Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

International arbitration law_ Luật thông lệ trọng tài quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 118 trang )

1

TIỂU LUẬN
THƠNG LỆ TRỌNG TÀI QUỐC TẾ

Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế


2

MỤC LỤC
CÁC LÝ THUYẾT CHUNG ........................................................................................................................................... 4
I.

TRỌNG TÀI QUỐC TẾ ....................................................................................................................................... 4
1.

Các khái niệm .................................................................................................................................................. 4

2.

Nguyên Tắc Trọng Tài: ................................................................................................................................ 5

3.

Đặc điểm ........................................................................................................................................................... 6

4.

Phân loại. .......................................................................................................................................................... 9


5.

Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trọng tài .................................................................. 10

6.

Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với tòa án và trọng tài nội địa. ....................................... 11

II. GIỚI THIỆU LUẬT MẪU VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (UNCITRAL MODEL
LAW 1985) .................................................................................................................................................................. 13
1.

Giới thiệu về UNCITRAL (United Nations Commission On International Law) ............... 13

2.

Luật mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế (UNCITRAL MODEL LAW) ............................. 14

III. LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2010 ............................................................................. 20
1.

Lịch sử hình thành ..................................................................................................................................... 20

2.

Tóm tắt nội dung ........................................................................................................................................ 21

3. Thực tiễn áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại ở việt nam và nguyên nhân giải pháp khắc phục: ......................................................... 31
IV. NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ; NGHỊ QUYẾT THẨM PHÁN 01/2014/NQ-HĐTP BAN HÀNH
30/03/2014 HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH LUẬT TTTM VỀ THẨM QUYỀN,
TRÌNH TỰ, THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TỊA ÁN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI .......................... 33
1. Một số thuật ngữ ............................................................................................................................................ 33
2. Quy tắc tố tụng VIAC 2017 ........................................................................................................................ 33
3. Kết luận .............................................................................................................................................................. 34
HỎI ĐÁP ........................................................................................................................................................................ 35
PHỤ LỤC ....................................................................................................................................................................... 45
KẾT THÚC VẤN ĐỀ .................................................................................................................................................117
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................................................118

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
 Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều
kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác nhau thì
việc liên kết, hợp tác hay cạnh tranh ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng
hợp tác, những giao kết “ thuận buồm xi gió” vẫn cịn tồn tại những mâu thuẫn, bất đồng,
thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra thiệt hại cho các bên
và cho cả nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả mà nó gây ra
cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt
Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương
thức giải quyết nó thể hiện thơng qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản luật. Chính vì
vậy, thuật ngữ” tranh chấp thương mại” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã
hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng ở nước ta trong những năm gần đây.
 Trọng tài thương mại là một trong bốn hình thức cơ bản để giải quyết tranh chấp
thương mại được quy định ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Khi phát

sinh tranh chấp, doanh nghiệp được lựa chọn tổ chức trọng tài, địa điểm, ngôn ngữ, thời gian
tiến hành các hoạt động tố tụng của trọng tài. Ngoài ra việc xét xử bằng hình thức trọng tài
cịn được giữ bí mật cho các chủ thể tham gia tranh chấp, đảm bảo uy tín của các chủ thể và có
tính minh bạch trong xét xử. Cuối cùng, quyết định của trọng tài có hiệu lực chung thẩm và có
hiệu lực cưỡng chế ngay.
 Tuy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thượng mại có nhiều ưu điểm nổi trội,
song hình thức này vẫn chưa được phổ biến ở nước ta hiện nay. Tại sao vậy? Bài tiểu luận
dưới đây xin được phân tích và giới thiệu rõ hơn về ấn đề “ Trọng tài thương mại_một hình
thức giải quyết tranh chấp thương mại trong kinh doanh”

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


4

CÁC LÝ THUYẾT CHUNG
I.

TRỌNG TÀI QUỐC TẾ

1.

Các khái niệm
a)

Thương mại:

Theo khoản 1 Điều 3, Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại được hiểu là
hoạt động nhằm mục đích sinh lời bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại, và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.

a)

Thương mại quốc tế:

Thương mại quốc tế là hoạt động thương mại có yếu tố nước ngồi.
Các yếu tố nước ngồi trong thương mại quốc tế được xác định qua ba dấu hiệu: chủ thể trong
quan hệ thương mại là các bên có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau;
sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ thương mại xảy ra ở nước ngoài; và
đối tượng của quan hệ thương mại như hàng hóa, dịch vụ, hoặc các đối tượng khác ở nước
ngoài.
Và tất nhiên, trong các hoạt động thương mại, cụ thể về bn bán, trao đổi hàng hóa,
trao đổi công nghệ hay bất kỳ lĩnh vực nào cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn,
tranh chấp diễn ra giữa các bên đối tác. Tranh chấp thương mại được hiểu chính là tranh chấp
phát sinh do khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thỏa thuận trong hoạt động
thương mại quốc tế. Bao gồm các hoạt động sau: mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hố,….
Vì thế các bên cần tìm đến một phương án giải quyết phù hợp, đảm bảo cơng bằng và
lợi ích các bên. Một trong số các phương án giải quyết hiệu quả hiện nay là Trọng Tài Thương
Mại.
b)

Trọng tài
Trong tai Arbitration va cu the hơn la trong tai thương mai
Commercial Arbitration la phương thưc giai quyet tranh
chap cac tranh chap kinh doanh, thương mai thuoc thẩm
quyền giải quyết bằng trọng tài theo quy định tại Điều 2 Luật
Trọng tài thương mại 2010 do các bên thỏa thuận, có thể
được sử dụng thay thế cho phương thức giải quyết tranh
chấp truyền thống bằng Tòa án.


b)

Trọng tài Thương mại Quốc Tế:

Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/6/1985 của UNCITRAL thì
trọng tài sẽ mang tính chất quốc tế khi:

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


5
 Vào thời điểm giao kết thỏa thuận trọng tài, các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước
khác nhau hoặc;
 Một trong những yếu tố sau đây ở ngồi lãnh
thổ nơi các bên có trụ sở kinh doanh: nơi xét xử trọng
tài hoặc nơi thực hiện phần chủ yếu của nghĩa vụ trong
quan hệ thương mại hoặc nơi có quan hệ mật thiết với
nội dung tranh chấp hoặc;
 Các bên đã thỏa thuận rõ ràng là nội dung chủ
yếu của thỏa thuận trọng tài liên quan đến ít nhất là
hơn một nước.
 Như vậy, trọng tài thương mại quốc tế là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các
quan hệ tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải
quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau sẽ
đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
2.

Nguyên Tắc Trọng Tài:


Gồm 4 nguyên tắc:
a)

Nguyên tắc thỏa thuận:

Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các
vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như vậy các
bên có thể có thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Nguyên
tắc chung là “khơng có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài khơng có tố tụng
trọng tài”. Điều đó có nghĩa rằng, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi được
các bên chọn bằng một thỏa thuận trọng tài.
Nguyên tắc này được thể hiện rõ nhất trong quá trình tố tụng trọng tài, đó là việc các
bên thỏa thuận chọn địa điểm trọng tài, ngôn ngữ trọng tài, thời gian trọng tài…
b)

Nguyên tắc trọng tài viên phải độc lập khách quan vô tư khi giải quyết

tranh chấp:
Sự độc lập của trọng tài viên thể hiện ở việc trọng tài viên khơng có lợi ích trực tiếp
hoặc lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp, không chịu sự chi phối của bất kì cơ quan, tổ chức
cá nhân nào khi giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, ngoài việc độc lập, khách quan, vô tư, căn cứ vào pháp luật để giải quyết
tranh chấp thì trọng tài viên cịn cần phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
c)

Nguyên tắc giữ bí mật nội dung vụ việc tranh chấp:

Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế



6
Một trong các lý do để các bên đương sự lựa chọn trọng tài đó là bảo đảm tính bí mật
của tranh chấp. Do vậy, các trọng tài viên không được phép tiết lộ nội dung của tranh chấp khi
không được các bên đồng ý. Ngoài ra, nguyên tắc này cịn được thể hiện ở việc sẽ khơng có
người ngồi được tham dự vào phiên xét xử trọng tài nếu các đương sự không cho phép.
d)

Nguyên tắc chung thẩm:

Khi Hội đồng trọng tài công bố quyết định trọng tài, quyết định trọng tài có hiệu lực
thi hành ngay, các bên khơng có quyền kháng cáo, cũng như khơng tổ chức nào có quyền
kháng nghị.
Khi xem xét yêu cầu hủy quyết định trọng tài, tịa án cũng khơng có quyền xét lại.
Nguyên tắc này có nguồn gốc từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và
quyền tự định đoạt của các đương sự. Các đương sự đã tín nhiệm và lựa chọn người phán
quyết, do vậy họ phải thực hiện phán quyết mà người này đưa ra.
Vậy câu hỏi đặt ra: Nếu có căn cứ cho rằng trọng tài viên có thể hoặc khơng độc lập, vơ
tư khi thực hiện nhiệm vụ thì sao? Hoặc một trong các bên tranh chấp không tuân thủ quyết
định trọng tài?
Nếu trọng tài viên không công minh trong xét xử trọng tài viên đó có thể sẽ bị thay thế.
Còn nếu trong trường hợp trọng tài đã đưa ra quyết định thì quyết định đó sẽ bị tịa án tuyên
hủy. còn trường hợp quyết định của trọng tài là đúng đắn nhưng các bên không chấp nhận tuân
thủ thì bên cịn lại có quyền đưa ra Tịa Án nhờ can thiệp. theo quy tắc chung thẩm thì tồn án
không giải quyết lại mà chỉ áp dụng pháp luật để khiến các bên phải thi hành theo quyết định
trọng tài
3.

Đặc điểm
a)


Đặc điểm trọng tài

Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài mang những
đặc điểm sau:
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3 – một trọng
tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài, với tư cách là người cầm cân nảy mực. Trọng tài là
hình thức giải quyết tranh chấp thơng qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật trọng tài,
điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.
Kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là phán
quyết do trọng tài tuyên bố đối với các đương sự của vụ tranh chấp.
b)

Đặc trưng trọng tài quốc tế

Trọng tài quốc tế là một hình thức giải quyết tranh chấp lai. Nó bắt đầu bằng một thỏa
thuận tư giữa các bên. Nó tiếp tục bắt đầu bằng các thủ tục tư, trong đó ý chí các bên có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, nó chấm dứt với một phán quyết có hiệu lực pháp lý bắt
Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế


7
buộc và, dựa trên những điều kiện thích hợp, tịa án của hầu hết các quốc gia xét công nhận và
cho thi hành.
Dưới đây là các đặc trưng cơ bản của trọng tài quốc tế:
 Tính “quốc tế” của trọng tài quốc tế:
Thuật ngữ “quốc tế” được sử dụng để phân biệt sự khác nhau giữa các vụ trọng tài
thuần túy trong nước với các vụ trọng tài ở một phương diện nào đó, vượt qua biên giới quốc
gia và được gọi là quốc tế. Có hai tiêu chí chủ yếu được sử dụng hoặc riêng rẽ, hoặc kết hợp để
định nghĩa thuật ngữ “quốc tế”:
Tiêu chí thứ nhất là bản chất của tranh chấp.

Quy tắc tố tụng hiện hành của ICC xác định chức năng của Trọng tài quốc tế ICC là
“tiến hành giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài các tranh chấp kinh doanh có tính chất
quốc tế phù hợp với quy tắc này”. Khơng có định nghĩa cụ thể về “tranh chấp kinh doanh có tính
chất quốc tế” trong quy tắc này nhưng cuốn sách phát hành giải thích bởi ICC đã xác định:
“…bản chất quốc tế của trọng tài khơng có nghĩa là các bên phải khác quốc tịch với nhau. Bởi vì
đối tượng của nó, hợp đồng tuy nhiên có thể mở rộng ra ngồi biên giới quốc gia, ví dụ khi một
hợp đồng được giao kết giữa hai công dân của cùng một quốc gia nhưng để thực hiện hợp đồng
đó ở một quốc gia khác, hoặc khi hợp đồng được giao kết giữa một nhà nước với công ty con
của một công ty nước ngồi kinh doanh tại quốc gia đó”.
Tiêu chí thứ hai nhấn mạnh vào các bên, hoặc là quốc tịch hoặc nơi thường trú.
Tiêu chí này xem xét quốc tịch, nơi thường trú hoặc trụ sở thương mại của các bên
trong thỏa thuận trọng tài. Đây là cách tiếp cận được chấp nhận trong Công ước châu Âu
1961. Công ước này quy định: “các thỏa thuận trọng tài được giao kết với mục đích giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế giữa các thể nhân hay pháp nhân, khi xác
lập thỏa thuận có nơi thường trú hoặc trụ sở ở các quốc gia khác nhau”.
Thụy Sỹ cũng là một ví dụ về một nước mà quốc tịch các bên xác định trọng tài có phải
là quốc tế hay khơng. Ngồi ra, tiêu chí “quốc tịch” cũng được sử dụng ở Anh và Mỹ.
Tiêu chí kết hợp:
Việc khơng có một định nghĩa được thừa nhận trên bình diện quốc tế về tính “quốc tế”
gây ra nhiều vấn đề. Mỗi quốc gia sẽ có các tiêu chí riêng để xác định một phán quyết trọng tài
là quốc tế hay trong nước và do đó khơng có sự thống nhất. Luật Mẫu được xây dựng chuyên
để áp dụng đối với trọng tài thương mại quốc tế. Văn bản này có ý nghĩa lớn lao khi đưa ra
định nghĩa về thuật ngữ “quốc tế”. Theo Luật Mẫu thì Trọng tài là quốc tế nếu: Các bên tham
gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở
các nước khác nhau; hoặc một trong những địa điểm mà các bên có trụ sở kinh doanh sau đây
được đặt ở ngồi quốc gia: Nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thoả
Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


8

thuận trọng tài; nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được thực
hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất; hoặc các bên đã thoả thuận
rõ rằng vấn đề chủ yếu của thoả thuận trọng tài liên quan đến nhiều nước.
Có thể thấy, tiêu chí này đã kết hợp hai tiêu chí đã trình ở trên. Đây là một quy định có ý nghĩa
thống nhất các tiêu chí và định hướng cho các quốc gia khi quy định về tính “quốc tế” của
trọng tài. Trên thực tế, một vụ trọng tài cụ thể nào đó có phải là “quốc tế” hay không phụ
thuộc nhiều vào quy định của luật quốc gia có liên quan.
 Thỏa thuận trọng tài:
Một thỏa thuận giữa các bên đưa bất kỳ tranh
chấp hay sự mâu thuẫn nào giữa họ ra trọng tài là nền
tảng của của trọng tài quốc tế hiện đại. Một trọng tài có
hiệu lực trước tiên phải có một thỏa thuận trọng tài có
hiệu lực.
Điều này được thừa nhận bởi cả luật quốc gia và các
điều ước quốc tế. Ví dụ, theo Công ước New York và
Luật Mẫu, việc công nhận và thi hành quyết định trọng
tài có thể bị từ chối nếu các bên của thỏa thuận trọng tài
không có năng lực ký kết, hoặc nếu thỏa thuận trọng tài
bị vô hiệu theo quy định của pháp luật điều chỉnh nó.
Thỏa thuận trọng tài khơng chỉ là bằng chứng đồng thuận của các bên đưa tranh chấp
ra trọng tài và xác lập nghĩa vụ đưa tranh chấp ra trọng tài mà còn là nguồn quyền hạn cơ bản
của hội đồng trọng tài. Điều này có nghĩa là, một hội đồng trọng tài chỉ có thể thực hiện những
quyền hạn do các bên có quyền trao và đã trao cho nó cùng với các quyền hạn bổ sung hay
khác được trao bởi luật điều chỉnh trọng tài. Như vậy, thỏa thuận trọng tài quyết định thẩm
quyền của hội đồng trọng tài. Thỏa thuận giữa các bên là nguồn duy nhất của thẩm quyền này
không giống như trong thủ tục pháp lý thơng thường nhờ đó các tranh chấp được giải quyết
thơng qua tịa án, thẩm quyền của tịa án liên quan có thể hình thành từ một số nguồn, trong
đó thỏa thuận giữa các bên đương sự chỉ là một nguồn.
Giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào việc nó được lập trước
hay sau khi có tranh chấp cũng như nó là một điều khoản của hợp đồng hay một điều khoản

độc lập, mà quan trọng là thỏa thuận đó phải được lập bởi những chủ thể có thẩm quyền, phải
là sự thống nhất ý chí của các bên, phải đáp ứng được các yêu cầu về hình thức và nội dung
của thỏa thuận trọng tài.
 Lựa chọn trọng tài viên:

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


9
Một trong các đặc trưng cơ bản để phân biệt trọng tài với tòa án là các bên trong tố
tụng trọng tài có quyền tự do lựa chọn hội đồng trọng tài cho mình.
Mặt khác, trọng tài viên trong một vụ trọng tài quốc tế cũng có những yêu cầu khác
với trọng tài viên trong một vụ trọng tài thuần túy trong nước.
Thực vậy, nếu hội đồng trọng tài gồm ba trọng tài viên thường đối với vụ tranh chấp lớn) thì
mỗi trọng tài viên sẽ có một quốc tịch khác nhau và mỗi người trong số họ sẽ được trưởng
thành từ những môi trường pháp lý khác nhau.
 Quyết định của hội đồng trọng tài:
Trong trọng tài quốc tế, quyết định của hội đồng trọng
tài về việc giải quyết tranh chấp giữa các bên (nếu khơng bị
tịa án hủy bỏ) sẽ có giá trị bắt buộc đối với các bên và nếu các
bên khơng tự nguyện thi hành có thể bị cưỡng chế thi hành.
Đặc trưng này phân biệt trọng tài với các phương thức giải
quyết tranh chấp thông qua các thủ tục khác như thương
lượng hay hòa giải. Bởi thỏa thuận cuối cùng về giải quyết
tranh chấp bằng thương lượng hay hịa giải ln phải đảm
bảo được sự chấp nhận của cả hai bên.
 Thi hành quyết định trọng tài:
Một khi hội đồng trọng tài quốc tế đã ra phán quyết, nó đã hồn thành chức năng của nó
và chấm dứt hoạt động. Tuy nhiên, quyết định của hội đồng trọng tài đem đến những hậu quả
pháp lý quan trọng và lâu dài. Mặc dù nó là kết quả của một sự dàn xếp tư, quyết định trọng

tài có giá trị ràng buộc các bên. Nếu nó khơng được thi hành một cách tự nguyện, quyết định
trọng tài sẽ được thi hành thông qua các thủ tục pháp lý – trên cả bình diện địa phương nơi
phán quyết trọng tài được tuyên) và trên cả bình diện quốc tế
4.

Phân loại.

Trong thực tế tồn tại hai loại trọng tài là trọng tài quy chế hay thường trực và trọng tài đơn
vụ.

Trọng tài thường trực


Là hình thức trọng tài được
thành lập dưới dạng các trung tâm,
tổ chức hoặc hiệp hội, có cơ cấu tổ
chẽ,
có trụtài
sởQuốc
cố định.
Tiểuchức
luận:chặt
Thơng
lệ trọng
tế

Hầu hết các tổ chức trọng tài
đều có Quy tắc tố tụng trọng tài
riêng, một số có Danh sách trọng tài
viên riêng. Các bên tranh chấp sẽ


Trọng tài đơn vụ

 Là hình thức trọng tài được lập
ra theo yêu cầu của các đương sự
để giải quyết một vụ tranh chấp cụ
thể và tự giải thể khi tranh chấp đó
đã được giải quyết.
 Trọng tài đơn vụ có nghĩa là
trọng tài khơng được tiến hành
theo quy tắc của một tổ chức trọng
tài thường trực. Do các bên không


10

5.

Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trọng tài
a)

Ưu điểm
 Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khơng

mang ý chí quyền lực nhà nước mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định
đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt
mềm dẻo, từ đó đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp.
 Thủ tục giải quyết đơn giản, thuận tiện giúp cho việc giải quyết tranh chấp
nhanh gọn, dứt điểm, hiệu quả.
 Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mai cịn đảm bảo tối

đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ
hợp tác lâu dài giữa các bên.
 Việc xét xử bằng cơ chế trọng tài tuân theo nguyên tắc xét xử một lần nên
quyết định của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm.
 Ngồi ra, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương
mại cịn có một sơ ưu điểm khác như: trình độ chun mơn của trọng tài viên Trình độ của
các trọng tài viên thường là tiến sĩ, thấp cũng là cao học và hầu hết đều được đào tạo ở nước
ngồi ; tính độc lập trong tố tụng,….
b)

Nhược điểm:
 Thứ nhất, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào

ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh nghiệp
được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của trọng tài khá cao.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.
 Thứ hai, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử,
trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cớ, trọng

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


11
tài khơng thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà phải u cầu tịa án thi
hành các phán quyết trọng tài.
6.

Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với tòa án và trọng tài nội địa.


Để hiểu một cách rõ ràng hơn về trọng tài quốc tế, nhóm làm bài đi phân tích sự khác
nhau giữa trọng tài quốc tế với tòa án và trọng tài nội địa.
a)

Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với tịa án.

NỘI DUNG
Ngơn ngữ

TỊA ÁN

LUẬT TRỌNG TÀI QUỐC TẾ

Sử dụng ngôn ngữ quốc gia

Các bên được lựa chọn ngôn
ngữ

Áp dụng luật quốc gia là chủ yếu
Luật áp dụng

Các bên tự thỏa thuận về luật áp
dụng, luật cho nội dung tranh
chấp, thỏa thuận trọng tài

Địa điểm giải quyết Trụ sở Tòa án cố định

Do các bên lựa chọn

tranh chấp

Thẩm phán thường cùng quốc tịch với Điều này hạn chế hơn
Quốc tịch

một bên nên dễ chi phối bởi yếu tố
quốc tịch quen biết
Có thể bị trì hỗn nhiều lần vì tn thủ Việc giải quyết tranh chấp có thể
quy tắc tố tụng cứng nhắc, phán quyết được tiến hành theo quy tắc tố
của tịa án có thể bị kháng cáo, kháng tụng, tuy nhiên các bên có thể

Thời gian giải quyết
tranh chấp

nghị nên thời gian giải quyết tranh thỏa thuận tiến hành nhanh
chấp sẽ bị kéo dài thêm.

hơn. Mặt khác, các phán quyết
của trọng tài quốc tế có giá trị
chung thẩm nên sau khi xét xử
có thể được thi hành ngay nên
sẽ tiết kiệm thời gian hơn.

Việc xét xử diễn ra công khai và bản án Hầu hết pháp luật trọng tài đều
được tun cơng khai.
Bí mật

ghi nhận ngun tắc xét xử
khơng cơng khai nếu các bên
khơng có quy định khác.
 Đảm bảo uy tín, nội dung
tranh chấp, danh tính các bên,


Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


12
từ đó củng cố, duy trì quan hệ
hợp tác giữa các bên.
Phạm vi thi hành hẹp, bằng chứng là Phạm vi thi hành rộng, và được
có khá nhiều, các điều ước song ghi nhận bởi công ước New York
Phạm vi thi hành

phương, nhưng chưa có cơng ước về cơng nhận và thi hành các
quốc tế đa phương nào về thi hành phán quyết của trọng tài nước
bản án của tòa án.

ngoài gồm 146 thành viên là
quốc gia và vùng lãnh thổ.

Thành viên trong Tịa án khơng chun Có danh sách trọng tài viên uy
mơn hóa cao, ít chun gia trong các tín, chun mơn sâu và được các
Tính chun mơn

lĩnh vực tranh chấp, nhất là các lĩnh bên tin tưởng lựa chọn để giải
vực mới như sở hữu trí tuệ, ngân quyết tranh chấp.
hàng, ngọai thương,…

 Nguyên nhân của sự khác biệt:
Tòa án là cơ quan trong hệ thống tư pháp của quốc gia nên khi tiến hành tố tụng nhân
danh Nhà nước, thực hiện chủ quyền quốc gia trên lãnh thổ của mình; cịn trọng tài quốc tế là
tổ chức mang tính tự nguyện, phi quyền lực cơng, nên phương thức giải quyết tranh chấp

bằng Tòa án chặt chẽ, rườm rà vì phải tuân theo pháp luật quốc gia cịn trọng tài có cơ chế giải
quyết thống hơn, linh hoạt hơn, do ý chí và sự thỏa thuận của các bên liên quan.
Mặt khác, các tranh chấp giải quyết bằng trọng tài quốc tế chủ yếu là các tranh chấp
ngoại thương, kinh doanh thương mại nên cần sự nhanh gọn, linh hoạt, đảm bảo được lợi ích
tối đa của các bên, tránh thiệt hại về kinh tế
b)

Sự khác biệt giữa trọng tài quốc tế với trọng tài nội địa.

Điểm khác biệt cơ bản giữa trọng tài quốc tế và trọng tài nội địa là yếu tố “quốc tế”.
Hiện nay, thực tiễn cũng như lý thuyết trọng tài thường đề cập hai yếu tố chính, hoặc được sử
dụng riêng biệt, hoặc được sử dụng kết hợp để xác định tính chất quốc tế của trọng tài là tính
chất tranh chấp; quốc tịch của chủ thể tham gia tranh chấp và các yếu tố khác liên quan.
Tính chất tranh chấp: nơi giao kết hợp đồng ở nước ngoài, nơi thực hiện hợp đồng ở
nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng ở các nước khác nhau…
Chủ thể tranh chấp: các bên có quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương mại hoặc nơi
cư trú thường xuyên ở các quốc gia khác nhau. Trên thực tế, để xác định một vụ trọng tài nào
đó là “quốc tế” hay “nội địa” cịn phụ thuộc vào quy định của luật quốc gia có liên quan.

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


13
Tính quốc tế này được trình bày cụ thể, chi tiết hơn ở mục “Tính quốc tế của Trọng tài thương
mại quốc tế”.
II.

GIỚI THIỆU LUẬT MẪU VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ (UNCITRAL
MODEL LAW 1985)


1.

Giới thiệu về UNCITRAL (United Nations Commission On International

Law)
UNCITRAL là cơ quan pháp lý chủ chốt của
Liên Hợp Quốc trên lĩnh vực Luật thương mại quốc
tế. UNCITRAL được thành lập vào năm 1965, bằng
một Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp quốc.
Vào thời điểm đó, Đại hội đồng cho rằng cần thiết
phải tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển thương mại quốc tế vì lợi ích của các dân tộc.
Đại hội đồng tin rằng những sự khác biệt trong luật
pháp của các quốc gia cản trở sự phát triển của
thương mại thế giới và do vậy, Đại hội đồng đã xác
định rằng Liên hiệp Quốc cần phải hoạt động tích
cực hơn để giảm bớt hoặc xóa bỏ các trở ngại pháp
lý tạo nên rào cản đối với thương mại quốc tế.
c)

Nhiệm vụ

Làm hiện đại hố và hài hồ hố hệ thống quy tắc trong thương mại quốc tế. Thương
mại đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, mức sống của người dân cao hơn, và
nhiều cơ hội kinh doanh hơn. Để mở rộng và tăng cường các cơ hội đó trên khắp thế giới,
UNCITRAL đưa ra các quy tắc hiện đại, cơng bằng và hài hồ đối với các giao dịch thương mại,
gồm có
Các quy ước, luật và quy tắc mẫu được chấp nhận trên toàn thế giới
Các hướng dẫn về luật và pháp lý có ý nghĩa thực tế lớn
Các thông tin cập nhật về các case law và việc ban hành luật thương mại thống nhất

Trợ giúp kĩ thuật cho các dự án cải cách, sử đổi luật
Hội nghị quốc gia và khu vực về vấn đề luật thương mại thống nhất.
d)

Các nhóm làm việc

Ủy ban đã thành lập sáu nhóm làm việc để thực hiện cơng việc chuẩn bị nội dung về
các chủ đề trong chương trình làm việc của Ủy ban. Mỗi nhóm làm việc bao gồm tất cả các
nước thành viên của Ủy ban.
Sáu nhóm làm việc và các chủ đề hiện tại của họ như sau
Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


14
Nhóm I - Các doanh nghiệp nhỏ, vừa và nhỏ
Nhóm II – Trọng tài và hịa giải
Nhóm III – Giải quyết tranh chấp trực tuyến
Nhóm IV - Thương mại điện tử
Nhóm V - Luật phá sản
Nhóm VI - Quyền lợi bảo mật
e)

Các lĩnh vực hoạt động:

Trong đó có soạn thảo văn bản, bao gồm giải
quyết tranh chấp, trọng tài, hòa giải, thực tiễn về hợp
đồng thương mại quốc tế, vận chuyển, khả năng thanh
toán, thương mại điện tử, thanh toán quốc tế, hoạt
động bảo lãnh, hợp đồng cơng chính, thương mại điện tử, mua bán hàng hóa.
Về trọng tài và hịa giải, có 3 văn bản quan trọng. Văn bản thứ nhất là Công ước New

York về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài năm 1958. Văn bản quan
trọng thứ hai là Quy tắc tố tụng Trọng tài của UNCITRAL được soạn thảo năm 1967và văn bản
thứ ba về trọng tài là Luật trọng tài mẫu của UNCITRAL.

2.

Luật mẫu về Trọng tài Thương mại quốc tế (UNCITRAL MODEL LAW)
a)

Lịch sử hình thành

Trên nền tảng của Công ước New York 1958, Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên
Hiệp quốc UN Commission on International Trade Law: UNCITRAL mong muốn phán quyết của
một toà án trọng tài, dù hoạt động trọng tài đó tiến hành ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, đều được
các quốc gia thành viên Liên Hiệp quốc chấp nhận một cách tồn vẹn.
Xuất phát từ ý chí đó, UNCITRAL đưa ra một khuôn mẫu về hoạt động trọng tài thương mại có
thể áp dụng cho mọi quốc gia dưới hình thức một Bộ luật mẫu Model Law về trọng tài thương
Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


15
mại có tính cách khuyến nghị các quốc gia trên thế giới áp dụng để san bằng mọi sự khác biệt về
luật trọng tài thương mại nhưng vẫn hướng đến một sự cân bằng thoả đáng về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên tranh chấp, duy trì sự tơn trọng uy quyền quốc gia.
Vào cuối kỳ họp thứ mười tám ngày 21 tháng 6 năm1985, tại Viên, Mơ hình Luật về
Trọng tài Thương mại Quốc tế đã được thông qua bởi Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại
quốc tế UNCITRAL và sửa đổi tại phiên họp thứ 39 của Uỷ ban, ngàu 7 tháng 7 năm 2006 tại
New York. Bản dự thảo Luật mẫu 1985 tìm kiếm một sự cân bằng thoả đáng về quyền và nghĩa
vụ giữa ý chí của các bên tranh chấp cũng như các nguyên tắc mà họ tự nguyện chấp hành. Với
chủ trương như vậy, Luật mẫu UNCITRAL 1985 là một bộ luật khung bao gồm những điều khoản

gợi ý và những nguyên tắc pháp lý mang tính thoả thuận tơn trọng vai trò của Luật pháp quốc gia
tương ứng với hoạt động trọng tài thương mại quốc tế. Bởi Luật Mẫu không có tính cách ràng
buộc thi hành đối với các quốc gia đây chỉ là một Bản thoả thuận nguyên tắc mà Tổ chức Liên
Hiệp Quốc bảo trợ. Điều này cho ta hiểu Luật Mẫu là một hình thức Thoả ước lập pháp tính cách
khuyến nghị áp dụng.
Luật mẫu của UNCITRAL đã được sửa đổi vào năm 2006 về hai khía cạnh. Khía cạnh thứ
nhất là về thỏa thuận trọng tài, đặc biệt về hình thức của thỏa thuận trọng tài – Luật mẫu, phỏng
theo Công ước New York, quy định rằng thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Định
nghĩa này được coi là phù hợp hơn với các thực tiễn thương mại quốc tế và sự tiến bộ về công
nghệ. Nội dung thứ hai được sửa đổi liên quan đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời do các biện
pháp này được áp dụng ngày càng nhiều trong thực tiễn thương mại quốc tế. Toàn bộ các văn
bản của UNCITRAL về trọng tài gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi một quốc gia thông qua Luật mẫu
về trọng tài thì sự gắn bó chặt chẽ của luật này với Công ước New York là một vấn đề cốt yếu cần
tính đến
b)

Tinh thần của Luật mẫu UNCITRAL
 Sự độc lập của hoạt động trọng tài

Điều 5 của Luật mẫu: “Những vấn đề chi phối bởi Luật này, không một Toà án nào được
can thiệp ngoại trừ Toà án đã được luật này cho phép”.
Luật mẫu yêu cầu hệ thống toà án tư pháp của các quốc gia phải từ chối thụ lý vụ tranh
chấp nếu đã và sẽ có một Thoả ước Trọng tài giữa các bên tranh chấp, hoặc phải thông báo cho
các bên tranh chấp biết được tinh thần của Luật mẫu về sự từ chối thụ lý của Toà án. Toà án tư
pháp chỉ can thiệp trong trường hợp một thoả ước trọng tài bị vô hiệu tuyệt đối tức là trường
hợp một thoả ước trọng tài vi phạm những quy định về nội dung và vi phạm những quy định về
hình thức; hoặc khơng có khả năng thi hành.
 Thẩm quyền hạn chế của Tồ án tư pháp quốc gia sở tại

Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế



16
Luật mẫu cho phép các toà án tư pháp quốc gia hoặc các cơ quan có thẩm quyền theo
pháp chế của nước sở tại có thể can thiệp vào hoạt
động trọng tài với mục đích hỗ trợ và giám sát quá
trình tiến hành tố tụng trọng tài ở một mức độ hạn
chế tối đa trong những trường hợp đặt biệt. Chẳng
hạn, Tồ án chỉ có thể chỉ định Trọng tài viên khi các
bên tranh chấp không thống nhất về việc chọn trọng
tài viên, hoặc quyết định việc khước từ quyền xét xử
của một trọng tài viên còn gọi là hồi tỵ – challenge)
cũng như quyết định về việc khước từ quyền xét xử
của toàn bộ Hội đồng trọng tài.
Toà án tư pháp cũng có thể hỗ trợ bằng cách
thực hiện những biện pháp bảo vệ tạm thời hoặc thu
thập chứng cứ.
Đặc biệt, Tồ án chỉ có thể có thẩm quyền rất
hạn chế trong việc ra tuyên bố huỷ bỏ một phán
quyết trọng tài theo đơn yêu cầu của một bên tranh chấp với điều kiện:


Phù hợp với quy định của Luật mẫu.



Phù hợp với Cơng ước New York năm 1958.

Tồ án cũng có thể từ chối việc thừa nhận một phán quyết trọng tài hoặc không cho thi
hành một phán quyết trọng tài với những điều kiện tương tự vừa kể trên.

c)

Các Nước Tham Gia:

Năm 1985, Ủy ban Luật Thương mại Quốc
tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) ban hành Luật
Mẫu về Trọng tài Thương mại Quốc tế (sửa đổi
năm 2006 và Luật Mẫu này đã được trên 50 quốc
gia áp dụng. Đặc biệt Singapore, Anh, Đức, Pháp,
Thụy Sĩ là các quốc gia có hoạt động trọng tài phát
triển bậc nhất thế giới.
Nhiều quốc gia khác, nếu không áp dụng
nguyên Luật Mẫu, thì cũng ban hành các luật trọng
tài với nội dung tương tự hoặc tiến bộ hơn cả Luật
Mẫu nhằm cố gắng phát triển hoạt động trọng tài ở
quốc gia mình. Dù dưới hình thức nào, luật trọng tài ở các nước cũng đều quy định một số nội
dung chính, mang tính thiết yếu để phát triển hoạt động trọng tài.
d)

Ngun tắc và vai trị của Luật mẫu

Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế


17
 Nguyên tắc
Các nguyên tắc lớn mà Luật mẫu đặt ra như sau:


Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài, sự kiểm tra và hỗ trợ rất hạn chế của


tòa án – dù sự phối hợp giữa các tòa án và trọng tài là cần thiết đối với một số chủ thể nhưng sự
phối hợp đó phải rất hạn chế – thể hiện ở chỗ nếu các bên đã lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thì có nghĩa là họ khơng muốn tranh chấp sau đó sẽ được đưa ra tịa án giải quyết,
khơng muốn tịa án can thiệp vào quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.


Nguyên tắc thứ hai là quyền của các bên được đối xử bình đẳng trong quá

trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.


Nguyên tắc tiếp theo là sự thống nhất của hợp đồng chính khơng làm thỏa

thuận trọng tài của hợp đồng đó vơ hiệu.


Cuối cùng là ngun tắc “thẩm quyền về thẩm quyền”

 Vai trò


Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế được Uỷ ban Luật Thương mại

Quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) ban hành nhằm tạo ra một khuôn mẫu chung về hoạt
động trọng tài thương mại, quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ các bên cũng như quy trình,thủ
tục, nguyên tắc hoạt động tố tụng trọng tài.


Phản ánh sự đồng thuận trên toàn thế giới về các nguyên tắc và các vấn đề


quan trọng của thực tiễn trọng tài được các quốc gia ở tất cả các khu vực chấp nhận và các hệ
thống pháp luật hoặc kinh tế khác nhau trên thế giới. Vì vậy mà trên thế giới hiện nay có khoảng
hơn 50 quốc gia thông qua Luật mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, trong khu vực
châu Á, có nhiều nước như Singapore, Malaisia, Thái Lan, Nhật Bản. Ở các nước này, đã phát triển
các trung tâm trọng tài có quy mơ khu vực. Luật mẫu của UNCITRAL đã được nhiều khu vực
thông qua, rất nhiều quốc gia thông qua Luật mẫu đã thành cơng.


Mục đích của Luật mẫu là hài hịa hóa pháp luật của các quốc gia về trọng tài.

Luật mẫu này được thông qua vào năm 1985 để khắc phục những sự khác biệt rất lớn trong
luật pháp quốc gia về trọng tài, giảm thiểu sự bất đồng giữa luật trọng tài được ban hành trong
nước và luật của các quốc gia khác.


Luật mẫu khẳng định sự cần thiết phải cải thiện và hài hịa hóa pháp luật quốc

gia khi chúng ta nhận thấy rằng pháp luật quốc gia thường khơng thích hợp với lĩnh vực trọng tài
thương mại quốc tế, và pháp luật quốc gia thường có những quy định đồng hóa tố tụng trọng tài
với tố tụng tòa án, cũng như các quy định rải rác khơng điều chỉnh việc xử lý các tình huống cụ
thể một cách thích hợp, trong khi đó Luật mẫu có thuận lợi là được biết đến rộng rãi, được bình
luận rộng rãi trên bình diện quốc tế, đáp ứng các yêu cầu của trọng tài quốc tế, cũng như được
nhiều nước chấp nhận.
e)

Nội dung

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế



18
Luật mẫu bao gồm tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng trọng tài từ thỏa thuận trọng
tài, thành phần và thẩm quyền của hội đồng trọng tài và mức độ can thiệp của tịa án thơng qua
việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài.
Luật mẫu gồm có 8 chương, 36 điều, cụ thể như sau
CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
CHƯƠNG II: THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI
CHƯƠNG III: THÀNH LẬP UỶ BAN TRỌNG TÀI
CHƯƠNG IV: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI
CHƯƠNG V: HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
CHƯƠNG VI: LẬP PHÁN QUYẾT VÀ CHẤM DỨT TỐ TỤNG
CHƯƠNG VII: YÊU CẦU TOÀ ÁN BÁC PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
CHƯƠNG VIII: CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH
 Phạm vi điều chỉnh và các định nghĩa
Luật mẫu áp dụng cho trọng tài thương mại quốc tế, theo bất kì thỏa thuận hiện hành nào
giữa quốc gia này với quốc gia khác hoặc các quốc gia Điều 1). Luật này không ảnh hưởng đến
luật khác của nước này với một số loại tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài hoặc có thể
đưa ra trọng tài theo những qui định khác với qui định của luật này. Luật này định nghĩa "Trọng
tài" là mọi hình thức trọng tài có hoặc khơng có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường
trực; thêm vào đó, căn cứ khoản 3 điều 1, trọng tài là quốc tế nếu các bên tham gia thoả thuận
trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác
nhau; nơi xét xử trọng tài hoặc nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại
được thực hiện ở ngoài quốc gia. Thỏa thuận trọng tài
 Thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là yếu tố không thể thiếu trong việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, bởi lẽ khơng có thỏa thuận trọng tài thì khơng thể có việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài.Theo điều 7của Luật mẫu, "Thoả thuận trọng tài" là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng
tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ
pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay khơng phải là quan hệ hợp đồng, có thể dưới hình

thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng, nhưng phải
được lập bằng văn bản.
Mặt khác, khoản 1 điều 16 có nhấn mạnh: Điều khoản trọng tài trở thành bộ phận của
hợp đồng sẽ được coi là thoả thuận độc lập với các Điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định
của ủy ban Trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vơ hiệu theo.
Vì vậy, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực độc lập với hợp đồng, trong cả trường hợp thỏa thuận
trọng tài là một điều khoản của hợp đồng. Dù thỏa thuận trọng tài được thể hiện dưới hình thức
một điều khoản nằm trong hợp đồng chính hay dưới hình thức văn bản riêng đi kèm hợp đồng

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


19
chính thì thỏa thuận trọng tài thực chất là một hợp đồng nhỏ có nội dung khác biệt và giá trị độc
lập với hợp đồng chính.
 Trọng tài viên
Các bên được tự do quyết định số lượng trọng tài viên, cũng như do thoả thuận về cách
thức chỉ định trọng tài viên hoặc các trọng tài viên. Nếu các bên không quyết định, số trọng tài
viên sẽ là 3, mỗi bên sẽ chỉ định một trọng tài viên, và hai trọng tài viên được chỉ định sẽ bầu
trọng tài viên thứ ba và không ai bị cản trở để thành trọng tài viên vì lý do quốc tịch, nếu các bên
khơng có thoả thuận nào khác Điều 11 .
Điều 12 có quy định: Khi một người được chỉ định làm trọng tài viên thì phải cơng khai những
hồn cảnh gây ra những nghi ngờ về tính khách quan hoặc độc lập của mình. Ngược lại, trọng tài
viên có thể bị từ chối chỉ khi có hồn cảnh đem lại sự nghi ngờ chí liên quan đến tính khách quan
và độc lập của trọng tài viên này hoặc khi anh ta khơng có đủ phẩm chất như các bên đã thoả
thuận. Ngồi ra, nếu một trọng tài viên khơng thể thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc vì lý do nào
đó không thực hiện được, nhiệm vụ của trọng tài viên này chấm dứt nếu trọng tài viên đó rút
khỏi ủy ban Trọng tài hoặc nếu các bên nhất trí với việc chấm dứt đó.
 Hoạt động tố tụng trọng tài
Các bên phải được đối xử một cách công bằng và mỗi bên phải có cơ hội đầy đủ để trình

bày về vụ kiện, các bên được tự do thỏa thuận về tố tụng mà ủy ban trọng tài phải thực hiện. Về
nơi tiến hành trọng tài, ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài các bên cũng tự thỏa thuận, nếu
khơng có thỏa thuận sẽ được ủy ban trọng tài quyết định.
 Thẩm quyền xét xử của Ủy ban trọng tài
Ủy ban trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý
kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Ủy ban Trọng tài có thể
theo yêu cầu của một bên buộc bất kỳ bên nào phải tiến hành biện pháp bảo vệ tạm thời khi ủy
ban Trọng tài thấy cần thiết đối với nội dung tranh chấp và yêu cầu bất kỳ phía nào đưa ra sự bảo
đảm thích hợp về biện pháp trên.
 Mức độ can thiệp của tòa án và cơ quan có thẩm quyền
Ðối với những vấn đề do Luật này Điều chỉnh, khơng có Tồ án nào sẽ can thiệp vào trừ
khi những trường hợp được Luật này qui định. Điều 5 . Cụ thể, toà án hoặc cơ quan có thẩm
quyền sẽ tiến hành chỉ định nếu các bên không cỉ định trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận được yêu cầu Khoản 3 điều 11 ; trong thủ tục từ chối trọng tài khơng thành cơng,
bên từ chối có thể u cầu tịa án hoắc cơ quan có thẩm quyền can thiệp vào Điều 14 .
Việc yêu cầu toà án bác phán quyết của trọng tài chỉ có thể được tiến hành thơng qua đơn
u cầu tồ án hủy bỏ phán quyết. Tịa án có thể bác bỏ phán quyết trọng tài Theo luật của nước
đó, vấn đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài được; hoặc phán quyết mâu
thuẫn với chính sách cơng của quốc gia đó Điều 34).
Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


20
Ngoài ra, Ủy ban trọng tài hoặc một bên với sự đồng ý của ủy ban trọng tài có thể u cầu tồ án
có thẩm quyền của Nước này trợ giúp thu thập chứng cứ. Tồ án có thể thực hiện u cầu đó
trong phạm vi thẩm quyền của mình và theo nguyên tắc về thu thập chứng cứ Điều 27 .
III. LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2010
1. Lịch sử hình thành
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nước ta đã có các tịa án thương mại và các quy tắc trọng tài
trong luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, do nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, trọng tài chưa được

biết đến và sử dụng một cách phổ biến.
Năm 1963 và 1964 ở miền Bắc nước ta đã
thành lập Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội
đồng Trọng tài Hàng hải. Vào những năm 70 của
thế kỷ trước, một hệ thống các trọng tài kinh tế từ
huyện, tỉnh đến Trung ương đã được thành lập để
giải quyết tranh chấp giữa các xí nghiệp quốc
doanh, các hợp tác xã. Nhưng lúc bấy giờ, các trọng
tài kinh tế thực chất là những cơ quan hành chính
nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp giữa
các xí nghiệp nhà nước mà chưa thực hiện được
vai trò trọng tài như tên gọi của chúng. Trong khi
đó Tồ án nhân dân khơng có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp này mà chỉ có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hơn
nhân và gia đình hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hố có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu
dùng. Từ năm 1998, hệ thống Trọng tài kinh tế đã giải thể. Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế
từ đó đã được thực hiện bằng hai con đường: Toà kinh tế thuộc hệ thống Toà án nhân dân và các
Trung tâm trọng tài kinh tế. Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Trung tâm Trọng
tài thương mại thay cho hoạt động của các Trọng
tài kinh tế, ngày 25 tháng 02 năm 2003 Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
Trọng tài thương mại, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 7 năm 2003.
Pháp lệnh về cơ bản phù hợp với pháp luật
và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn
đề chủ yếu của Trọng tài như quy định về hiệu
lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành
Trọng tài viên, quy định về trọng tài vụ việc, mở
rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Tồ án bằng một


Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế


21
loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thỏa thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải
quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải
quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v…
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nói trên, Pháp lệnh Trọng tài thương mại dần dần bộc lộ
khơng ít những hạn chế và bất cập cần được khắc phục bằng việc ban hành một đạo luật mới về
trọng tài thương mại – Luật Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp với Pháp lệnh kết hợp với những quy
định mới, hồn chỉnh hơn.
Chính vì vậy tại kỳ họp Quốc hội khóa XII
(10/2009), dự thảo Luật Trọng tài thương
mại được trình lên Quốc hội. Tại phiên họp
ngày 17 tháng 6 năm 2010 của kỳ họp thứ 7
Quốc hội khóa XII, Quốc hội nước CHXHCN
Việt Nam đã nhất trí biểu quyết thông qua
Dự án Luật Trọng tài thương mại và đã được
Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam công bố tại
Lệnh số 12/2010/L-CTN ngày 29 tháng 6
năm 2010. Luật "Trọng tài thương mại (sau
đây gọi tắt là TTTM) có hiệu lực hiện tại là
luật TTTM 2010 có hiệu lực từ 01/01/2011.
Văn bản hướng dẫn thi hành:


NGHỊ QUYẾT Số: 01/2014/NQ-HĐTP. Nghị quyết này hướng dẫn thi hành một

số quy định luạt trọng tài thương mại của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.



NGHỊ ĐỊNH Số: 63/2011/NĐ-CP- Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Trọng tài thương mại.
2. Tóm tắt nội dung
Luật Trọng tài Thương mại gồm 13 Chương, 82 Điều:
Chương I: Những Quy Định Chung
Chương II: Thỏa Thuận Trọng Tài
Chương III: Trọng Tài Viên
Chương IV: Trung Tâm Trọng Tài
Chương V: Khởi Kiện
Chương VI: Hội Đồng Trọng Tài
Chương VII: Biện Pháp Khẩn Cấp Tạm Thời
Chương VIII: Phiên Họp Giải Quyết Tranh Chấp

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


22
Chương IX: Phán Quyết Trọng Tài
Chương X: Thi Hành Phán Quyết Trọng Tài
Chương XI: Hủy Phán Quyết Trọng Tài
Chương XII: Tổ Chức Và Hoạt Động Của Trọng Tài Nước Ngoài Tại Việt Nam
Chương XIII: Điều Khoản Thi Hành
a) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được quy định cụ thể tại
điều 4 LTTTM 2010 cụ thể như sau:
 Nguyên tắc về thỏa thuận.
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài thương mại có thể phát sinh hoặc không phát sinh. Quyền lực của trọng tài hồn tồn
do các bên tự thỏa thuận, khơng có thỏa thuận thì sẽ khơng có trọng tài.
Tại khoản 1 điều 4 LTTTM 2010 quy định điều kiện “tranh chấp được giải quyết bằng
trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài có thể thỏa thuận trước hoặc
sau khi tranh chấp” ngay khi kí kết hợp đồng tức là khi tranh chấp chưa xảy ra, quyền và nghĩa
vụ của các bên chưa có bất kỳ mâu thuẫn gì, các bên đã có thể thỏa thuận dự liệu phương thức
giải quyết tranh chấp cho tương lai hoặc có thể lựa chọn phương thức trọng tài sau khi tranh
chấp đã được nảy sinh. Sau khi phát sinh tranh chấp, thẩm quyền giải quyết tranh chấp xẽ thuộc
về trọng tài. Tòa án phải từ chối giải quyết nếu nhận được đơn khởi kiện. viêc ra hạn, thay đổi,
hủy bỏ, vô hiệu của hợp đồng không làm mất giá trị pháp lí của thỏa thuận trọng tài. Hiệu lực của
thỏa thuận được pháp luật ghi nhận tai điều 19 LTTTM 2010.
Về hình thức thỏa thuận trọng tài: LTTTM quy định cụ thể tai điều 16, thỏa thuận
trọng tài phải được lập thành văn bản, có thể tồn tại là một điều khoản trong hợp đồng hoặc điều
khoản riêng trường hợp xác lập bằng hình thức khác thì hình thức này phải có giá trị tương
đương như văn bản như là: Fax, telex.
Về thỏa thuận trọng tài vô hiệu: thỏa thuận trọng tài vô hiệu là trường hợp các bên
thỏa thuận về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng thỏa thn đó khơng được cơng nhân
hiệu lực. Các trường hợp thỏa thuận ttrongj tài vô hiệu được quy định tai điêu 18 LTTTM 2010
bao gồm: Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tai quy
định tại điều 2 luật này.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có thẩm quyền theo quy định của pháp lt.
Người xác lập thỏa thuận trọng tài khơng có năng lực hành vi dân sự
Hình thức thỏa thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại điều 16 luật này
Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác n lập thỏa thuận trọng
tài và yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu.

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


23

Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm pháp luật.
Trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận các bên nếu thỏa thuận đó khơng vi phạm
điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức đảm bảo cao nhất quyền tự đinh
đoạt của các bên. Các bên có thể thỏa thuận với nhau và tự quyết định trung tâm trọng tài, địa
điểm giải quyết tranh chấp và thủ tục tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài cũng do các
bên trao cho nên khoản 1 diều 4 LTTTM 2010 quy đinh “ trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận
của các bên…”.
Trọng tài biên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
Trọng tài viên với tư cách là người thức ba được các bên tranh chấp tin tưởng trao quyền
giải quyết vụ tranh chấp nên cần nhận thức đúng nghĩa vụ vị trí của mình để đưa ra phán quyết
cuối cùng, vơ tư, khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích tối đa cho các bên đương sự. để đảm bảo
yếu tố vô tư, khách quan trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp hoặc các bên có quyền
yêu cầu thay đổi trọng tài viên nếu thấy “ trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện
của một bên” hay “ trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp”

khoản 1 điều 42

LTTTM 2010)
Các bên tranh chấp đều biết được quyền và nghĩa vụ của mình.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình khoản 3 điều 4 LTTTM . Các bên tranh chấp có địa vị pháp lí ngang nhau giữa các cơng
dân, pháp nhân và tổ chức họ đều có thể giải quyết bằng trọng tài đối với mọi tranh chấp thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại. trong quá trình giải quyết tranh chấp họ được
đảm bảo quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại phải được tiến hành công khai, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Khi đưa vụ tranh chấp ra giải quyết, việc bảo đảm bí mật kinh doanh, uy tín danh dự,
thương hiệu doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của nhà kinh doanh. Chính vì vậy pháp luật
cho phép họ có thể tự thỏa thuận xét xử kín.

b)

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp:

Theo LTTTM 2010, một tranh chấp xẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài khi đồng
thời đáp ứng các điều kiện sau:
 Một là: Nếu tranh chấp thỏa mãn một trong các trường hợp sau thì tranh
chấp đó thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại.


TH1: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.



TH2: tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên hoạt động

thương mại.

Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


24


TH3: tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết

bằng trọng tài thương mại.
 Như vậy là so với pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 thì phạm vi vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại đã dược mở rộng.
 Hai là: các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài có

hiệu lực.
c)

Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:

Điều 5. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa
thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trường hợp một bên tham
gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có
hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp
các bên có thoả thuận khác. Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải
chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình
thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ
của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
d)

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
 Đơn kiện và thụ lí đơn kiện
Bước đầu của quá trình tố tụng trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn kiện đến trung

tâm trọng tài trong trường hợp giải quyết bằng trung tâm trọng tài hay gửi đơn kiện cho bị đơn
trong trường hợp giải quyết bằng trọng tài vụ việc . Trong q trình tố tụng các bên có thể bổ
sung, sửa đổi đơn kiện.
Đơn kiện phải đáp ứng đầy đủ các thông tin quy định tại khoản 2, khoản 3 điều 30
LTTTM 2010. Một trong những nội dung quan trọng của đơn kiện là nguyên đơn chỉ ra cụ thể
thông tin về người được nguyên đơn chọn làm trọng tài viên. Cùng theo đưn kiện các bên cần gửi
theo bản thỏa thuận trọng tài, đây là tài liệu quan trọng để trung tâm trọng tài đánh giá tranh
chấp có được thụ lí hay khơng. Thời hiệu khởi kiện theo tố tụng trọng tài là hai năm kể từ thời
điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại.
 Tự bảo vệ của bị đơn.

Theo điều 35 LTTTM 2010, trong thời hạn luật định bị đơn phải gửi cho trung tâm
trọng tài bản tự bảo vệ đối với tranh chấp giải quyết tại trung tâm trọng tài . Đối với tranh chấp
giải quyết tại trọng tài vụ việc, nếu các bên khơng có thỏa thuận khác thì trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo do chính nguyên đơn gửi, bị đơn phải gửi
đồng thời hai bản tự bảo vệ cho nguyên đơn và trọng tài viên, kềm theo các thông tin về người
được chọn làm trọng tài viên.
Tiểu luận: Thông lệ trọng tài Quốc tế


25
 Thành lập hội đồng trọng tài.
Nếu vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thường trực thì mỗi bên trong
tranh chấp sẽ chọn một trọng tài viên và hai trọng tài viên đó sẽ cùng chọn ra một trọng tài viên
thứ ba làm chủ tịch hội đồng trọng tài. Nếu hết hạn luật định mà bị đơn không chọn được trọng
tài viên cho mình thì chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định trọng tài viên cho bị đơn.
Nếu vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài vụ việc, ngay từ khi nguyên đơn
gửi đơn kiện cho bị đơn họ đã chọn trọng tài viên cho mình và bị đơn trong bản tự bảo vệ cũng
đã chọn ra một trọng tài viên. Và hai trọng tài đó sẽ bầu ra một trọng tài viên khác làm chủ tịch
hội đồng trọng tài. Điều khác ở đây là nếu bị đơn khơng chọn trọng tài viên thì một hoặc các bên
có quyền u cầu tịa án chỉ định trọng tài viên cho các bị đơn. Căn cứ xác định thẩm quyền của
tòa án được quy định tại khoản 2 điều 7 LTTTM 2010.
 Chuẩn bị giải quyết vụ việc
Sau khi hội đồng trọng tài được thành laapj trành chấp thương mại sẽ chính thức
được chuẩn bị giải quyết. Q trình này gồm các cơng việc: nghiên cứu hồ sơ, xác định sự việc,
thu thập chứng cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
 Hòa giải
Hòa giải là một trong những biện pháp tốt nhất cho việc giải quyết tranh chấp tại
trọng tài. Trong tố tụng trọng tài hịa giải khơng phải là thủ tục tố tụng bắt buộc song hội đồng
trọng tài phải tôn trọng việc tự hòa giải của các bên.
 Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và quyết định trọng tài

Thời gian tiến hành, địa diểm giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận. trong
trường hợp các bên không thỏa thuận thì chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định thời gian mở
phiên họp giải quyết tranh chấp và phải gửi giấy triệu tập cho các bên đương sự tham gia phiên
họp chậm nhất là 30 ngày trước nhày mở phiên họp.
Các bên có thể trực tiết tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp hoặc cử đại diện
của mình, nếu bị đơn đã được gửi giấy triệu tập mà vắng mặt khơng có lí do thì phiên họp vẫn
được tiến hành, các bên đương sự cũng có thể yêu cầu hội đồng trọng tài hoãn phiên họp giải
quyết tranh chấp nếu có lí do chính đáng.
Kết thúc q trình giải quyết tranh chấp hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết
trọng tài. Quyết định trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc đa số, nếu vụ tranh chấp do
trọng tài viên duy nhất giải quyết thì trọng tài viên này quyết định. Quyết định của trọng tài phải
đảm bảo về nội dung và hình thức theo quy định của luật này.
e)

Luật áp dụng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
Điều 14. Luật áp dụng giải quyết tranh chấp:

Đối với tranh chấp khơng có yếu tố nước ngồi, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt
Nam để giải quyết tranh chấp. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngồi, Hội đồng trọng tài áp
Tiểu luận: Thơng lệ trọng tài Quốc tế


×