bẩy tài chính của ngân hàng ở các mô hình
nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau. Do đó, đề tài sẽ không sử dụng kết quả của các
nghiên cứu trên mà chỉ sử dụng lựa chọn các nhân tố tác động lên đòn bẩy tài chính
ngân hàng và mô hình định lượng để xem xét đánh giá cho các NHTM Việt Nam.

5


1.1.2. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến đòn bẩy tài chính của ngân hàng
thương mại
Đối với các nghiên cứu trong nước, vấn đề đòn bẩy tài chính tại các NHTM chưa
được đề cập nhiều và cụ thể, tuy nhiên việc quy định tỷ lệ đòn bẩy như một tỷ lệ an
toàn trong NHTM đã được đề cập như một vấn đề cấp thiết trong một vài nghiên cứu
tại Việt Nam. Cụ thể:
Trong báo cáo “Hoạt động ngân hàng Việt Nam: Bức tranh toàn cảnh 2012 và dự
báo 2013” nhóm nghiên cứu Học viện Ngân hàng đã đề cập đến ý nghĩa dự báo rủi ro
của hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR và hệ số đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân
hàng Việt Nam thời gian qua. Nhìn chung, hệ số CAR của các NHTM cao hơn mức
quy định của NHNN, tuy nhiên theo khuyến nghị của Basel III, trong tình huống hệ số
an toàn vốn ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao cũng có thể báo hiệu những rủi ro
tiềm ẩn trong hệ thống NHTM. Bên cạnh đó, việc xác định chính xác giá trị thực của
các tỷ lệ CAR và đòn bẩy tài chính của các ngân hàng Việt Nam hiện nay cũng là một
vấn đề khó khăn. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị cần bổ
sung yêu cầu về tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các NHTM song song với quy định về hệ
số an toàn vốn tối thiểu khi đánh giá mức độ an toàn vốn của NHTM.
Năm 2015, đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành: “Vấn đề đòn bẩy tài chính

trong hệ thống NHTM Việt Nam- Thực trạng và khuyến nghị” của tiến sĩ Lê Thị Tuấn
Nghĩa (Học viện ngân hàng) đã luận giải một cách có hệ thống các vấn đề liên quan
đến đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng và các nhân tố ảnh hưởng đến đòn bẩy
tài chính. Đề tài cũng đã làm rõ sự cần thiết phải có quy định về đòn bẩy tài chính trên
cơ sở nghiên cứu các quy định về tỷ lệ an toàn vốn và đòn bẩy tài chính theo các hiệp
ước Basel trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. Bên cạnh đó, đề tài
đã nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới và đưa ra một số gợi ý cho
Việt Nam về việc cần thiết thành lập một đơn vị chuyên trách quản lý vấn đề đòn bẩy
tài chính và an toàn vốn của các NHTM, cũng như đề xuất lộ trình tăng yêu cầu vốn
tối thiểu trong giai đoạn 2015-2020. Bài nghiên cứu cũng đã phân tích chi tiết thực
trạng đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM Việt Nam, đồng thời qua phân tích định
lượng đã làm rõ tác động và đo lường được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tỷ
lệ đòn bẩy tài chính của các NHTM.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận cơ sở về vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống NHTM
Việt Nam
- Tổng hợp kinh nghiệm và xu hướng áp dụng quy định về đòn bẩy tài chính
trong hoạt động ngân hàng của một số quốc gia trên thế giới sau khủng hoảng kinh tế

6


- Nghiên cứu thực trạng tỷ lệ đòn bẩy tài chính tại các NHTM Việt Nam giai
đoạn 2009-2015
- Đưa ra những đánh giá và khuyến nghị về mức đòn bẩy tài chính hợp lý cần
duy trì bởi NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2015 - 2020
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, Cơ sở lý luận của việc áp dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính như một giới
hạn an toàn cho các NHTM Việt Nam và những bài học kinh nghiệm của một số quốc
gia trong việc áp dụng quy định này?

Thứ hai, Thực trạng tỷ lệ đòn bầy tài chính tại các NHTM Việt Nam và sự tiệm
cận của các quy định an toàn vốn tại Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế? Những yếu
tố nào ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính tại Việt Nam?
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn, nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng hợp,
phân tích, thống kê có chọn lọc kết hợp với so sánh kết quả trên cơ sở vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong quá trình phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn,
đề tài có sử dụng các các bảng biểu và hình vẽ để chứng minh và rút ra những kết luận cần
thiết.
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Vấn đề đòn bẩy tài chính tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Các tổ chức tín dụng Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2009 đến năm 2014

7


1.6. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lý luận: Phân tích ý nghĩa quan trọng của tỷ lệ đòn bẩy tài chính đối với
việc dự báo rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
Về mặt thực tiễn: Luận văn tổng hợp, phân tích, đánh giá một cách tổng quan về
vấn đề đòn bẩy tài chính tại các NHTM Việt Nam. Qua nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn, luận văn đề xuất giải pháp và kiến nghị thay đổi chính sách quản lý của ngân
hàng trung ương để đảm bảo an toàn của hệ thống NHTM Việt Nam.
1.7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu, và
danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về đòn bẩy tài chính của hệ thống
ngân hàng thương mại

- Chương 2: Cơ sở lý luận về đòn bẩy tài chính của hệ thống ngân
hàng thương mại
- Chương 3: Thực trạng đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam
- Chương 4: Khuyến nghị về vấn đề đòn bẩy tài chính trong hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020

8


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÒN BẨY TÀI CHÍNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.8. Khái quát về đòn bẩy tài chính trong hệ thống ngân hàng thương
mại
1.8.1. Khái quát chung về cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc
huy động được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM, quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động của
các NHTM trong việc thực hiện các chức năng của mình.
Cơ cấu nguồn vốn của NHTM bao gồm:
a. Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng.
Vốn thuộc sở hữu của NHTM chiếm tỷ trọng nhỏ chỉ khoảng 5% tổng nguồn
vốn nhưng có tính chất thường xuyên ổn định, giúp các NHTM trang bị cơ sở vật
chất kĩ thuật, tạo các tài sản cố định phục vụ hoạt động của ngân hàng, cho vay, đầu
tư góp vốn liên doanh, làm tài sản đảm bảo gây dựng lòng tin với khách hàng, duy trì
khả năng thanh toán khi ngân hàng thua lỗ, chính vì thế nó đóng vai trò cực kỳ quan
trọng. Ngoài ra, quy mô vốn sở hữu của ngân hàng cũng là căn cứ quyết định quy
mô lượng vốn được huy động ảnh hưởng tới khối lượng vốn khả dụng và hoạt động
của ngân hàng. Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng bao gồm Vốn điều lệ và Các quỹ:

- Vốn điều lệ: Là mức vốn được hình thành khi ngân hàng được thành lập. Vốn
điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có khi thành lập 1 ngân hàng do Pháp luật quy định. Nó được ghi vào điều lệ
thành lập ngân hàng và tùy thuộc vào loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình
thành từ các nguồn khác nhau.
- Các quỹ: gồm Quỹ dự trữ, Quỹ dự phòng rủi ro, Quỹ phúc lợi khen thưởng,
Lợi nhuận chưa chia.
b. Nguồn vốn huy động.
Nguồn vốn huy động là các nguồn vốn ngoài nguồn vốn chủ sở hữu. Nó chiếm
khoảng 90% tổng nguồn vốn và phản ánh số vốn mà ngân hàng có thể sử dụng cho
vay làm cơ sở tạo ra lợi nhuận chính cho ngân hàng. Các nguồn huy động bao gồm:
- Nhận tiền gửi: là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền gửi thanh
toán hộ các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Ngân
hàngchỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có nghĩa vụ hoàn trả khi
khách hàng có nhu cầu sử dụng.
9


- Vốn vay: là nguồn vốn mà ngân hàng chủ động tạo nên, chủ động tìm kiếm
khi thiếu vốn như: Vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh toán; vay hộ cho khách;
Vay để cho vay; Vay để giảm chi phí nguồn tiềnlàm giảm bớt chi phí hoạt động.
Các hình thức huy động vốn vay gồm: Kỳ phiếu có mục đích; Trái phiếu; Vốn
vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng và vốn vay từ Ngân
hàng Trung ương.
c. Nguồn vốn khác
- Điều chuyển vốn: là việc mà các hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình
tổng công ty và công ty con gồm có ngân hàng mẹ và các ngân hàng chi nhánh trực
thuộc. Việc điều chuyển lượng vốn điều hòa được sử dụng khi hoạt động huy động
vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn và ngược lại. Thông qua việc điều chuyển có thể

chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn với lãi suất điều hòa thấp hơn lãi suất
đi vay ở ngân hàng ngoài.
- Nguồn vốn ủy thác đầu tư : Là nguồn vốn khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
Ngân hàng đại lý thì sẽ có quyền sử dụng với một lượng vốn được ủy thác đầu tư từ
các tổ chức tài chính nước ngoài hoặc từ chính phủ ủy thác.
Có thể nói, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ - là loại hàng hóa
đặc biệt, không thể thay thế. Ngân hàng chỉ có thể hoạt động khi có luồng tiền không
ngừng luân chuyển. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô hoạt động
của ngân hàng, giúp các ngân hàng chủ động trong kinh doanh, nâng cao vị thế của
ngân hàng trên thị trường và quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tuy
nhiên việc tìm kiếm một cơ cấu nguồn vốn vừa an toàn lại vừa có khả năng mang lại
lợi nhuận lớn cho ngân hàng lại luôn là một vấn đề nan giải cho các nhà quản lý và
nhà nước. Nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, một loạt các quy định về
kết cấu nguồn vốn của ngân hàng ra đời, đặc biệt là các quy định về tỷ lệ đòn bẩy.
1.8.2. Khái niệm đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại.
Đòn bẩy tài chính (FL- Finnancial Leverage) là công cụ sử dụng nợ vay hoặc
các nguồn tài trợ có chi phí lãi vay tài chính nhằm gia tăng tỷ suất sinh lời của các
nhà đầu tư, nó thể hiện mức độ sử dụng vốn vay hoặc các nguồn tài trợ có chi phí lãi
vay tài chính trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm gia tăng tỷ suất lợi
nhuận trên VCSH (ROE) hay lợi nhuận ròng trên 1 cổ phần của công ty (EPS).
FL thể hiện mối quan hệ giữa tổng số nợ và tổng số vốn hiện có và được tính
theo công thức:
FL =

TTS (bq )
1
=
VCSH (bq) 1 − HD

Trong đó, Hệ số nợ (HD) = Tổng nợ / Tổng tài sản

10


Thông qua đòn bẩy tài chính, người ta còn xác định được mức độ góp vốn của
chủ sở hữu với số nợ vay và như một chính sách tài chính của doanh nghiệp. Khi
đòn bẩy tài chính cao, thì doanh lợi vốn chủ sở hữu càng nhạy cảm với những biến
đổi của lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
Tỷ lệ đòn bẩy trong Ngân hàng cũng được xác định tương tự, nhưng ngân
hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, với hình thức kinh doanh chính là nhận
tiền gửi của công chúng, chuyển thành những khoản vay cho các doanh nghiệp phi
tài chính, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho những chủ thể trong
xã hội để hưởng sự chênh lệch về lãi suất. Chính vì thế NHTM có những đặc điểm
sau:
- Cơ cấu bảng cân đối của doanh nghiệp và ngân hàng là khác nhau. Việc vay
ngân hàng tạo thành các khoản nợ của doanh nghiệp thì các khoản tiền gửi của
doanh nghiệp tại ngân hàng lại tạo nên các khoản nợ của ngân hàng. Bên cạnh đó,
các khoản nợ của ngân hàng còn đến từ các khoản tiền gửi từ công chúng và các
khoản vay nợ lẫn nhau giữa các ngân hàng hay NHTW.
- Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, tín dụng và cung cấp dịch vụ.
Đây là lĩnh vực đặc biệt vì tiền tệ liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Hơn nữa, sản phẩm kinh doanh của ngân hàng là tiền và là công cụ do NHNN phát
hành nhằm sử dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô, nên được Nhà nước kiểm soát rất
chặt chẽ.
- Nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng sử dụng trong kinh doanh là nguồn vốn
huy động từ bên ngoài. VCSH của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất thấp, chủ yếu được
dùng để đầu tư các tài sản cố định.
- Hoạt động NHTM chịu sự chi phối rất lớn bởi chính sách tiền tệ và các quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy có thể kết luận rằng, NHTM là một loại hình doanh nghiệp, kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng và chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Vì

vậy ngân hàng được phép chấp nhận một tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao hơn các loại
hình doanh nghiệp thông thường nhiều lần. Một tỷ lệ đòn bẩy cao có thể làm gia tăng
đáng kể thu nhập của cổ đông các ngân hàng (theo công thức ROE = ROA * FL), tuy
nhiên nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với an toàn hoạt động của ngân hàng đó. Từ
thực tiễn cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 đã cho thấy, một hệ thống
ngân hàng với tỷ lệ đòn bẩy quá cao có thể gia tăng nguy cơ hình thành và lan rộng
khủng hoảng tài chính. Điều này đặt ra câu hỏi cho các cấp quản lý về một tỷ lệ đòn
bẩy an toàn và hiệu quả.

11


1.8.3. Đặc điểm của đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
hiện đại. Bất cứ 1 biến động nào trong ngành ngân hàng cũng có thể gây ra hiệu ứng
dây chuyền, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra các ngân hàng còn được
hưởng lợi từ bảo hiểm tiền gửi, vì vậy hệ thống ngân hàng đồng thời chịu sự giám
sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng, cơ quan giám sát NHNN thông qua các quy
định về an toàn vốn. Điều này khiến cho đòn bẩy tài chính trong ngân hàng có những
đặc điểm nổi bật mà các loại hình doanh nghiệp khác không có.
Thứ nhất, đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thường rất cao.
Để có vốn hoạt động, đáp ứng các yêu cầu của cơ quan chức năng và điều kiện
để vay vốn, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sử dụng nguồn vốn tự có ở mức
tương đối cao. Nhằm giảm thiểu chi phí vay vốn, thời gian huy động linh hoạt cũng
như không phải trả chi phí lãi vay, hay lo lắng về áp lực trả nợ. Hơn nữa với tỷ lệ nợ
quá cao cũng làm mất lòng tin của các bên cho vay đối với doanh nghiệp. Thông
thường, các doanh nghiệp thường chọn tỷ lệ này khoảng 60% -70% trong tổng
nguồn vốn kinh doanh.
Ngược lại, với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động ngân hàng chủ yếu huy
động vốn từ các thành phần kinh tế và cho vay lại, sử dụng loại hàng hóa đặc biệt là

tiền, và là nguồn cung cấp tài chính cho hầu hết các chủ thể kinh tế, chính vì thế tỷ lệ
nợ của ngân hàng cao hơn rất nhiều và thường ở mức 80-90% tổng nguồn vốn kinh
doanh, còn vốn tự có chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Ngoài ra việc hưởng lợi từ bảo
hiểm tiền gửi và nắm giữ những tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt, tài sản
tài chính giúp các ngân hàng có thể chuyển đổi rủi ro nhanh chóng và dễ ràng, ít khi
gặp các vướng mắc về thanh khoản. Việc các NHTM Việt Nam còn trực thuộc
NHNN- nơi có vai trò người cho vay cuối cùng, cho phép các ngân hàng có thể vay
từ NHTW khi xảy ra khủng hoảng thanh khoản tạm thời cũng giúp các ngân hàng
giảm thiểu được rủi ro khi sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy tài chính rất cao.
Tuy nhiên việc duy trì một tỷ lệ đòn bẩy tài chính quá cao cũng rất dễ dẫn đến
các rủi ro. Chính vì vậy vấn đề cơ cấu vốn của ngân hàng vẫn luôn được giám sát và
quan tâm nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua. Khi mà một bên là các cơ quan chức
năng, các nhà nghiên cứu luôn đặt ra yêu cầu một tỷ lệ vốn lớn hơn nhằm củng cố
sức mạnh cũng như sự an toàn của hệ thống tài chính, minh chứng như quy định về
an toàn vốn tối thiểu của Ủy ban Basel được áp dụng đối với hệ thống ngân hàng của
nhiểu nền kinh tế lớn trên thế giới, ở Việt Nam là quy định tại Thông tư 13/2010/TTNHNN. Trong khi các nhà quản trị ngân hàng luôn mong muốn duy trì một tỷ lệ nợ
cao trong cấu trúc vốn của mình, với quan điểm rằng nắm giữ quá nhiều vốn trong
12


tay sẽ làm giảm giá trị của ngân hàng cũng như giảm đi hiệu quả của các hoạt động
tín dụng hay các hoạt động kinh doanh khác, nguyên nhân là do các ngân hàng phải
cân nhắc giữa chi phí từ việc nắm giữ vốn lớn mà không được đem ra sử dụng, cho
vay tín dụng sẽ làm ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng và các chủ sở hữu.
Tuy nhiên, sau khi Hiệp ước Basel II chính thức được ban hành (26/6/2004)
được 4 năm thì khủng hoảng toàn cầu 2008- 2009 diễn ra đã khiến cho BCBS nhận
ra những lỗ hổng của Basel II trong công tác điều hành lĩnh vực tài chính, một trong
những sai lầm cơ bản của Basel II là thiếu yêu cầu về phí vốn thanh khoản, quá tin
cậy vào cơ quan xếp hạng tín dụng và bản chất có tính chu kỳ của nó. Chính điều đó
đã một lần nữa đặt ra câu hỏi về việc xác định cơ cấu vốn cũng như một tỷ lệ đòn

bẩy hợp lý trong các ngân hàng cho các nhà quản lý tuy nhiên tới thời điểm hiện tại
vẫn chưa có câu trả lời hợp lý cho vấn đề này.
Thứ hai, tỷ lệ đòn bẩy chịu sự quản lí chặt chẽ bởi các quy định của các cơ
quan chức năng.
Với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng có ảnh hường lớn tới toàn bộ nền
kinh tế, và có quan hệ vốn ảnh hưởng lẫn nhau nên chỉ cần có một biến động nhỏ của
tình hình thị trường cũng có thể dẫn đến sự biến động lớn trong bảng cân đối của
ngân hàng, dẫn đến sự bất ổn của toàn hệ thống, lan tỏa đến cả hệ thống tài chính và
nền kinh tế. Chính vì thế, sự ổn định, an toàn và hiệu quả trong hoạt động của các
NHTM đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đòn bẩy tài chính của NHTM cũng vì
thế mà trở thành đối tượng quan tâm chính của các cơ quan giám sát tài chính.
Hiện nay, hàng loạt các quy định về cấu trúc vốn của NHTM đã được đưa ra.
Trên thế giới, chuẩn mực được áp dụng phổ biến nhất là quy định của hiệp ước vốn
Basel được ban hành vởi Ủy ban Basel được áp dụng tự nguyện ở các nước Châu Âu
và khắp các nước khác. Ở Việt Nam, đối với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), quy
định có liên quan đầu tiên là Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN, sau đó là Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN. Năm 2010, Thông tư 13/2010/TT-NHNN ra đời, với những
quy định chặt chẽ và cụ thể hơn tiếp cận gần hơn với phương pháp tính của Basel II.
Các quy định này đã quy định rõ về tỷ lệ vốn tự có tối thiểu mà các NHTM phải đáp
ứng, qua đó thấy được giới hạn về tỷ lệ nợ mà các NHTM có thể huy động trong cơ
cấu vốn để đáp ứng sự an toàn trong hoạt động, hạn chế những rủi ro có thể gặp phải
như rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp.
Theo các ý kiến mới đây phải đồng thời xây dựng quy mô tăng trưởng vốn tự
có phù hợp với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản để đảm bảo an toàn cho hệ thống,
giảm thiểu nguy cơ lan rộng khủng hoảng xuyên quốc gia.

13


Thứ ba, đòn bẩy tài chính của ngân hàng nhạy cảm cao với môi trường kinh

doanh.
Nguyên nhân là do yếu tố đầu vào và đầu ra của ngân hàng đều là tiền, luồng
tiền chỉ phát sinh khi các nghiệp vụ đi vay và cho vay liên tục diễn ra, và chỉ có như
vậy ngân hàng mới có thể hoạt động, tồn tại và thực hiện đúng chức năng trung gian
tài chính của mình. Mặt khác, lượng tiền này phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của
các chủ thể của nền kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động này lại rất nhạy cảm với các biến
số kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hay các yếu
tố như chính trị, luật pháp. Khi nguồn vốn huy động của ngân hàng giảm kéo theo
đòn bẩy tài chính giảm. Như trong điều kiện kinh tế suy thoái, đầu tư, kinh doanh
kém hiệu quả, hoạt động đầu tư, tiết kiệm của công chúng cũng vì thế mà trì trệ, đòn
bẩy tài chính của ngân hàng cũng giảm xuống.
Như vậy, có thể thấy, mặc dù cách xác định đòn bẩy tài chính trong ngân hàng
và doanh nghiệp là giống nhau nhưng nó lại có những đặc điểm khác biệt. Đòn bẩy
tài chính trong ngân hàng thường ở mức rất cao, chịu sự tác động mạnh bởi các yếu
tố vĩ mô, môi trường kinh doanh cũng như sự giám sát chặt chẽ bởi các quy định của
các cơ quan chức năng. Cũng chính vì thế, đòn bẩy tài chính trong ngân hàng luôn
nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà làm chính sách nhằm
hướng đến một cơ cấu vốn an toàn và hiệu quả.
1.8.4. Các chỉ tiêu xác định đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại
1.8.4.1. Đòn bẩy dạng giản đơn FL – Financial Leverage
Đòn bẩy tài chính dạng đơn giản dùng để đo tỷ lệ Tổng tài sản/Vốn chủ sở hữu,
trong đó các giá trị đều là giá trị ghi sổ. Vốn chủ sở hữu là tổng giá trị ghi sổ của cổ
phiếu thường và cổ phiểu ưu đãi tích lũy vĩnh viễn. Công thức đòn bẩy tài chính như
sau:
FL =

Trong đó Hệ số nợ

TTS (bq )
1

=
(1.1)
VCSH (bq) 1 − HD

= Tổng nợ/ Tổng tài sản.

Bên cạnh cách xác định trên, Basel III đưa ra cách tính đòn bẩy tài chính theo
công thức:

Để đảm bảo tính thống nhất giữa các phần trong đề tài, thuật ngữ “đòn bẩy tài
chính” sẽ được xác định theo công thức 1.1.

14


Trong thực tế, khi sử dụng đòn bẩy tài chính dạng đơn giản làm thước đo mức độ
an toàn vốn của ngân hàng làm phát sinh 3 vấn đề.
- Giá trị thị trường: Theo các quy định về mức an toàn trong hoạt động ngân hàng
thì đòn bẩy tài chính không được vượt quá một mức nhất định. Tuy nhiên có những
thời điểm đòn bẩy tài chính chưa vượt qua ngưỡng này nhưng giá trị thị trường lại ở
mức thấp, thiếu an toàn, thậm chí âm. Điều này có nghĩa là người gửi tiền, bảo hiểm
tiền gửi và nhà quản lý đứng trước rủi ro vỡ nợ của ngân hàng.
- Tài sản có chịu rủi ro: Vì tử số của công thức đòn bẩy tài chính là tổng tài sản
có ghi sổ nên đã không phản ánh được mức độ rủi ro của từng loại rủi ro tín dụng và
rủi ro lãi suất đối với các loại tài sản khác nhau
- Các hoạt động ngoại bảng (OBS – Off Balance Sheet): các hoạt động liên quan
đến các dạng cam kết hay hợp đồng tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng nhưng
không được ghi nhận như như Tài sản hay Nợ theo thủ tục thông thường, qua đó làm
tăng thu nhập dưới hình thức hoa hồng hay thu phí. Trong thời gian gần đây, những
hoạt động ngoại bảng không ngừng được phát triển, tạo ra nguồn lợi nhuận không nhỏ

cho ngân hàng bù đắp cho sự giảm thu nhập từ các nghiệp vụ truyền thống. Nguyên
nhân là do các hoạt đông này có thể tránh được các khoản chi phí về thuế và chi phí dự
trữ bắt buộc, chi phí bảo hiểm tiền gửi. Các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển
mạnh mẽ, nhưng chỉ số đòn bẩy tài chính giản đơn đã không buộc ngân hàng phải có
một tỷ lệ vốn nhất định để phòng ngừa rủi ro vỡ nợ từ các hoạt động ngoại bảng.
1.8.4.2. Hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR.
Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) là một chỉ tiêu an toàn trong hoạt động ngân
hàng, được quy định rõ trong luật lệ của giới ngân hàng quốc tế (chuẩn Basel). CAR
là thương số của vốn tự có và tổng tài sản rủi ro (tức giá trị các tài sản có nhân với hệ
số rủi ro). Quy định về hệ số CAR được đưa ra nhằm yêu cầu các ngân hàng phải có
tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu tính trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro và rủi ro
thị trường; rủi ro hoạt động ở mức an toàn là 8% trong điều kiện thông thường:

Trong đó:
(i) Tổng tài sản rủi ro = Rủi ro tín dụng + Rủi ro thị trường + rủi ro hoạt động
(ii) Rủi ro tín dụng = Tổng tài sản “Có” rủi ro
(iii) Vốn tự có của các ngân hàng = Vốn chủ sở hữu (+) Một số tài sản nợ khác,
và được chia thành 3 loại:
- Vốn cấp 1: (vốn tự có cơ bản) là vốn sẵn có, chắc chắn, bao gồm vốn đóng góp
của cổ đông (vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần), thặng dư vốn, lợi nhuận không chia, các
15


khoản dự trữ dự phòng, các phương tiện ủy thác có thể chuyển đổi. Trong đó, tỷ lệ vốn
cấp I = Vốn cấp I/Tài sản chịu rủi ro được yêu cầu duy trì ở mức trên 4%.
- Vốn cấp 2: (Vốn tự có bổ sung) có độ tin cậy thấp hơn vốn từ thặng dư vốn cổ
phẩn; chênh lệch do đánh giá lại tài sản, các khoản dự phòng tổn thất, vốn bổ sung từ
các công cụ nợ hỗn hợp (trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi); các khoản nợ dài hạn
thỏa mãn các điều kiện nhất định.
- Vốn cấp 3: tuỳ theo quy định của cơ quan giám sát ngân hàng mà các ngân

hàng có thể được sử dụng các khoản nợ thứ cấp ngắn hạn dành cho mục đích duy nhất
đáp ứng một phần yêu cầu về vốn đối với rủi ro thị trường.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR yêu cầu các ngân hàng cần phải có cơ sở vốn
mạnh, bao gồm vốn điều lệ, lợi nhuận để lại không chia và các hình thức vốn bổ
sung nhằm củng cố và hoàn thiện khả năng ứng phó đối với rủi ro và tăng cường
mức độ lành mạnh và ổn định của hệ thống ngân hàng trước những diễn biến ngày
càng phức tạp của môi trường tài chính ngân hàng toàn cầu.
1.8.4.3. Kết hợp Đòn bẩy tài chính giản đơn và hế số an toàn vốn tối thiểu CAR
Việc sử dụng kết hợp cả đòn bẩy tài chính giản đơn và hệ số CAR nhằm đảm bảo
an toàn cho hệ thống NHTM là cần thiết, nguyên nhân là do:
Thứ nhất, việc áp dụng hệ số CAR được nhắc đến trong các chuẩn mực quốc tế
của Ủy ban Basel có sự không tương thích khi áp dụng chung cho các nước cả đang
phát triển và đã phát triển về cơ cấu thị trường, cách đánh giá tài sản rủi ro, môi trường
kinh doanh, các loại rủi ro. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR có sự phụ thuộc lớn vào
mẫu số là tài sản có rủi ro, mặc dù vậy trước những biến động của nền kinh tế thì yếu
tố này thường có sự thay đổi mạnh, từ đó ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ số CAR.
Nhược điểm lớn nhất của CAR là chịu ảnh hưởng trọng yếu bởi các tài sản rủi ro mà
nếu không phân loại một cách chính xác và minh bạch sẽ dẫn tới sự không chính xác
trong cách xác định và dẫn đến việc đưa ra các kết luận sai lầm cho hệ thống NHTM.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của hệ thống ngân hàng mặc dù ở hiện tại đang ở
mức an toàn, nhưng có thể bị sụt giảm nhanh chóng trong điều kiện tình hình kinh tế
vĩ mô bất ổn. Vì vậy, chỉ số dự báo vốn tự có trên tài sản có rủi ro không phát huy
được vai trò cảnh báo cũng như tấm đệm phòng ngừa rủi ro khi mà tỷ lệ đòn bẩy của
các ngân hàng vẫn ở mức cao. Thực chất tính an toàn của ngân hàng được phản ánh rõ
nét hơn qua tỷ lệ Vốn tự có/Tổng tài sản. Hệ số CAR và hệ số Vốn tự có/Tổng tài sản
cùng được cải thiện nhưng tốc độ tăng của hệ số CAR cao hơn đáng kể so với hệ số Vốn
tự có/Tổng tài sản trong thời gian qua tại Việt Nam. Do đó, một yêu cầu đặt ra là các
NHTM Việt Nam cần quan tâm hơn đến việc gia tăng hệ số Vốn tự có/Tổng tài sản hay
giảm tỷ lệ đòn bẩy của mình để đảm bảo khả năng ứng phó với rủi ro trong thời gian tới.
16



Thứ hai, về tỷ lệ đòn bẩy tài chính, tỷ lệ đòn bẩy tài chính có khả năng giúp các
ngân hàng gia tăng lợi nhuận lên gấp nhiều lần tuy nhiên cũng khiến cho thiệt hại của
các ngân hàng khuếch đại, khiến cho các ngân hàng phải chịu tổn thất to lớn khi gặp
rủi ro. Khi sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy tài chính quá cao khiến cho các ngân hàng trở
nên nhạy cảm với các biến số vĩ mô, chỉ một thay đổi nhỏ cũng khiến ngân hàng chịu
những cú sốc rất lớn. Các NHTM có xu hướng tăng tỷ lệ đòn bẩy nhằm giảm chi phí
vốn vay và gia tăng tỷ suất lợi nhuận, khiến cho tính rủi ro hệ thống cũng tăng lên
tương ứng với mức độ sử dụng đòn bẩy trung bình, nó được coi là nguyên nhân chính
gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính nhất là khi các ngân hàng không còn đủ vốn
chủ để chống đỡ khi xảy ra rủi ro thanh khoản dẫn đến rủi ro hệ thống.
Từ các phân tích trên đã chỉ ra những điểm bất cập khi sử dụng riêng rẽ hai chỉ
số tỷ lệ đòn bẩy giản đơn và CAR. Điều nay đòi hỏi cần phải sử dụng kết hợp cả hai
chỉ số nhằm khắc phục các nhược điểm trên và đưa ra một phương pháp xác định độ
an toàn cho hệ thống ngân hàng một cách toàn diện.
1.8.5. Vai trò của đòn bẩy tài chính trong ngân hàng thương mại
Thứ nhất, đòn bẩy tài chính giúp khuếch đại lợi nhuận cho chủ sở hữu.
Với các giả định: Thị trường vốn hoàn hảo; Không có việc đánh thuế; Các rủi
ro hoàn toàn được tính toán bởi biến đổi của các luồng tiền;
Lý thuyết về cấu trúc vốn trong nghiên cứu của Modigliani và Miller (1958) có
viết “Việc sử dụng nợ mang đến cho chủ sở hữu tỷ suất lợi tức cao hơn, nhưng lợi
tức này là để bù đắp rủi ro cho việc tăng tỷ lệ vốn vay/tổng nguồn vốn, và kết quả là
giá trị công ty không có sự khác nhau giữa việc sử dụng nợ và không sử dụng nợ
trong cơ cấu nguồn vốn. Chính vì thế, sự lựa chọn giữa vốn chủ sở hữu và nợ không
liên quan tới giá trị công ty”.
Tuy nhiên, theo thực tế hiện nay, giá trị công ty bị ảnh hướng lớn bởi yếu tố
thuế thu nhập doanh nghiệp cho nên kết luận của Modigliani và Miller là chưa thật
chính xác. Nguyên nhân là do khi sử dụng nợ, doanh nghiệp phải trả một khoản chi
phí lãi vay, và khoản này sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế thu nhập doanh

nghiệp, do đó khoản thuế thu nhập doanh nghiệp mà doanh nghiệp phải đóng giảm
đi, phần giảm đó được chuyển thành lợi nhuận cho các nhà đầu tư và kết quả là các
nhà đầu tư sẽ thu được một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Tỷ lệ này càng cao khi khi tỷ lệ
sử dụng nợ càng cao và sẽ đạt tối đa khi toàn bộ nguồn vốn của doanh nghiệp được
tài trợ bởi các khoản nợ. Với ngân hàng, điều này càng đúng hơn, bởi nguồn vốn của
ngân hàng chủ yếu đến từ các khoản tiền gửi, trái phiếu, nợ vay từ chủ thể khác
trong nền kinh tế, mà bản chất là các khoản nợ.

17


Điều này cũng được minh chứng qua việc phân tích tỷ suất lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu (ROE) thông qua công thức ROE = ROA * FL. Theo đó, ROE tỷ lệ thuận
với tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các ngân hàng, FL càng cao thì ROE sẽ càng cao và
ngược lại. Sử dụng đòn bẩy tài chính, các doanh nghiệp có thể gia tăng lợi nhuận cho
chủ sở hữu từ nguồn vốn không phải của mình.
Không chỉ vậy, thông qua việc sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy cao, các NHTM đã
làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình. Nguồn vốn được vận động một cách
nhịp nhàng từ nơi dư thừa đến nơi thiếu hụt, hoạt động sản xuất kinh doanh được
kích thích, gia tăng giá trị cho nền kinh tế nói chung, các NHTM nói riêng.
Thứ hai, đòn bẩy tài chính ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Đòn bẩy tài chính là một công cụ giúp xác định được mức độ góp vốn của chủ
sở hữu với số nợ vay chính vì thế nó được coi như một chính sách tài chính của
doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đánh giá được mức độ ảnh hưởng của chính sách
vay nợ của doanh nghiệp tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, mà trong đó có
các Ngân hàng- một loai hình doanh nghiệp đặc biệt. Việc sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy
có ảnh hưởng đến chi phí đại diện, chi phí sử dụng vốn của cả các doanh nghiệp tài
chính và doanh nghiệp phi tài chính.
Theo lý thuyết về tài chính doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

chịu ảnh hưởng bởi cấu trúc sở hữu do sự khác biệt về mối quan hệ giữa chủ sở hữu
vốn và người quản trị. Chủ sở hữu vốn và nhà quản trị luôn có sự đối nghịch về lợi
ích, có nghĩa là, việc chủ sở hữu và nhà quản trị có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích tập thể sẽ gây ra mâu thuẫn trong vấn đề quản trị, xác định hướng phát
triển của công ty, ảnh hưởng đến hiệu suất làm việc, hiệu quả hoạt động và qua đó
ảnh hưởng tới giá trị cổ đông, hình ảnh và giá trị của công ty.
Việc lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý có thể giúp tăng hoặc giảm chi phí đại diện.
Khi các ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao, tức sử dụng nhiều nợ, tương ứng
với nó là một tỷ lệ vốn của chủ sở hữu thấp; các chủ sở hữu thường sẽ có tâm lý ít
quan tâm hơn đến nguồn vốn của mình so với việc sử dụng một tỷ lệ đòn bẩy tài
chính thấp hơn. Trong khi đó, việc sử dụng một tỷ lệ nợ cao có khả năng làm gia
tăng lợi nhuận cho chủ sở hữu, và từ đó quyền lợi từ lương của nhà quản trị cũng
được gia tăng. Do vậy, đòn bẩy tài chính có thể được sử dụng như nhân tố thúc đẩy
đội ngũ quản lý công ty.
Mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu quả hoạt động vẫn luôn nhận được
nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Việc một doanh nghiệp hay
một ngân hàng nắm giữ quá nhiều vốn thường được xem như một cơ cấu vốn không
18


hiệu quả. Bởi lẽ, ban đầu, các ngân hàng thường cho rằng việc sử dụng vốn của mình
sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn do không phải tính chi trả lãi vay dựa trên lợi nhuận
kiếm được. Tuy nhiên, sử dụng vốn chủ sở hữu có chi phí cơ hội cao, vì vậy mà hiệu
quả kinh doanh thậm chí giảm đi so với việc sử dụng nợ. Không chỉ vậy, việc các
doanh nghiệp, ngân hàng phát hành trái phiếu, cổ phiếu nhằm gia tăng vốn chủ sở
hữu cũng mất nhiều thời gian và chi phí hơn so với việc sử dụng nợ. Từ đó có thể
thấy, nợ hay đòn bẩy tài chính góp phần làm giảm thu nhập tính thuế và làm giảm
thuế phải nộp, do vậy đem lại một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Nó cho phép ngân hàng
được sử dụng nguồn vốn không phải của mình để đem lại lợi nhuận cho chủ sở hữu.
Ngoài việc tác động đến chi phí đại diện mà ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động, việc lựa chọn vốn chủ hay nợ hay chính là việc quyết định mức đòn bẩy tài
chính còn tác động đến tính chất của các tài sản đầu tư trên bảng cân đối của ngân
hàng. Việc tỷ lệ nắm giữ vốn cao sẽ thúc đẩy ngân hàng đầu tư vào các tài sản có
tính an toàn hơn so với tỷ lệ nắm giữ nợ cao, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động.
Đây cũng là một nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng.
Thứ ba, đòn bẩy tài chính là công cụ giúp các nhà quản lí đưa ra các quyết định
tài chính.
Đòn bẩy tài chính là một công cụ giúp các doanh nghiệp gia tăng vốn chủ sở
hữu. Tuy nhiên, nó cần được xem xét thận trọng khi đem lại bao nhiêu lợi ích thì
cũng tiềm ẩn bấy nhiêu rủi ro. Gia tăng tỷ lệ đòn bẩy có thể giúp các doanh nghiệp
khuyếch đại lợi nhuận khi doanh nghiệp có lãi, ngược lại cũng làm gia tăng rủi ro lên
nhiều lần khi doanh nghiệp chịu lỗ. Chẳng hạn, khi thu nhập trước thuế và lãi vay
của doanh nghiệp ít hơn chi phí tài chính cố định của nợ và cổ tức ưu đãi thì sử dụng
đòn bẩy tài chính có thể làm giảm lợi nhuận của các cổ đông thường, làm tăng tỷ lệ
lỗ tiềm ẩn của cổ đông thường. Còn nếu lợi nhuận trước thuế và lãi vay nhỏ hơn chi
phí tài chính cố định, sử dụng nợ sẽ đem đến một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn cho các cổ
đông. Việc nghiên cứu một tỷ lệ đòn bẩy tài chính sẽ giúp làm sáng tỏ nguyên tắc
đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro trong các quyết định của mình, từ đó xác định một
cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp.
Đặc biệt với ngân hàng, rủi ro mang tính dây chuyền, ảnh hưởng đến cả nền
kinh tế, dẫn đến sự đổ vỡ của cả hệ thống tài chính. Việc sử dụng nhiều vốn hơn sẽ
giúp các ngân hàng giảm thiểu được rủi ro (theo thuyết cân bằng trade-off theory)
giúp cho ngân hàng có thể chống trọi được với những rủi ro và sự giảm sút doanh
thu trong điều kiện suy thoái kinh tế, giảm sút lượng vốn huy động.

19


Cùng với đó, đòn bẩy tài chính còn giúp các nhà hoạch định xem xét đến cơ

cấu tài sản của ngân hàng. Các ngân hàng thường có xu hướng dùng vốn chủ sở hữu
đem đầu tư vào các tài sản có tính an toàn như tín phiếu Kho bạc Nhà nước, Trái
phiếu Chính phủ, bất động sản… và sử dụng nguồn vốn đi vay để cho vay, và đầu tư
vào các tài sản ít đảm bảo và tính an toàn kém hơn. Tóm lại, với một tỷ lệ đòn bẩy
thích hợp nào đó các ngân hàng có thể căn cứ vào đó để xác định nguồn đầu tư và ra
các quyết định khác trong quản trị tài chính, bao gồm đầu tư và phân phối lợi nhuận.
1.8.6. Những rủi ro trong ngân hàng thương mại liên quan đến đòn bẩy tài
chính
Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực có nghĩa là
nó có thể mang lại cho các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp những cơ hội mà nếu biết
tận dụng để tìm ra biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực thì sẽ là
bước nhảy vọt vượt qua các đối thủ đang cạnh tranh, lợi nhuận mang lại sẽ rất lớn,
và có thể chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn, vừa mang tính tiêu cực vì nếu không tìm
ra được biện pháp khắc phục, đi qua giai đoạn khó khăn thì có thể dẫn đến sự sụp đổ
của doanh nghiệp. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh gắn liền với những rủi ro
đặc thù như ngân hàng. Các ngân hàng luôn phải đối mặt với những rủi ro liên quan
đến cấu trúc vốn, và câu hỏi đặt ra là nên kết hợp một tỷ lệ là bao nhiêu giữa vốn chủ
sở hữu và nợ để có thể hạn chế rủi ro nhằm đạt được mức lợi nhuận kì vọng? Để có
thể xác định một cơ cấu vốn hợp lý, các nhà quản trị phải hiểu được những rủi ro mà
ngân hàng phải đối mặt khi lựa chọn cơ cấu vốn. Các rủi ro được nhìn nhận là:
Một là, rủi ro thị trường. Rủi ro thị trường là những rủi ro đến từ môi trường
bên ngoài như rủi ro tỷ giá, công nghệ, lãi suất, giá chứng khoán… Ngân hàng
không thể tác động làm thay đổi các yếu tố này, mà chỉ có thể dự báo xu hướng, tính
toán mức độ ảnh hưởng để từ đó đưa ra các biện pháp chủ động điều chỉnh quy mô,
cơ cấu tài sản có, sao cho hạn chế thấp nhất tổn thất có thể xảy ra thông qua việc kết
hợp mô hình hiện đại trong việc ước lượng rủi ro lãi suất và sử dụng linh hoạt các
công cụ tài chính phái sinh.
Rủi ro thị trường có tác động lớn, có tính chất hệ thống ảnh hưởng tới toàn bộ
hệ thống ngân hàng, do đó chỉ cần một thay đổi nhỏ một trong các biến số vĩ mô
cũng có thể làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Ví dụ cơ

chế tác động của nợ đến rủi ro ngân hàng qua giá tài sản. Khi giá tài sản giảm, tài sản
của người đi vay giảm, và họ vướng vào các vấn đề trong việc trả nợ, ngược lại,
ngân hàng gặp vấn đề trong việc đòi nợ từ các chủ thể ấy. Nếu tình hình nghiêm
trọng còn có thể dẫn đến việc các chủ thể này bị phá sản và tỷ lệ ngân hàng không
đòi được nợ là rất cao. Điều này chỉ ra tầm quan trọng của bảo hiểm tiền gửi trong
20


hoạt động tín dụng của ngân hàng và với một cơ cấu vốn, tỷ lệ đòn bẩy sẽ tác động
như thế nào tới ngân hàng. Với một tỷ lệ đòn bẩy càng cao, ngân hàng càng phụ
thuộc vào các nguồn tài trợ bên ngoài, và càng nhạy cảm với các cú sốc trên thị
trường. Qua đây càng nhìn nhận rõ hơn về tính hai mặt của tỷ lệ đòn bẩy tài chính.
Hai là, rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản phát sinh khi dân chúng mất
lòng tin vào ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng
không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn
hơn mức bình thường. Để đối phó với tình huống này, các ngân hàng buộc phải huy
động, tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung với chi phí tạm thời cao hơn do lượng vốn
cung trên thị trường giảm. Nguyên nhân từ phía các NHTM, khi điều kiện kinh
doanh thuận lợi đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá nóng
trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối cơ cấu tài sản –
nợ, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của các cơ quan chức
năng, dẫn đến tình trạng gia tăng rủi ro trong thanh khoản. Mặt khác, các ngân hàng
thường sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu để đầu tư vào các tài sản có tính an toàn cao,
còn sử dụng các khoản tiền gửi và khoản huy động liên ngân hàng để đầu tư vào các
khoản mục có tính sinh lời cao. Do vậy, khi có sự biến động trên thị trường, việc
chuyển đổi các tài sản có tính rủi ro cao này để đáp ứng nhu cầu thanh khoản là một
việc rất khó khăn. Đòn bẩy tài chính càng cao, việc chuyển đổi càng trở nên tốn kém,
cả về thời gian và chi phí và rủi ro thanh khoản càng thường trực.
Chính vì thế việc áp dụng một tỷ lệ đòn bẩy tài chính có tác động lớn đến các
quyết định đầu tư, vấn đề thanh khoản và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động và sự an

toàn của ngân hàng đòi hỏi sự cân nhắc thận trọng của các nhà quản lý.
Ba là, rủi ro pháp lý là những rủi ro do thay đổi các quy định quản lý của Nhà
nước và luật pháp và được thực thi một cách bất ngờ, nhanh chóng khiến cho hệ
thống vận hành của NHTM không thể đáp ứng kịp thời những thay đổi trong các yêu
cầu, quy định pháp lý và quản lý, nhất là sự thay đổi trên quy mô toàn cầu. Hoặc
trong một số trường hợp, nó là sự không rõ ràng, minh bạch, bất cập trong cách tính
toán không trùng khớp với cách tính chuẩn mực quốc tế... khiến cho các ngân hàng
lúng túng, khó khăn cho việc đáp ứng các quy định mà còn khiến các cơ quan chức
năng khó khăn trong việc thanh tra, giám sát và khiến các ngân hàng hiểu sai quy
định, dẫn đến những sai phạm ngẫu nhiên hoặc có thể do tính minh bạch không rõ
ràng, các ngân hàng lợi dụng sơ hở, lách luật nhằm tìm ra những lỗ hổng nâng cao
lợi nhuận cho các cổ đông và chủ sở hữu... dẫn đến các rủi ro khác như tín dụng,
thanh khoản, hoạt động...

21


×