Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam chi nhánh tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã và đang giành được
nhiểu thành tựu quan trọng, nổi bật trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có được những thành tựu đó là nhờ sự đúng
đắn trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; sự cố gắng nỗ lực của mỗi cá
nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế và đặc biệt không thể không nhắc tới
công lao to lớn mà hệ thống ngân hàng đã đóng góp, đặc biệt là hoạt động của các
NHTM. Các NHTM hoạt động với tư cách là một doanh nghiệp trong nền kinh tế, một
chế tài trung gian trong hoạt động tiền tệ với hoạt động chủ yếu là luân chuyển nguồn
vốn từ chủ thể thừa vốn sang chủ thể thiếu vốn, đáp ứng vốn kịp thời cho các khu vực
doanh nghiệp và dân cư, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Như chúng ta đã
biết, vốn là một yếu tố đầu vào cơ bản và vô cùng quan trọng của quá trình hoạt động
kinh doanh, chúng ta không thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế xã hội nói chung
cũng như các mục tiêu kinh doanh nói riêng nếu như không có vốn. Tuy nhiên, để đáp
ứng vốn cho như cầu thị trường thì các NHTM phải thực hiện việc huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau trong xã hội; do vậy, đây là một mắt xích vô cùng quan trọng
không thể thiếu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh và rất được các NHTM chú trọng
thực hiện.
Tuy nhiên, trên thực tế là không phải cứ huy động được số vốn lớn là đã tốt.
Đặc biệt trong tình hình kinh tế hiện nay với sự biến động liên tục của lãi suất đầu vào,
những thay đổi chính sách của NHNN cùng những biến động của nền kinh tế toàn cầu
thì việc huy động vốn sao cho chi phí hợp lý nhất và tính ổn định cao đang là yêu cầu
ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng để các ngân hàng có thể nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình với các NHTM trong nước và quốc tế, giảm thiểu rủi ro do biến
động của nền kinh tế cũng như tiếp tục thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại
hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn trong ngân hàng
nên em đã mạnh dạn chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy
động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam-Chi
nhánh tỉnh Nam Định” với hy vọng cung cấp cái nhìn tổng quan về hoạt động huy
động vốn, từ đó đánh giá hiệu quả đồng thời xây dựng một hệ thống giải pháp nhằm


nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Mục đích nghiên cứu
• Lý giải những vấn đề lý luận về hoạt động huy động vốn, đi sâu vào nghiên
cứu những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn.

1


• Phân tích, đánh giá, tổng hợp thực trạng hoạt động huy động vốn tại
NHNN&PTNT Việt Nam- Chi nhánh tỉnh Nam Định.
• Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động huy động vốn tại
NHNN&PTNT Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Nam Định.
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
• Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn
tại NHNN&PTNT Việt Nam- Chi nhánh tỉnh Nam Định.
• Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng hiệu quả huy động vốn và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam-Chi nhánh tỉnh
Nam Định.
Phương pháp nghiên cứu:Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận
Mác-Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp
với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh .Cùng với những minh họa
bằng số liệu, bảng biểu, đồ thị nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên trực quan hơn.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài :Đề tài vận dụng lý thuyết để phân
tích,đánh giá thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNN&PTNT Việt Nam- Chi
nhánh tỉnh Nam Định,qua đó thấy được những mặt tích cực và hạn chế của công tác
huy động vốn. Để từ đó làm căn cứ đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm khắc phục
những hạn chế và nâng cao những điểm mạnh nhằm nâng chất lượng hoạt động huy
động vốn .
Kết cấu của đề tài :Ngoài lời mở đầu và phần kết luận,đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động vốn huy động của ngân

hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động vốn huy động tại chi nhánh ngân hàng
nông nghệp và phát triển nông thôn –chi nhánh tỉnh Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động vốn huy động của chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Nam Định

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Ngân hàng thương mại.
Mặc dù Ngân hàng thương mại đã có quá trình hình thành và phát triển lâu dài
nhưng hiện nay khái niệm chung về Ngân hàng thương mại vẫn chưa thống nhất ở các
nước. Sở dĩ như vậy vì hoạt động của Ngân hàng thương mại hết sức đa dạng, phức
tạp, tập quán mỗi nước lại khác nhau và căn cứ để đưa ra định nghĩa cũng theo đó mà
khác nhau.
Ở Pháp, luật Ngân hàng năm 1941 đưa ra: “Ngân hàng là những xí nghiệp hay
cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức kí thác hay
hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu,
dịch vụ hay dịch vụ tài chính”. Hay luật Ngân hàng ở Ấn Độ năm 1959 thì nêu: “Ngân
hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ đầu tư”.
Tuy nhiên, các cách thể hiện khác nhau về Ngân hàng thương mại đều nêu tính
chất chung của Ngân hàng thương mại là việc nhận tiền kí thác, tiền gửi để cho vay,
chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh của Ngân hàng.
Tại Việt Nam, theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì Ngân hàng
thương mại được định nghĩa như sau:

“Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tín dụng kinh doanh tiền
tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, có trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
àm phương tiện thanh toán”.
Các NHTM ở Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh đã thực hiện
đồng thời các hoạt động của ngân hàng thương mại và các hoạt động có tinh chất bảo
trợ, tài trợ cho các hoạt động kinh doanh mang tính kinh tế xã hội của Chính phủ như:
cho vay phát triển các doanh nghiệp nhà nước, cho vay ưu đãi đối với một số đối
tượng dân cư và các thành phần kinh tế khác. Để hiểu rõ hơn về Ngân hàng thương
mại, chúng ta cùng xem xét chức năng cũng như hoạt động của nó. Chức năng của
ngân hàng thương mại.

3


Tầm quan trọng của các NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. Các
chức năng của NHTM có thể được nêu ra ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn
chung đều được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng chủ yếu sau:
1.1.2. Chức năng của NHTM
1.1.2.1. Chức năng làm trung gian tín dụng
Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là ''cầu nối'' giữa người có vốn và
người cần vốn.
Ngân hàng thương mại trong quan hệ tín dụng:

Người sở hữu
Người cho vay

Cho vay

NHTM


Trả nợ

Cho vay

Người sở hữu
Người cho vay

Trả nợ

Ngân hàng vừa đóng vai trò là người nhận tiền gửi vừa đóng vai trò là người
cho vay. Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã góp phần tạo ra lợi ích cho
người gửi tiền, ngân hàng, người đi vay và đảm bảo lợi ích của nền kinh tế.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của NHTM vì nó phản ánh bản chất
của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nó quyết định sự duy trì và phát triển của
ngân hàng đồng thời nó cũng là cơ sở để thực hiện 2 chức năng sau:
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng đóng vai trò là người ''thủ quỹ” cho
các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản của khách hàng, chi
tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển, chức năng này càng
được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng. NHTM thực hiện
chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện chức năng trung gian tín dụng.
Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền
gửi để theo dõi các khoản thu chi. Đó chính là tiền đề để khách hàng thực hiện thanh
toán qua ngân hàng, đặt ngân hàng vào vị trí làm trung gian thanh toán. Hơn nữa, việc
thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế. Đó là rủi
ro phải vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn, đặc biệt là với khách hàng ở cách xa


4


nhau đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
1.1.2.3. Chức năng ''tạo tiền'' (tạo ra tiền gửi thanh toán)
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện chức
năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung
gian thanh toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng tại NHTM. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao
dịch.
Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển
khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số dự trữ
tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số
này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa
và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Các chức năng của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau
trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất tạo cơ sở cho việc
thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung
gian tín dụng và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở
rộng hoạt động tín dụng.
Trên đây là các chức năng cơ bản quan trọng nhất của NHTM. Ngoài ra, cùng
với sự phát triển của thị trường tiền tệ, hoạt động của các NHTM ngày càng phát triển,
phong phú. Chính vì vậy, khi các TTCK lần lượt ra đời thì các ngân hàng, đặc biệt là
các NHTM đã mở rộng các nghiệp vụ của nó vào thị trường này và thực tế cho thấy
khi có sự tham gia của ngân hàng vào TTCK thì thị trường này trở nên hiệu quả hơn.
1.1.3. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1.1.3.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp

và Nhà nước trong nền kinh tế. Vì vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân
và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là cần phải mở rộng
quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự
phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có
vốn. Mặt khác khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng tạo ra nhiều nguồn vốn điều đó

5


sẽ có tác động tích cực đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng thương mại là chủ thể
chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi thành phần kinh tế như:
vốn tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất, vốn từ nguồn tiết kiệm của các
cá nhân trong xã hội...Bằng vốn huy động được trong nền kinh tế, thông qua hoạt động
tín dụng, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng
nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại và đặc bệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có
điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.3.2. NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự
tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường,
thoả mãn nhu cầu thị trường trên mọi phương diện như: không những thoả mãn nhu
cầu về phương diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá mà còn đòi
hỏi thoả mãn cả trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất các
yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động,
củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán...mà còn phải
không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên
vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp...Những hoạt động này đòi

hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt khả năng vốn tự có của doanh
nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng
thương mại để vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động
tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng cung ứng cho doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị
trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.3.3. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại hoạt động
một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một

6


công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ
thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong
lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân
hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của
thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp
vĩ mô: “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.3.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ tiền tệ hàng hóa ngày càng
được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế-xã hội giữa các nước trên thế giới ngày
càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển
đó. Vì vậy nền tài chính của mỗi nước cũng phải hòa nhập với nền tài chính quốc tế.
Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong sự hòa nhập này. với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền

gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ Ngân hàng
khác, Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng
được mở rộng.
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính. Hoạt động của Ngân hàng
thương mại đặt mục đích lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy
nhất mà Ngân hàng phải có: Đó là vốn.
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác.
Thực chất, nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ của nó
gửi vào Ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau.

7


Vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm: Vốn chủ sở hữu; Vốn huy động; Vốn
đi vay; Vốn khác.
Trong đó hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại là việc tạo lập nên
các nguồn vốn huy động , vốn vay và vốn khác.
Mỗi loại vốn trên đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn
hoạt động của Ngân hàng thương mại. Cụ thể:
* Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tiên để ngân hàng được pháp luật cho phép
hoạt động và đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang
thiết bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm nguồn hình thành ban
đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vay nợ có khả năng chuyển
đổi thành cổ phần và các quỹ.

* Các thành phần của vốn chủ sở hữu và đặc điểm của chúng.
- Vốn ban đầu
Vốn ban đầu hình thành khi ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở hữu
và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân tự
bỏ ra; nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân sách Nhà nước cấp; nếu là
ngân hàng cổ phần thì do cổ đông đóng góp thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ
phiếu); nếu là ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp. Trường
hợp của ngân hàng cổ phần có thể được hình thành từ cổ phần thường và cổ phần ưu
đãi.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các qui định của NHNN. Các qui định
thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải có để bắt
đầu kinh doanh ngân hàng. Luật NHNN có qui định cụ thể cho từng loại ngân hàng
trong từng điều kiện cụ thể.
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thể bán cổ phiếu trên thị
trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức cao hay
thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi nhuận của ngân
hàng.
- Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động
Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm) trong quá trình
hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quĩ ...
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm

8


Ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin
cấp thêm vốn từ ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro
trong trường hợp cần phải duy trì thị giá của cổ phiếu...
- Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên ngân hàng mình
Hình thức huy động này chính là huy động vốn từ chính những cán bộ công

nhân viên trong ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của ngân hàng
và gắn chặt quyền lợi với quyền lợi chung của ngân hàng. Đây là hình thức mang tính
lâu dài và ổn định cần được chú trọng.
- Huy động từ lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu, các quỹ dự phòng tài chính,
quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng và các loại quỹ khác
Nếu như lợi nhuận để lại của ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn
của mình thì thông thường đây chính là nguồn bổ sung quan trọng nhất. Nguồn bổ
sung này có thể lấy trực tiếp từ các quỹ như: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ
cấp….Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi nào thì được phép trích lập từ
các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích lập ra sao cho hợp lý.
- Vốn bổ sung bằng phát hành giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu
Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các trái phiếu dài hạn cũng
thuộc vốn chủ sở hữu mặc dù chúng mang nhiều tính chất của một khoản nợ. Tuy
nhiên, phần này thường bị giới hạn và kiểm soát chặt chẽ.
* Vai trò
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh
doanh ngân hàng là huy động để cho vay. Theo thông tư 36/2014 của NHNN Việt
Nam thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song
Vốn chủ sở hữu có vai trò rất quan trọng.
- Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền
Kinh doanh ngân hàng thường xuyên đối mặt với rủi ro. Các khoản tổn thất của
ngân hàng sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu
lớn, người gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động cho
ngân hàng
Như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có
được số vốn tối thiểu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị,
nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện...

9



Ngoài ra, Vốn chủ sở hữu có vai trò điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng:
Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng có liên quan chặt chẽ với vốn chủ sở
hữu như quy mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với vốn chủ sở hữu... Vì vậy quy
mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo vốn chủ sở hữu.
* Vốn huy động
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua các quá trình thực hiện các nghiệp
vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh
doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, Ngân hàng
chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn
cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền
gửi không kỳ hạn).
Vốn huy động luôn biến động nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết số
vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh
toán.
Ngân hàng thương mại huy động vốn thông qua các kênh chủ yếu sau:
Thứ nhất: Nhận tiền gửi
Đây là số tiền của khách hàng là các tổ chức, cá nhân, tổ chức tín dụng khác trong
và ngoài nước gửi vào Ngân hàng và được Ngân hàng cấp cho tài khoản tiền gửi. Nguồn
vốn huy động từ hoạt động nhận tiền gửi đây là nguồn vốn thường xuyên có sự biến động
ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng do phụ thuộc vào khách hàng. Vì vậy, khi sử dụng
nguồn vốn này Ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán khi khách hàng yêu cầu.
+ Tiền gửi không kỳ hạn: là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ
hạn có lãi suất thấp và bao gồm hai loại sau:
. Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử
dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các

khoản chi phí khác phát sinh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Mặt khác,
với tài khoản này, khách hàng còn có thể được Ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng
trong một khoảng thời gian nhất định.

10


. Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: là khoản tiền được kí gửi với mục đích an
toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ và thanh toán. khi cần khách hàng có thể
đến Ngân hàng để rút tiền chi tiêu.
Đối với Ngân hàng, tiền gửi không kì hạn là một khoản nợ mà Ngân hàng luôn
phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. tuy nhiên, trong mỗi Ngân hàng
do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán của
doanh nghiệp hay giữa các tài khoản của các doanh nghiệp làm cho nhập lớn hơn xuất,
tạo nên tồn khoản mà Ngân hàng được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh.
Nhìn chung, tiền gửi không kì hạn là nguồn vốn có tính bị động nhất trong vốn huy
động của Ngân hàng. khách hàng có thể rút hay gửi tiền vào bất cứ khi nào họ muốn,
do vậy, tính khả dụng của nguồn vốn không cao, Ngân hàng không dám sử dụng hết
nguồn vốn này mà luôn phải dự trữ một lượng nhất định phòng trường hợp khách hàng
có nhu cầu rút tiền. Tuy nhiên, vì đây là nguồn huy động có chi phí tương đối rẻ, và
đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng như hiện nay, do
vậy các Ngân hàng thương mại vẫn tập trung khai thác nguồn vốn này thông qua việc
đa dạng hóa nghiệp vụ, cung cấp các tiện ích Ngân hàng cho khách hàng như: thanh
toán bằng séc, rút tiền tự động (ATM). . .
+ Tiền gửi có kì hạn: là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng với
Ngân hàng về thời gian rút tiền. Thông thường, tiền gửi có kì hạn là các khoản tiền gửi
có thời hạn dài và lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết
kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn
kho vào kinh doanh. Chính vì vậy, các Ngân hàng thương mại luôn tìm cách đa dạng

hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kì hạn khác nhau với mức lãi suất khác
nhau, hình thức gửi khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu của mọi khách hàng.
Thứ hai: Nhận tiền gửi tiết kiệm
Về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử
dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng nhằm mục đích tích lũy tiền một cách an
toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Người gửi tiền tiết kiệm không được sử dụng
séc và các dịch vụ Ngân hàng khác từ số tiền này.
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông

11


thường, chủ tài khoản có thể rút bất cứ khi nào có yêu cầu mà không phải báo trước.
Tuy nhiên số dư tài khoản này thường không lớn nhưng có ưu điểm là ít biến động.
Chính vì vậy, các Ngân hàng thường phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh
toán. Đó là điều kiện để các Ngân hàng thương mại có thể dễ dàng huy động số vốn
này.
Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: Loại hình tiết kiệm này đã khá quen thuộc ở Việt
Nam. Hiện nay, các Ngân hàng thương mại thường áp dụng huy động tiền gửi kì hạn
từ một tháng trở lên. Về nguyên tác, khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn, tuy
nhiên nhằm tăng sức cạnh tranh nên các Ngân hàng thương mại hiện nay đã áp dụng
chính sách này một cách linh hoạt hơn, vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước thời
hạn với lãi suất của tiền gửi không kì hạn hoặc cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm mà
khách hàng đang gửi.
Thứ ba: thông qua phát hành giấy tờ có giá.
Bên cạnh phương thức nhận tiền gửi, các Ngân hàng thương mại còn huy động
vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này
là Ngân hàng huy động vốn tiền tệ bằng cách phát hành chứng từ có giá. Trong đó,
chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu
nợ trung và dài hạn.

Tuy nhiên, việc huy động các chứng chỉ tiền gửi thuộc loại này có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc quản lý tài sản nợ hơn là biện pháp để các Ngân hàng
thương mại huy động vốn bởi nó chỉ được sử dụng khi cần thiết.
Tóm lại, vốn huy động là công cụ chính đối với các hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại. nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn
của Ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
* Vốn đi vay.
Là nguồn vốn mà Ngân hàng chủ động đi vay trên thị trường nhằm đáp ứng nhu
cầu sử dụng của Ngân hàng. Ngân hàng có thể đi vay Ngân hàng Trung Ương, các
Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác hoặc thông qua phát hành tín phiếu,
trái phiếu.
* Vốn khác.
Là phần vốn phát sinh khi Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ đại lí, thanh toán,
nhận ủy thác. . .

12


Thông qua nghiệp vụ trung gian thanh toán, Ngân hàng tạo ra được một khoản
vốn gọi là vốn trong thanh toán, đó là các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài
khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm thời được coi là tiền nhàn
rỗi.
Thông qua nghiệp vụ đại lí, Ngân hàng nhận và chuyển vốn cho khách hàng
hay một dự án đầu tư, do việc chuyển tiền thực hiện theo tiến độ công việc, nên Ngân
hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
1.2.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Vốn của Ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường, các Ngân hàng lớn sẽ có số vốn nhiều hơn các Ngân hàng nhỏ vì
vậy, nếu so với các Ngân hàng lớn thì các Ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho

vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các Ngân hàng này cũng
nhỏ hơn. trong khi các Ngân hàng lớn có thể cho vay được tại thị trường trong nước,
thậm chí cả Quốc tế thì các Ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ
yếu trong cộng đồng. Mặt khác, do khả năng hạn hẹp về vốn nên các Ngân hàng nhỏ
không phản ứng nhậy bén được với sự biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả
năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Do vậy, khả
năng tín dụng cũng như các hoạt động khác của Ngân hàng cũng bị hạn chế.
1.2.2.2. Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân
hàng trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các Ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín
đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán của Ngân hàng càng
cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả
năng thanh toán của Ngân hàng tỉ lệ thuận với vốn của Ngân hàng nói chung và với
vốn khả dụng của Ngân hàng nói riêng. với tiềm năng vốn lớn, Ngân hàng có thể hoạt
động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh
có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thương
trường.

13


1.2.2.3. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kĩ thuật hiện
đại là của Ngân hàng là tiền đề để thu hút vốn. đồng thời, khả năng vốn lớn là điều
kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn
cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. điều đó sẽ thu hút
ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng sẽ tăng lên nhanh
chóng và Ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. đây cũng là điều kiện

để bổ sung thêm vốn tự có của Ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật và quy
mô hoạt động của Ngân hàng trên mọi lĩnh vực.
Mặt khác, với nguồn vốn dồi dào, Ngân hàng có thể tham gia kinh doanh đa
năng trên thị trường. Hình thức này góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh
doanh, tạo thêm vốn cho Ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh cho Ngân hàng.
1.2.3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng thương
mại
Xuất phát từ mục tiêu hoạt động của Ngân hàng thương mại là lợi nhuận, do
vậy hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại là nhằm tập trung tìm kiếm
những nguồn vốn đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn với chi phí thấp nhất. Qua đó, có
thể đưa ra khái niệm về huy động vốn như sau:
Huy động vốn là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo công tác huy
động vốn có kết quả cao với chi phí nhỏ nhất. Có nghĩa là, xét về mặt lượng, huy động
vốn là biểu hiện giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, còn xét về mặt chất, huy động
vốn chính là năng lực và trình độ quản lý của Ngân hàng.
Như vậy, căn cứ vào mục đích của hoạt động huy động vốn, có thể nói huy
động vốn đạt hiểu quả khi nó đảm bảo các yếu tố về quy mô, cơ cấu nguồn vốn huy
động phù hợp nhu cầu sử dụng với chi phí thấp nhất.
1.2.3.1. Khả năng và qui mô thu hút nguồn vốn.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, với tư cách là
nhằm mục tiêu cuối cùng không gì khác ngoài tìm kiếm lợi nhuận. để tối đa hóa lợi
nhuận thì Ngân hàng thương mại đòi hỏi phải mở rộng kinh doanh, huy động được
nguồn vốn đáp ứng tối đa những nhu cầu sử dụng vốn có hiệu quả. Một Ngân hàng

14


hoạt động có hiệu quả thì không thể là Ngân hàng có quy mô nguồn vốn huy động và
sử dụng vốn thấp được.
Do vậy, quy mô nguồn vốn huy động là một trong những thước đo quan trọng

đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như công tác huy động vốn của Ngân
hàng. Lợi nhuận của Ngân hàng phụ thuộc và yếu tố quy mô nguồn vốn và sử dụng
vốn.
Để đánh giá quy mô vốn huy động, chúng ta thường tính chỉ số sau:
Chỉ tiêu =

x 100%

Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng vốn huy động trong tổng nguồn vốn của Ngân
hàng. nó sẽ cho biết khả năng cũng như quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế của Ngân
hàng thương mại.
1.2.3.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn.
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại lớn và tăng trưởng đều vẫn chưa đủ để
đánh giá tính hiệu quả của hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại không thể tách rời với hoạt động sử dụng vốn mà hoạt động sử
dụng vốn là mục tiêu của hoạt động huy động vốn.
Do Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động khá rộng, nên nguồn vốn huy
động cũng xuất xứ từ nhiều nguồn gốc với các kì hạn khác nhau và bằng các đồng tiền
khác nhau.
Vì mục tiêu lợi nhuận, các Ngân hàng thương mại luôn mong muốn dùng
nguồn vốn có chi phí huy động thấp để đầu tư hay cho vay đối với những lĩnh vực có
lợi tức cao chẳng hạn như dùng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn. Tuy
nhiên nếu làm như vậy Ngân hàng dễ gặp phải rủi ro về lãi suất và gặp khó khăn thanh
toán với khách hàng. Do đó Ngân hàng thương mại luôn luôn phải duy trì một cơ cấu
nguồn vốn phù hợp với danh mục đầu tư hay cho vay của mình về kì hạn. Điều đó
đồng nghĩa với việc Ngân hàng luôn phải xác định rõ kì hạn của nguồn vốn mình huy
động phải đáp ứng đúng nhu cầu sử dụng vốn của mình và phải duy trì một cơ cấu vốn
huy động về kì hạn hợp lí.
Bên cạnh đó, loại tiền cũng là một đặc điểm quan trọng khi xem xét tính hiệu
quả của hoạt động huy động vốn về cơ cấu nguồn vốn. Ngân hàng thương mại huy

động vốn cũng như cho vay không chỉ bằng nội tệ mà còn bằng cả ngoại tệ. Để đảm

15


bảo hiệu quả trong hoạt động, Ngân hàng phải đảm bảo tính phù hợp giữa cơ cấu
nguồn vốn nội - ngoại tệ với nhu cầu sử dụng vốn. Nếu cơ cấu này mất cân đối, Ngân
hàng dễ gặp phải rủi ro đặc biệt là rủi ro về tỷ giá. Vì vậy, các Ngân hàng luôn cố gắng
duy trì một cơ cấu nội - ngoại tệ hợp lý trong nguồn vốn huy động.
Để xác định cơ cấu vốn huy động của Ngân hàng, ta cũng dựa vào công thức:
Chỉ tiêu = x 100%
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng từng loại nguồn vốn huy động trong tổng nguồn
vốn. Qua đó sẽ giúp Ngân hàng hạn chế rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí
đầu vào.
1.2.3.3. Chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn là mục tiêu theo đuổi của các Ngân hàng trong quá trình
huy động vốn. đối với Ngân hàng, huy động vốn chính là hoạt động mua sắm các thiết
bị đầu vào, do vậy giảm chi phí huy động vốn là một điều kiện để Ngân hàng thực hiện
được mục tiêu lợi nhuận của mình. Ngân hàng huy động được nguồn vốn có chi phí rẻ
sẽ mang lại cơ hội đầu tư với lợi nhuận lớn hơn tức là công tác huy động vốn đã đạt
hiệu quả.
Hoạt động huy động vốn chỉ đạt hiệu quả khi lãi suất huy động bình quân thấp
hơn lãi suất bình quân trên thị trường.
Để đánh giá chỉ tiêu này về định lượng, ta cũng dựa vào công thức sau:
Chỉ tiêu lãi bình quân đầu vào =
Chi phí trả lãi là yếu tố quyết định để hoạch định lãi suất cho vay, vì vậy cần
phải phân tích kĩ chỉ tiêu lãi bình quân đầu vào.
Ba chỉ tiêu được đề cập ở trên là ba chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá hiệu
quả hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn đạt được hiệu quả khi quy mô
nguồn vốn lớn, tăng trưởng đều đặn qua các năm, cơ cấu nguồn vốn phù hợp với nhu

cầu sử dụng vốn và chi phí huy động là nhỏ nhất.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại đóng trong hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy,
hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại cũng luôn chịu tác động từ nhiều
yếu tố từ môi trường nội tại cũng như từ bên ngoài. Chúng ta có thể xét qua hai nhóm

16


nhân tố: Nhóm nhân tố mang tính chủ quan và nhóm nhân tố mang tính khách quan.
1.2.4.1. Nhân tố chủ quan.
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng, có tác động mạnh đến hiệu
quả hoạt động huy động vốn, tuy nhiên Ngân hàng có thể tác động thay đổi những yếu
tố này cho phù hợp với yêu cầu của Ngân hàng.
- Trước hết về uy tín của Ngân hàng.
Như đã trình bày ở phần trước uy tín của Ngân hàng = An toàn + thuận tiện +
lợi ích. Uy tín của Ngân hàng sẽ mang lại lòng tin cho khách hàng, Ngân hàng sẽ thu
hút được nhiều vốn hơn bởi vì chỉ khi tin tưởng vào Ngân hàng, người có tiền mới
đem gửi vào Ngân hàng, mặt khác uy tín của Ngân hàng cũng giúp cho Ngân hàng
mang lại các dịch vụ lợi ích khác cho khách hàng của mình. Do vậy việc nâng cao uy
tín của Ngân hàng luôn được coi là nhiệm vụ mang tính sống còn đối với các Ngân
hàng thương mại.
- Thứ hai, về vấn đề lãi suất huy động.
Hiện nay, cạnh tranh huy động vốn trên thị trường đang hết sức gay gắt và
quyết liệt. Ngoài Ngân hàng thì các loại hình tín dụng khác như bảo hiểm, công ty cổ
phần. . . cũng không ngừng gia tăng các chính sách về lãi suất huy động để có thể thu
hút được nguồn vốn lớn nhất. Mặt khác, hiện nay mức lãi suất huy động của Ngân
hàng thương mại nhích hơn so với Hệ thống Kho bạc nhưng so với thị trường tự do thì
còn thấp hơn nhiều. Do vậy, bằng tiềm lực của chính mình, Ngân hàng phải có mức lãi

suất huy động hợp lý nhằm thu hút được lượng tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh
tế.
- Thứ ba, về quy mô vốn tự có.
Một Ngân hàng lớn, có nguồn vốn tự có cao là tiêu chí lựa chọn làm nơi gửi
tiền của nhiều cá nhân và tổ chức kinh tế. Không những nó đảm bảo khả năng thanh
khoản cho Ngân hàng mà còn đem lại niềm tin cho khách hàng. Cho nên nó cũng
quyết định đến giới hạn tối đa qui mô vốn huy động.
1.2.4.2. Các nhân tố khách quan.
- Môi trường kinh doanh của Ngân hàng là tất cả các yếu tố về đặc điểm kinh tế
- chính trị - xã hội của địa bàn mà Ngân hàng hoạt động. Do đăc điểm hoạt động của
Ngân hàng thương mại mang tính xã hội sâu sắc, liên quan đến nhiều đối tượng trong

17


xã hội hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường
kinh doanh.
- Trước hết, về hành lang pháp lí: Hoạt động của Ngân hàng là loại hình hoạt
động kinh doanh đặc biệt, có sự ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nên luôn chịu sự quản
lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước. Với Ngân hàng, sự ràng buộc và thay đổi về
pháp lý cũng làm các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi, ảnh hưởng đến quy
mô và hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ quốc gia cũng ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ huy
động vốn của Ngân hàng thương mại. Những thay đổi về lãi suất, chính sách tín dụng,
chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu. . . sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác
huy động vốn của Ngân hàng. Nếu các chính sách này tỏ ra thuận lợi, khuyến khích sẽ
kích thích thu hút vốn của của Nhà nước nói chung và của Ngân hàng nói riêng.
-Về tình hình kinh tế xã hội: Hoạt động Ngân hàng mang tính xã hội cao, do
vậy những biến động về kinh tế, xã hội đều có ảnh hưởng nhất định đến quy mô và
chất lượng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Một Ngân hàng hoạt động trong một

địa bàn có nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người cao sẽ là điều kiện tiên
quyết cho Ngân hàng mở rộng quy mô huy động vốn và ngược lại.
Mặt khác, chu kì kinh tế cũng tác động đến hiệu quả huy động vốn của Ngân
hàng, khi nền kinh tế suy thoái thì cơ hội đầu tư hạn chế dễ gây tình trạng ứ đọng vốn
vì vậy Ngân hàng luôn phải điều chỉnh quy mô nguồn vốn huy động của mình phù hợp
nhu cầu sử dụng vốn trong từng thời kì.
Bên cạnh đó, các yếu tố chính trị, văn hóa cũng tác động mạnh đến hiệu quả
huy động vốn của Ngân hàng. Tình hình chính trị ổn định là nền tảng vững chắc cho
Ngân hàng thương mại hoạt động ổn định. Đặc biệt, các phong tục tập quán sinh hoạt,
trình độ dân trí, sự bố trí dân cư đều là những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động
vốn của Ngân hàng. Người dân có trình độ văn hóa cao, có ý thức tiết kiệm và tập
trung dân cư sẽ là những yếu tố thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại.
Kết luận chương 1
Thông qua nghiên cứu các thành phần, cơ cấu nguồn vốn đối với hoạt động

18


kinh doanh của Ngân hàng thương mại, các phương thức tạo lập vốn cũng như các
nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. những nội
dung này giúp chúng ta có một cơ sở lý luận rõ ràng để đi sâu phân tích thực trạng
nguồn vốn và hoạt động huy động vốn của Chi nhánh NHNo&PTNT Nam Định.

19


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH TỈNH NAM ĐỊNH

2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN TỈNH NAM ĐỊNH.
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu của chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh nam định
Nhằm tăng cường khai thác thị trường Nam Định, chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Nam Định thành lập và đi vào
hoạt động ngày 02/6/1998 theo Quyết định số 198/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, là Ngân hàng cấp I, loại II (hiện năm 2003 đã nâng hạng
thành cấp I loại I) trực thuộc Trung tâm điều hành NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt
động theo luật các tổ chức tín dụng và điều lệ hoạt động của NHNN Việt Nam.
NHNo&PTNT tỉnh Nam Định là một đơn vị hạch toán độc lập nhưng tương đối
phụ thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam, có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu
riêng, bảng cân đối tài sản riêng và có trụ sở chính đặt tại 315 Trần Hưng Đạo, thành
phố Nam Định. Kể từ khi thành lập đến nay, với thời gian hoạt động là 15 năm
NHNo&PTNT Tỉnh Nam Định, đã và đang hoạt động kinh doanh trên cơ sở tự kinh
doanh, tự bù đắp có lãi năm 2012 chi nhánh là đơn vị xếp thứ 1 trong hoạt động kinh
doanh tại các tỉnh khu vực Nam Sông Hồng và đang dần trở thành đơn vị kinh doanh
hiệu quả nhất trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ.
Ngân hàng No&PTNT Nam Định được thành lập nhằm khai thác thị trường
tỉnh Nam Định do vậy hoạt động kinh doanh chủ yếu là: kinh doanh tiền tệ, tín dụng
và dịch vụ Ngân hàng trên địa bàn Tỉnh Nam Định. Hiện nay Chi nhánh Nam Định
hoạt động theo mô hình kinh doanh đa năng, thực hiện đầy đủ các mặt nghiệp vụ của
một Ngân hàng hiện đại.
NHNo&PTNT Nam Định có các chức năng và nhiệm vụ chủ yếu như:
1. Huy động vốn.
2. Cho vay.
3. Kinh doanh ngoại hối.

20



4. Kinh doanh dịch vụ.
5. Cân đối điều hòa vốn kinh doanh nội tệ với 11 Chi nhánh Ngân hàng
No&PTNT loại III trực thuộc trên địa bàn 6 huyện phía nam tỉnh Nam Đinh.
6. Thực hiện các hình thức đầu tư.
7. Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định.
8. Thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ 2.1:cơ cấu tổ chức ngân hàng nông nghiệp tỉnh Nam Định:

Giám Đốc

Phó Giám Đốc
Kinh Doanh

Phòng
Nguồn
Vốn

Phòng
Kiểm
Soát

Phòng
Thanh
Toán
Quốc
Tế


Phó Giám
Đốc Kế Toán

Phòng
Tín
Dụng

Phòng
Thẩm
Định

Phòng
Kế
ToánNgân
Quỹ

Phòng
Điện
Toán

Phòng
Tổ
chứcHành
Chính

(Nguồn: NHNo&PTNT Việt Nam – chi nhánh Nam Định)

: Quan hệ trực tuyến
: Quan hệ chức năng
- Ban Giám đốc:

Bao gồm có Giám đốc và phó Giám đốc. Giám đốc là người lãnh đạo cao nhất
chịu trách nhiệm chung, các phó Giám đốc là người được Giám đốc uỷ quyền và hoàn
thành nhiệm vụ mà Giám đốc giao phó.

21


- Phòng Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp:
Tổng hợp, theo dõi các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và quyết toán kế hoạch
đến các chi nhánh trên địa bàn. Cân đối nguồn vốn, sử dụng vốn và điều hoà vốn kinh
doanh đối với các chi nhánh trên địa bàn. Tổng hợp, phân tích hoạt động kinh doanh
quý, năm. Dự thảo các báo cáo sơ kết, tổng kết, tổng hợp, báo cáo theo qui định. Xây
dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, trung & dài hạn theo định hướng kinh doanh của
NHNo&PTNT Nam Định. Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy
động vốn tại địa phương và thực hiện thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro.
- Phòng Kiểm soát:
Thường xuyên thanh tra kiểm soát tất cả các hoạt động của các phòng, ban để
phát hiện và xử lý kịp thời mọi sai sót, lệch lạc. Tổ chức kiểm tra, xác minh, tham mưu
cho Giám đốc giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền, làm nhiệm vụ thường trực Ban
chống tham nhũng, tham mưu cho Ban lãnh đạo. Thực hiện sơ kết, tổng kết chuyên đề
theo định kỳ hàng quý, 6 tháng, năm. Tổng hợp và báo cáo kịp thời các kết quả kiểm
tra, kiểm toán, việc chỉnh sửa các tồn tại thiếu sót của chi nhánh, đơn vị mình theo
định kỳ gửi tổ kiểm tra, kiểm toán văn phòng đại diện và Ban kiểm tra, kiểm toán nội
bộ. Hàng tháng có báo cáo nhanh về các công tác chỉ đạo điều hành hoạt động kiểm
tra, kiểm toán của mình gửi về Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
- Phòng Thanh toán quốc tế:
Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ (mua- bán, chuyển đổi), thanh
toán quốc tế trực tiếp theo qui định. Thực hiện công tác thanh toán quốc tế thông qua
mạng SWIFT NHNo&PTNT Việt Nam. Các nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh ngoại tệ có
liên quan đến thanh toán quốc tế, thực hiện các dịch vụ kiều hối và chuyển tiền, mở tài

khoản khách hàng nước ngoài.
- Phòng Tín dụng:
Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và
đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng
đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng với
sản xuất, lưu thông và tiêu dùng, phân tích kinh tế theo ngành nghề, kinh tế kỷ thuật,
danh mục khách hàng lựa chọn biện pháp cho vay an toàn đem lại hiệu quả cao. Thẩm
định và đề xuất cho vay các dự án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền. Hoặc thẩm định

22


các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình Ngân hàng cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Thường
xuyên phân loại dư nợ, phân tích nợ quá hạn, tìm nguyên nhân và đề xuất hướng khắc
phục, kiểm tra hoạt động tín dụng của Hội sở và các chi nhánh trực thuộc trên địa bàn.
- Phòng Thẩm định:
Thu thập, quản lý, cung cấp những thông tin phục vụ cho việc thẩm định và
phòng ngừa rủi ro tín dụng. Tổ chức kiểm tra công tác thẩm định của chi nhánh. Thẩm
định các khoản vay hay các khoản vượt mức phán quyết của Giám đốc chi nhánh cấp
II, III. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo qui định.
- Phòng Kế toán - Ngân quỹ:
Thường xuyên thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, mở tài khoản, chuyển tiền
cho khách hàng. Kết hợp với phòng tín dụng để thu nợ, huy động vốn, giải ngân cho
khách hàng đồng thời là bộ phận quản lý lưu trữ chứng từ, thông tin, thực hiện hoạch
toán theo qui định của chế độ kế toán Nhà nước và có nhiệm vụ quản lý tiền mặt cho
Ngân hàng. Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước. Xây dựng chỉ tiêu kế
hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu, chi tài chính, quỹ tiền lương. Chấp hành quy
định về an toàn kho quỹ và định mức tồn quỹ, thực hiện các khoản nộp Ngân sách Nhà
nước theo luật định.
- Phòng Điện toán:

Tổng hợp thống kê và lưu trữ số liệu, thông tin liên quan đến hoạt động của chi
nhánh. Quản lý, bảo dưỡng và sữa chữa máy móc, thiết bị tin học, làm dịch vụ tin học,
xử lý các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến hạch toán kế toán, kế toán thống kê, hạch
toán nghiệp vụ, tín dụng và các hoạt động khác phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
- Phòng Tổ chức - Hành chính:
Thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của chi nhánh. Trực tiếp quản lý hồ sơ
cán bộ thuộc chi nhánh, hoàn tất hồ sơ về chế độ đối với cán bộ nghỉ hưu, nghỉ chế độ
theo quy định. Thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, đề xuất việc cử cán bộ, nhân
viên đi công tác, học tập trong và ngoài nước. Tổng hợp theo dõi thường xuyên cán bộ
nhân viên được quy hoạch đào tạo. Trực tiếp quản lý con dấu, thực hiện công tác hành
chính, văn thư, lễ tân, phương tiện giao thông, bảo vệ, y tế của cơ quan, xây dựng cơ
bản, sữa chữa TSCĐ mua sắm công cụ lao động, vật rẻ tiền mau hỏng, quản lý nhà tập

23


thể, nhà khách, nhà nghỉ cơ quan, là bộ phận trực tiếp thực hiện việc chăm lo đời sống
vật chất, văn hoá, tinh thần và thăm hỏi ốm đau, hoạn nạn... của cán bộ, nhân viên.
2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA
NHNO&PTNT CHI NHÁNH NAM ĐỊNH GIAI ĐOẠN 2013- 2015
2.2.1. Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng
nhất của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để Ngân hàng thực hiện các hoạt
động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng tạo ra
lợi thế cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. Nó là nguồn vốn chính và rất quan
trọng là nguồn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước với nhiều hình
thức như tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ
phiếu,…
Tại NHNo&PTNT chi nhánh tỉnh Nam Định quá trình huy động vốn được hình
thành từ nguồn vốn huy động và không cần phải phát hành giấy tờ có giá , đi vay hay

huy động vốn khác . Nhờ làm tốt công tác huy động vốn nên những năm vừa qua
Ngân hàng luôn đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho hoạt động của mình. Kết quả hoạt động
huy động vốn của NHNo&PTNT Nam Định trong thời gian qua.
Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Nam Định từ năm
2013 – 2015
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm 2014
Năm 2013
Chỉ tiêu
1. Nguồn vốn huy
động
2. Tổng nguồn vốn
huy động trên địa
bàn Tỉnh
3. Thị phần huy
động vốn của
NHNo&PTNT
Nam Định

Tổng số
5.031.124

5.850.117

19.188.116 26.363.754

26,22%

22,19%


24

Năm 2015

Tốc độ
tăng
trưởng(%)
16,3

6.905.132

Tốc độ
tăng
trưởng(%)
18,0

37,4

36.190.419

37,27

- 4,03

19.08%

-3,11

Tổng số



(Nguồn:Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT Nam Định 20132015)

25


×