Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề thi chọn HSG cấp tỉnh Môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.13 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

THANH BA
ĐỀ CHÍNH THỨC

ĐỀ KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNH

Năm học 2016 - 2017
Môn: Ngữ văn 9
Thời gian làm bài: 150 phút (không kể thời gian giao

đề)

Câu 1 (8,0 điểm):
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
... “Ước làm một hạt phù sa
Ước làm một tiếng chim ca xanh trời
Ước làm tia nắng vàng tươi
Ước làm một hạt mưa rơi, đâm chồi”.
(Lê Cảnh Nhạc- Xin làm hạt phù sa- 2005).
1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ trên?
2. Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ ?
3. Tìm điểm chung trong cảm hứng sáng tác của các tác giả: Lê Cảnh
Nhạc trong bài thơ Xin làm hạt phù sa, Thanh Hải trong bài Mùa xuân nho
nhỏ và Viễn Phương trong bài Viếng lăng Bác?
4. Viết đoạn văn tổng – phân – hợp cảm nhận về hiệu quả nghệ
thuật của biện pháp tu từ và các hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ ?
Câu 2 (12,0 điểm):
Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước trong
các tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), Bài thơ về tiểu đội xe không
kính


( Phạm Tiến Duật) và Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)

Hết
Họ tên thí sinh: ……………………………… Số báo danh:
………………………

Chú ý: - Đề thi gồm 01 trang. Thí sinh không được sử dụng bất cứ tài liệu gì
- Cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm.


HƯỚNG DẪN CHẤM THI KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNH
NĂM HỌC 2016- 2017
Môn: Ngữ văn – Lớp 9
Câu 1 (8,0 điểm):
Yêu cầu chung
- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội, đòi hỏi thí
sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống và kĩ năng tạo lập văn bản để
làm bài.
- Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng, có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã
hội.
Yêu cầu cụ thể:
1. Chỉ ra được phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ: biểu cảm 0,5 điểm
2. Tìm các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn thơ: 0,5 điểm
+ Điệp ngữ “ước làm” nhắc lại 4 lần, điệp ngữ “một” nhắc lại 3 lần nhấn
mạnh thi nhân có nhiều ước muốn để cống hiến, dựng xây cho quê hương, đất
nước.
3. Tìm điểm chung trong cảm hứng sáng tác của các tác giả: Lê Cảnh Nhạc
trong bài thơ Xin làm hạt phù sa, Thanh Hải trong bài Mùa xuân nho nhỏ và
Viễn Phương trong bài Viếng lăng Bác?

3,0 điểm
Lê Cảnh Nhạc, Thanh Hải và Viễn Phương đều có điểm giống nhau trong
cảm hứng sáng tác. Trước cuộc sống sôi động, trước cảnh mùa xuân đất nước,
trước lãnh tụ vĩ đại, họ đều có những ước muốn làm các sự vật nhỏ bé, khiêm
nhường để thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước bằng hành động cống hiến:
+ Thanh Hải ước muốn làm tiếng chim, bông hoa, nốt nhạc, “Mùa xuân
nho nhỏ” để làm đẹp mùa xuân dân tộc.
+ Viễn Phương ước muốn làm tiếng chim, bông hoa, cây tre trung hiếu để
ngày đêm được ở bên Bác.
+ Lê Cảnh Nhạc ước muốn làm hạt phù sa, tiếng chim, tia nắng, hạt mưa
để sống có ích, sống làm đẹp cho cuộc đời.
Đó là tình cảm, lẽ sống cao đẹp của con người Việt Nam trong thời đại mới.
4. Viết đoạn văn tổng – phân – hợp phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp
tu từ và các hình ảnh được sử dụng trong đoạn thơ ?
4,0 điểm
+ Hình thức: viết đúng đoạn tổng – phân – hợp
+ Nội dung: - Điệp ngữ “ước làm” nhắc lại 4 lần, điệp ngữ “một” lặp
lại 3 lần nhấn mạnh những ước muốn chân thành, khiêm nhường được cống
hiến, làm đẹp cho quê hương, đất nước.
- Các hình ảnh “Một hạt phù sa’, “tiếng chim ca”, “tia nắng
vàng tươi”, “hạt mưa rơi” là những sự vật bé nhỏ trong thiên nhiên nhưng đều
có tác dụng với cuộc sống. Phù sa mang đến màu mỡ cho những cánh đồng.
Tiếng chim hót làm “xanh trời” hoà bình. “Tia nắng vàng tươi”, “hạt mưa rơi”
khiến cho hạt đâm chồi, nảy lộc, sự sống hình thành và phát triển. Các hình ảnh


giản dị, khiêm nhường thể hiện ước nguyện sống, cống hiến cao đẹp của con
người.
Câu 2 (12,0 điểm):
Yêu cầu chung:

- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy
động kiến thức về tác phẩm văn học, kiến thức văn học sử, kĩ năng tạo lập văn
bản để làm bài.
- Thí sinh có thể cảm nhận và trình bày theo những cách khác nhau, nhưng
phải rõ hệ thống luận điểm, có lý lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể:
1. Khái quát chung (2,0 điểm)
- Các tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật,
Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành
Long ra đời trong thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn
ra ác liệt. Mặc dù vậy, các tác giả không đi sâu miêu tả những đau thương mất
mát, những vất vả khó khăn của dân tộc mà tập trung khám phá, ca ngợi vẻ đẹp
của con người Việt Nam trong chiến đấu cũng như trong lao động.
- Các tác phẩm làm hiện lên hình ảnh những con người rất đỗi bình dị,
tâm hồn trong sáng, có lòng yêu nước thiết tha, không quản ngại khó khăn, gian
khổ, hiểm nguy, ngày đêm chiến đấu với kẻ thù, hăng say lao động để xây dựng
và bảo vệ quê hương, đất nước. Họ đã tạo nên một tập thể anh hùng trong hoàn
cảnh chiến tranh khốc liệt, trong đó mỗi nhân vật đều có vẻ đẹp riêng hòa vào vẻ
đẹp chung của dân tộc.
2. Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
(8,0 điểm)
a. Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong chiến đấu (4,0 điểm)
- Họ có lý tưởng sống cao đẹp, có tình yêu nước nồng nàn, sẵn sàng chiến
đấu, hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Người chiến sĩ lái xe, những nữ thanh niên xung phong làm nên những kỳ
tích phi thường là nhờ có tình yêu Tổ quốc
- Họ luôn hiên ngang, dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với khó khăn, gian
khổ:
+ Trên những chiếc xe không kính, những người lính lái xe có tư thế ung
dung, bình tĩnh. Họ chấp nhận thử thách, bất chấp mọi hiểm nguy.

+ Những thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn hàng ngày
phải phơi mình trên trọng điểm sau những trận bom, đo khối lượng đất đá lấp
vào hố bom, đếm bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, cái chết luôn
rình rập họ từng phút, từng giờ nhưng họ vẫn luôn chủ động, bình tĩnh trong mọi
tình huống, gan dạ, dũng cảm, không quản ngại khó khăn nguy hiểm.
- Họ là những con người trẻ trung, lãng mạn, nhiều khát vọng:
+ Những cô gái thanh niên xung phong là những người yêu đời, dễ rung
cảm, giàu ước mơ. (Phương Định, Nho, chị Thao là những cô gái hồn nhiên,
nhạy cảm, lãng mạn và mơ mộng,...).


+ Những người lính lái xe rất trẻ trung, sôi nổi, lạc quan yêu.
- Họ có tình đồng chí, đồng đội gắn bó thân thiết:
+ Hoàn cảnh chiến tranh đã gắn kết những người lính lái xe trong tình
thân đồng đội như anh em ruột thịt, cùng sẻ chia với nhau trong cuộc sống thiếu
thốn, hiểm nguy.
+ Trong khói lửa đạn bom, những cô thanh niên xung phong cũng gắn bó,
yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau bằng tình cảm chân thành, thắm thiết của
những người đồng đội.
b. Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong lao động
(4,0 điểm)
* Hình ảnh thế hệ trẻ thời chống Mĩ trong lao động được tập trung thể
hiện trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một
bài ca về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động
tưởng chừng như bình thường mà cao cả, luôn quan tâm và có trách nhiệm đối
với quê hương, đất nước. Họ lặng lẽ, âm thầm, ngày đêm cống hiến hết mình
cho đất nước.
- Họ là những người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Anh thanh
niên, anh cán bộ nghiên cứu khoa học,… đã thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc
trong công việc lao động đầy gian khổ. Họ làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Lí

tưởng sống của họ là vì nhân dân, vì đất nước.
- Họ là những người nhiệt tình và hăng say lao động. Trong điều kiện
khắc nghiệt, những người lao động ấy vẫn mang hết sức lực của mình để cống
hiến cho Tổ quốc.
- Họ có lối sống giản dị, khiêm tốn, giàu tình cảm: anh thanh niên là
người có tâm hồn cởi mở, chân thành, quý trọng tình cảm, khát khao được gặp
gỡ, trò chuyện với mọi người; biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống một cách chủ
động, ngăn nắp; khiêm tốn, trân trọng sự hi sinh thầm lặng của những người
xung quanh... Cuộc gặp gỡ đầy thú vị giữa anh thanh niên, người họa sĩ, cô kỹ
sư và bác lái xe bộc lộ tình cảm đáng trân trọng của họ.
3. Đánh giá, khái quát.
(2,0 điểm)
- Với cảm hứng ngợi ca, hình ảnh những người lính, những nữ thanh niên
xung phong, những người lao động thời kỳ chống Mĩ hiện lên chân thực, sinh
động, cao đẹp; gieo vào lòng người đọc niềm trân trọng, cảm phục xen lẫn tự
hào.
- Ba tác phẩm giúp bạn đọc hiểu hơn về lịch sử hào hùng của dân tộc, về
thế hệ cha anh với lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh xương máu, hi sinh
tuổi thanh xuân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thế hệ trẻ hôm nay cần kế thừa
và phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thế hệ cha anh đi trước trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
* Lưu ý:
- Trên đây chỉ là những định hướng, giám khảo cần linh hoạt, tránh đếm ý
cho điểm. Việc cho điểm từng ý cần thống nhất chung.
- Khuyến khích những bài viết có sự sáng tạo.
- Điểm toàn bài là tổng điểm các câu đã chấm cho lẻ đến 0,25.
Hết


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


ĐỀ KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNH

THANH BA
ĐỀ CHÍNH THỨC

Năm học 2016 - 2017
Môn: Ngữ văn 9
Thời gian làm bài: 150 phút (không kể thời gian giao đề)

Câu 1 (8,0 điểm):
Suy nghĩ của em về câu nói: “Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt”
Câu 2 (12,0 điểm):
Giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa:
mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài, đồng thời mang được sự thật tâm tình của
con người”

Em hãy làm rõ: truyện ngắn Chiếc lược ngà là tác phẩm đã “đạt tới cái đẹp
theo nghĩa mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài, đồng thời mang được sự thật
tâm tình của con người”.

Hết

Họ tên thí sinh: ……………………………… Số báo danh:
………………………

Chú ý: - Đề thi gồm 01 trang. Thí sinh không được sử dụng bất cứ tài liệu gì
- Cán bộ coi thi không được giải thích gì thêm.



HƯỚNG DẪN CHẤM THI KHẢO SÁT ĐỘI TUYỂN HSG CẤP TỈNH
NĂM HỌC 2016- 2017
Môn: Ngữ văn – Lớp 9
Câu 1 (8,0 điểm)
Yêu cầu chung
- Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận về một vấn đề xã hội, đòi hỏi thí
sinh phải huy động những hiểu biết về đời sống và kĩ năng tạo lập văn bản để
làm bài.
- Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng, có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã
hội.
Yêu cầu cụ thể
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo
những ý cơ bản sau:
1. Giải thích ý kiến: (2,0 điểm)
- Giọt nước mắt: là một trong những biểu hiện của trạng thái cảm xúc, thể
hiện sự xúc động cao độ, mãnh liệt của con người như buồn, thất vọng, đau khổ,
tuyệt vọng, hoặc đôi khi nước mắt cũng là biểu hiện của trạng thái vui mừng,
cảm động,…
- Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt: khẳng định vai trò, sự cần thiết
của cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống.
2. Bàn luận (4,0 điểm) Vì sao “nước mắt” lại cần thiết trong cuộc sống?
- Nước mắt là một hình thức cần thiết để giải tỏa nỗi niềm, giúp con người
vượt lên trong cuộc sống: Nước mắt là biểu hiện của tâm trạng buồn đau khi con
người rơi vào hoàn cảnh éo le, nghiệt ngã. Nó giúp con người vơi đi những buồn
đau để lấy lại thăng bằng trong cuộc sống. Nếu biết gạt đi những giọt nước mắt,
vượt qua những buồn đau, con người sẽ khẳng định được ý chí, nghị lực, bản lĩnh
của mình.
- Nước mắt còn là biểu hiện của sự xúc động chân thành trước niềm vui,
hạnh phúc và sự may mắn mà ta có được. Giọt nước mắt ấy cho ta niềm tin, tình

yêu vào cuộc sống.
- Nước mắt còn là biểu hiện sự day dứt, trăn trở, hối hận, ăn năn, có tác dụng
thức tỉnh, thanh lọc tâm hồn, giúp ta dũng cảm đối diện với những sai lầm của
chính mình để ngày càng hoàn thiện bản thân.
- Nước mắt là biểu hiện của lòng trắc ẩn, thể hiện sự xúc động chân thành,
niềm cảm thông, chia sẻ với người khác, làm cho cuộc sống trở nên nhân ái và tốt
đẹp hơn.
=> Cuộc sống cũng cần những giọt nước mắt bởi đó không chỉ là biểu hiện
thuộc về những xúc cảm có tính bản năng của con người mà còn là dấu hiệu của
nhân tính, cho thấy vẻ đẹp tâm hồn phong phú, giàu xúc cảm, giàu tình yêu
thương…


(Lưu ý: Học sinh cần kết hợp được lí lẽ với các dẫn chứng tiêu biểu để làm sáng
tỏ
vấn đề)
Mở rộng : Cuộc sống không chỉ có nước mắt mà còn có nụ cười. Hãy
luôn mỉm cười bởi nụ cười của bạn chính là lý do để người khác mỉm cười.
3. Bài học nhận thức và hành động (2,0 điểm)
- Cần trân trọng và bồi đắp những xúc cảm chân thành, mãnh liệt trong cuộc
sống để tâm hồn mỗi người không trở nên khô cằn, vô cảm, chai sạn trong nhịp
sống hiện đại.
- Nước mắt cần đi liền với lí trí sáng suốt để lòng trắc ẩn của chúng ta không
bị lợi dụng, để những xúc cảm trong nội tâm luôn hướng đến những tình cảm nhân
văn .
- Con người không chỉ biết rơi nước mắt mà còn cần phải hành động để giúp
bản thân và người khác vượt qua những khổ đau và những thử thách trong cuộc
đời.
Câu 2 (12,0 điểm):
* Yêu cầu chung:

- Kiểm tra năng lực viết bài NLVH đòi hỏi thí sinh huy động kiến thức về lí
luận văn học, khả năng cảm thụ tác phẩm, kỹ năng tạo lập văn bản để làm bài.
- Thí sinh có thể cảm nhận và trình bày theo những cách khác nhau nhưng
phải rõ hệ thống luận điểm, có lý lẽ, căn cứ xác đáng.
* Yêu cầu cụ thể:
1.Giải thích ý kiến: (2,0 điểm)
- Giải thích từ ngữ:
-“Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa: mang được sự thật sâu
xa của đời sống bên ngoài: Tác phẩm nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng
phải phản ánh được chân thực chiều sâu của hiện thực đời sống.
- Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp theo nghĩa mang sự thật tâm tình
của con người: Tác phẩm văn học phải phản ảnh được chân thực thế giới tâm
hồn, tình cảm của con người, thể hiện được những nỗi niềm cảm xúc, những tâm
tư tình cảm của con người.
- Ý kiến khẳng định: Tác phẩm nghệ thuật đạt tới cái đẹp là những tác
phẩm phàn ảnh được một cách chân thực, sâu sắc hiện thực của đời sống khách
quan đồng thời thể hiện chân thực thế giới tâm hồn và tình cảm của con người.
Ý kiến đúng, là tiêu chí quan trọng để đánh giá tác phẩm văn học có giá trị.
2. Phân tích, chứng minh qua tác phẩm Chiếc lược ngà.(8,0điểm)
Khẳng định: Truyện ngắn Chiếc lược ngà là một tác phẩm nghệ thuật đạt tới
cái đẹp
Luận điểm 1: Truyện ngắn Chiếc lược ngà là “tác phẩm nghệ thuật
mang được sự thật sâu xa của đời sống bên ngoài”: Phản ánh chân thực hiện
thực cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và những đau thương mất mát
đằng sau cuộc chiến.
(3,0 điểm)


+ Hiện thực chiến tranh vô cùng khắc nghiệt (hoàn cảnh ngặt nghèo của
chiến tranh với những đau thương, gian khổ, những mất mát hy sinh...).

+ Những nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho cuộc sống con người (vợ
chồng, cha con phải sống trong cảnh chia lìa, gặp nhau con không nhận ra cha,
đến lúc nhận ra thì cũng là phút giây từ biệt...)
Luận điểm 2: Truyện ngắn Chiếc lược ngà là “tác phẩm nghệ thuật
mang sự thật tâm tình của con người”: Thể hiện chân thực và xúc động vẻ đẹp
của tình cảm gia đình, tình đồng chí đồng đội trong những năm khánh chiến
chống Mỹ gian khổ, ác liệt:
(6,0 điểm)
+ Tác phẩm đã thể hiện một cách cảm động tình phụ tử thiêng liêng: con
yêu cha bằng một tình cảm đặc biệt sâu sắc, chân thật (nhất định không nhận cha
cũng chỉ vì tình yêu cha, mãnh liệt bộc lộ cảm xúc khi nhận ra cha...); cha yêu
con bằng một tình yêu bị dồn nén, kìm chặt (da diết nhớ con, đau đớn khi con
không nhận ra mình, hạnh phúc vỡ òa khi được con gọi ba, dồn hết tình yêu
thương vào chiếc lược ngà và trao lại trong phút giây sinh tử...).
+ Tác phẩm đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó (ông Sáu và bác Ba
đã cùng nhau tham gia hai cuộc kháng chiến nên gắn bó keo sơn, cùng nhau
vượt qua hoàn cảnh ác liệt nơi chiến trường, cùng nhau chiến đấu để giành độc
lập, tự do cho đất nước, chung lí tưởng; chứng kiến và thấu hiểu cảnh ngộ của
nhau, sẻ chia với nhau,dành cho nhau niềm tin tưởng sâu sắc…)
+ Tác phẩm cũng bộc lộ rõ nét sự đồng cảm sẻ chia, sự xót xa, đau đớn;
tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn với con người và tình người (qua lời
văn miêu tả đầy xúc động, khả năng phân tích tâm lí nhân vật tinh tế sâu sắc...).
3) Đánh giá: (1,0 điểm) Ý kiến của giáo sư Lê Đình Kỵ là ý kiến đúng, sâu
sắc:
+ Ý kiến đã nêu lên tiêu chí đánh giá một tác phẩm đạt tới cái đẹp, có ý
nghĩa to lớn trong việc định hướng sáng tác cho người nghệ sĩ: tác phẩm nghệ
thuật cần đạt tới cái đẹp.
+ Giúp ta thấy được tác động của một tác phẩm nghệ thuật đạt đến cái đẹp
đến độc giả: đem đến cho người đọc nhận thức phong phú về đời sống; bồi
dưỡng cho tâm hồn con người những tư tưởng, tình cảm, lối sống cao đẹp.

+ Đồng thời định hướng cho người tiếp nhận: cảm và hiểu được cái đẹp
của tác phẩm nghệ thuật.
* Lưu ý:
- Trên đây chỉ là những định hướng, giám khảo cần linh hoạt, tránh đếm ý
cho điểm. Việc cho điểm từng ý cần thống nhất chung.
- Khuyến khích những bài viết có sự sáng tạo.
- Điểm toàn bài là tổng điểm các câu đã chấm cho lẻ đến 0,25.
Hết


Ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong truyện ngắn Chiếc lược ngà
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, còn có bút danh là Nguyễn Sáng. Ông sinh năm 1932 t ại xã M ỹ
Luông (nay là thị trấn Mỹ Luông), huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong thời kỳ kháng chi ến
chống Pháp, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở chiến trường miền Nam. Sau năm 1954, ông
được tập kết ra miền Bắc, bắt đầu sự nghiệp viết văn kể từ đó. Đến những năm kháng chiến
chống Mĩ, ông quay lại miền Nam, cùng tham gia cuộc kháng chiến và tiếp tục vi ết văn.
Nguyễn Quang Sáng viết nhiều nhưng tác phẩm của ông hầu hết chỉ vi ết về con người và cuộc
sống ở Nam bộ với những nét đặc trưng riêng biệt. Những tác phẩm viết về đề tài chi ến tranh
của ông không giống những sáng tác của các nhà văn cùng thời. Vi ết về cuộc chiến, nguyễn
Quang Sáng không tái hiện hiện thực khói lửa mà chủ yếu phản ánh những đau th ương mất mát
đằng sau cuộc chiến. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng vi ết năm 1966
tại chiến trường Nam Bộ là một trong những sáng tác mang nét đặc trưng như thế.
Thông qua cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu, truyện ngắn đã gợi cho người đọc biết bao suy
ngẫm. Cuộc chiến tranh đang diễn ra, những đau thương mất mát trên chi ến trường có thể nhìn
thấy được, thống kê được nhưng nỗi đau của những người mẹ mất con, người vợ mất chồng,
những đứa con không biết mặt cha thì chưa phải ai cũng đã nhận ra. Cái mất mát đằng sau cuộc
chiến không chỉ diễn ra tại thời điểm đó, nó còn hiện hữu, dai dẳng mãi sau này.
Nỗi đau thương mất mát đó đã được nhà văn thể hiện qua hai tình huống đầy éo le.
Tình huống thứ nhất: Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, bé Thu không nh ận cha đến
lúc em nhận ra và bộc lộ tình cảm thắm thiết thì anh Sáu phải ra đi.

Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nh ớ con vào vi ệc
làm cây lược ngà để tặng con nhưng anh đã hi sinh mà chưa kịp trao cây lược cho con gái.
Ở tình huống thứ nhất, người đọc, nếu để ý kĩ, sẽ thấy được hậu quả của chiến tranh đã len lỏi
đến nơi hậu phương như thế nào.


Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên anh Sáu không kìm được nỗi vui
mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con, xuồng chưa cập bến anh đã nhún chân nhảy thót lên r ồi
kêu to Thu con, nghe gọi con bé giật mình, tròn mắt nhìn, nó ngơ gác, lạ lùng,m ặt nó tái đi rồi vụt
chạy hành động này thể hiện thái độ ngạc nhiên, sợ hãy của Thu bởi lẽ với em anh Sáu hoàn
toàn là người xa lạ, hơn thế lúc này vết thẹo dài bên má của anh đang đỏ ửng, giần giật trông rất
dễ sợ, nên phản ứng đầu tiên của Thu gọi mẹ để mẹ che trở.
Những ngày nghỉ phép, anh Sáu ở nhà không đi đâu cả, chỉ quanh quẩn bên con, anh tìm m ọi
cách gần giũ, vỗ về con. Nhưng anh càng gần gũi, vỗ về con bao nhiêu thì đứa con lại càng tỏ ra
lạnh nhạt, xa cách,khi anh khao khát con gọi một tiếng ba thì con lại nói tr ổng hay trong tình
huống người lớn buộc nó gọi tiếng ba khi nó trông nồi cơm sôi sắp nhão, nó cũng nhất định
không chịu gọi ba để nhờ chắt nước giùm, con bé thông minh tự thoát kh ỏi khó khăn bằng cách
lấy cái vá múc ra từng vá nước hoặc trong bữa ăn anh Sáu gắp cho con cái trứng cá, hành động
đó thể hiện sự quan tâm của anh đối với con nhưng con bé lại hất cái trứng cá mà anh gắp cho,
điều đó chứng tỏ bé Thu không chịu đón nhận sự quan tâm của anh cũng đồng nghĩa với vi ệc
Thu không đón nhận anh là ba, phản ứng của bé Thu có phần thiểu lễ độ nên anh Sáu tức giận
đã đánh con. Có người cho rằng đây là chi tiết thể hiện phản ứng dữ dội của con bé, đây có l ẽ là
chi tiết phản ánh tình cảm mãnh liệt của Thu đối với ba, Thu càng phản ứng d ữ d ội bao nhiêu thì
càng thể hiện mãnh liệt tình cảm của em đối với người cha trong tâm tưởng của mình, rồi Thu b ỏ
sang nhà ngoại, chúng ta có thể khẳng định thái độ ngờ vực, lảng tránh, sự ương ngạnh của Thu
là hoàn toàn không đáng trách vì em còn quá nhỏ, em đâu biết được rằng ng ười cha có t ấm hình
chụp chung với má có thể biến dạng do bom đạn của chiến tranh do vậy Thu đã không nhận ra
cha vì vết thẹo dài ở trên má, thái độ của Thu thể hiện tình yêu vẹn nguyên, sâu sắc em chỉ dành
cho người cha của mình chứ không có người đàn ông nào thay thế được cha trong trái tim nhỏ
bé của em được.

Nguyên nhân bé Thu không nhận ba là vì vết thẹo trên mặt, vì bé Thu chưa m ột lần được gặp
cha. Vì sao điều ấy lại xảy ra? Chiến tranh. Chiến tranh đã khiến người cha không th ể ở bên đứa
con, chiến tranh đã làm biến dạng hình hài của những con người, chiến tranh đã làm cho nh ững
khát khao hạnh phúc bình dị không bao giờ thành hiện thực.
Khi Thu nhận ra anh Sáu là cha thì thái độ của em hoàn toàn khác thỉnh thoảng lại th ở dài, cái
thở dài đó già dặn hơn lứa tuổi của em, Thu lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và nhìn m ọi
người đang vây quanh ba nó, anh Sáu rất muốn ôm con, hôn con nhưng hình như lại s ợ nó bỏ
chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó, anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, anh kh ẽ nói: Thôi!
Ba đi nghe con!. Con bé đã thét lên: - Ba...a...a...ba!. Tiếng ba ấy dường như bật lên t ừ trong
tiềm thức, tiếng ba bị dồn nén bao lâu giờ vỡ tung để cho mọi người phải xót xa, đau đớn, giờ
mọi người mới hiểu thực ra tình yêu thương ba của Thu vô cùng mãnh liệt và v ẹn nguyên “ nó
hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó n ữa”.
Nó hôn vội vã, hôn cuống quýt, hôn hối hả, xen lẫn cả sự ân hận tiếc nối, dường như nụ hôn đó
để bù đắp cho ba trong ba ngày về phép, có ba ngày bên ba nó lại bỏ phí c ơ hội, nụ hôn đó còn
bù đắp cho những tháng ngày cha con phải xa cách.
Chúng ta nhận thấy tình cảm của trẻ thơ đối với đấng sinh thành hết sức nguyên vẹn, mãnh liệt,
đây không phải là sự khao khát mà là quyền của trẻ em, tất cả các thế lực ngăn cản quy ền của
trẻ em được gần gũi với đấng sinh thành đều là tội ác.
Trong truyện ‘ Chiếc lược ngà” ngoài tình huống trên, truyện còn xuất hiện tình huống ở khu căn
cứ, anh Sáu dồn hết tình yêu thương và mong nhớ con vào việc làm cây l ược ngà để tặng con
nhưng anh đã hi sinh mà chưa kịp trao cây lược cho con gái. Tình cảm của anh Sáu dành cho
con được thể hiện phần nào trong những ngày anh nghỉ phép, anh Sáu mong được gặp con,
khát khao tình cha con cháy bỏng nên bất lực và vô cùng đau kh ổ trước sự bướng bỉnh của con,
nhưng tình cảm đó còn biểu hiện tập trung và sâu sắc ở phần sau của truyện, khi anh Sáu ở
trong rừng tại khu căn cứ.
Nỗi day dứt, ân hận, ám ảnh anh suốt nhiều ngày sau khi chia tay với gia đình là việc anh đã
đánh con khi nóng giận. Rồi lời dặn của đứa con “ Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe
ba!”khi kiếm được khúc ngà anh vô cùng vui mừng, sung sướng b ởi lẽ anh s ẽ làm chiếc l ược
bằng ngà voi, chiếc lược đó giúp anh gửi gắm niềm yêu mến dành cho con nên anh làm l ược



cho con tỉ mỉ, kì công, trau truốt khắc lên lược dòng chữ: “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”, qua
những chi tiết đó ta thấy anh Sáu đã thể hiện tình yêu thương con qua việc anh làm cây l ược
tặng con, cây lược lúc này không phải chỉ là lời hứa mà còn là hiện thân của đứa con gái, vi ệc
anh trau truốt mài từng chiếc răng lược cũng giống như anh đang thận trọng, trau truốt chăm sóc
cho đứa con bé bỏng, trong xa cách anh gửi niềm thương nhớ con vào vi ệc làm chiếc lược
ngà.Anh Sáu đã dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược. Cây l ược ngà đã tr ở thành v ật
quý giá, thiêng liêng với anh, nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nh ớ
thương, mong đợi của người cha với đứa con xa cách. Nhưng một tình cảm đau thương lại đến
với cha con anh Sáu, chiến tranh đã cướp đi cuộc sống của anh, anh không k ịp trao lại cây l ược
cho đứa con bé bỏng của mình “ Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại đi ểu
gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa
cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu”, có lẽ cái nhìn của anh trước lúc hi sinh nh ư một lời trăng tr ối, lời
trăng trối đối với đứa con bé bỏng của anh, anh gửi gắm tất cả tình yêu thương để bạn nhắn với
con rằng cho đến tận lúc hi sinh anh vẫn luôn nghĩ về con, chiến tranh có thể cướp đi cuộc s ống
của anh nhưng không thể cướp đi tình cha con sâu nặng.
Câu chuyện “Chiếc lược ngà” không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng, thắm thi ết mà còn g ợi cho
người đọc bao cảm xúc xót xa.
Chiến tranh có sức tàn phá khốc liệt, hậu quả của chiến tranh len lỏi vào từng gia đình, khi ến cho
tình cảm con người bị ngăn trở, xa cách, chiến tranh khiến cho ng ười thân không nhận ra tình
phụ tử khi nhận ra thì tình phụ tử phải chia lìa. Eo le của chiến tranh gây ra cho bao nhiêu ng ười,
bao nhiêu gia đình.
Mặc dù chiến tranh đã lùi xa vài chục năm nhưng nỗi đau tinh thần vẫn luôn đeo đẳng bi ết bao
thế hệ. Vẫn còn đâu đó trên đất nước bình yên này những nỗi đau quằn quại của những nạn
nhân chất độc da cam. Vẫn còn đó những gia đình li tán, còn đó những trái bom trong lòng đất...
Biết bao giờ mới hết hậu quả của chiến tranh.
Chủ đề truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sẽ còn gợi biết bao suy ngẫm và hành động cho những
ước mơ hòa bình.
Lý giải giọt nước mắt của ông Hai trong truyện ngắn "làng" của Kim Lân
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người

nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang
những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và
thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.
“Làng” của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê
hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân
vật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác,
hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất
nước thật đặc biệt.
Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân ông
Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông cùng gia đình tản
cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của
mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như bao
người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở
giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc
kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về
những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét
những anh nào “ra vẻ ta đây” biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho
người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình
theo giặc ông sung sướng nói to với mọi người: “Toàn là sai sự mục đích cả!”.... Tất cả
những điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông
đáng yêu, đáng mến hơn.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Và
biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.


Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng,
họ mạc. Đời này qua đời.khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột
rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách
mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong

làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào
đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại
được trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu
thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một
tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về
làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh phần của viên
tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái
dinh cơ cụ thượng làng tôi.". Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng
đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả
động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi
người, là kẻ thù cùa cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch,
đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy" Bây giờ
ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong
bóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông
hào cùa làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời
làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra
hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái
làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. Ông
thấy mình như trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.". Lúc này, niềm
vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng
Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng
chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấm
nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần”
gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện
tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu.
Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện
sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm
trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn

lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâu
ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm
mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một
cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động:
"Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng
Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi
đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao ôi! Cực
nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa.
Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta
thù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm
đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên
nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ
nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà." ông Hai ăn không ngon, ngủ không
yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám
nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả
mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng
ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người
của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt
với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người
Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người
ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.".
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng
ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ... Và "nước
mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. Bao


nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện
cùng đứa con thơ dại:
Hức kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
Là con thầy mấy lị con u.

Thế nhà con ở đâu?
Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
Có.
Ông Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy
danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với
kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông,
chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
“Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ
dám đơn sai”
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm
tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về
làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng,
vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của
trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái
tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủi
cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của
ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như
người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được
khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn
lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi:

"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.,
"Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ậ. Đốt nhẵn.[... ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn
là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang
tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian" Cái tin ấy xác
nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại
được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của
mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của
ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế.
Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn
ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là bỏ mẹ chúng nó",
"không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám
đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá
hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của
người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ
ngữ chưa hiếu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng


nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông
hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đả vận dụng những hiểu biết đó hết
sức khéo léo vào việc xáy dựng tâm lí, hành dộng, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn
giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật
nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi
ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu
quê hương đất nước”. Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình
yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là
biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng
chiến chống Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một

ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung
của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị,
một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui
mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà
vàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó
trong Làng rồi thì phải.
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người
nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang
những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và
thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945
I. Đặc điểm cơ bản
1. Nền VH được hiện đại hoá
a. Hoàn cảnh xã hội mới, văn hóa mới của văn học
- Thực dân Pháp đẩy mạnh 2 cuộc khai thác thuộc địa: lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai
(1919 - 1929). Cơ cấu XH có những biến đổi sâu sắc: Giai cấp phong kiến mất dần địa vị thống
trị. Nông dân bị bần cùng hóa. Tầng lớp tiểu tư sản đông dần lên. Giai cấp vô sản xuất hi ện. Giai
cấp tư sản ra đời. Xã hội Việt Nam bị phân hóa dữ dội.
- Chế độ thực dân nửa phong kiến.
- Từ 1940 - 1945, Pháp 2 lần bán nước ta cho pháp xít Nhật.
- Đô thị hoá nhanh chóng, xuất hiện nhiều tầng lớp xã hội mới: tư sản, tiểu tư sản, công nhân,
dân nghèo thành thị…
- Nhân vật trung tâm trong đời sống văn hoá là tầng lớp trí thức Tây học, ch ịu ảnh h ưởng sâu
sắc các trào lưu tư tưởng văn hoá văn học phương Tây.
- Nhu cầu văn hoá ngày càng cao. Nghề in, xuất bản, làm báo phát triển khá mạnh. Viết văn tr ở
thành nghề kiếm sống.
Hoàn cảnh lịch sử nói trên đòi hỏi VH phải nhanh chóng hiện đại hoá.
b. Quá trình hiện đại hoá
- Giai đoạn một:
+ Chuẩn bị các điều kiện vật chất cần thiết cho công cuộc hiện đại hoá: Chữ quốc ngữ ngày càng

phổ biến, báo chí, dịch thuật phát triển…
+ Thành tựu HĐH chỉ mới ở một số truyện kí. Nghệ thuật còn hạn chế.
+ Chủ yếu là thơ văn của các chí sĩ cách mạng: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…
- Giai đoạn hai: Những năm hai mươi: Đây là giai đoạn quá độ, giao thời.
Quá trình HĐH đạt nhiều thành tựu lớn
- Văn xuôi ghi được thành tựu ban đầu của các tên tuổi: Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hoàng
Ngọc Phách… ở ngoài Bắc, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình… ở trong Nam. Tiểu thuyết “Tố Tâm” của
Hoàng Ngọc Phách như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của tiểu thuyết và văn chương lãng
mạn Việt Nam.
- Về thơ ca thì có thi sĩ Tản Đà và Trần Tuấn Khải. Tản Đà là nhà thơ “của hai thế kỷ”. Trần Tuấn
Khải với cảm hứng yêu nước, với chất dân ca, đậm đà hồn dân tộc.


- Kịch nói với Vũ Đình Long, Nam Xương…
- Thơ văn yêu nước và cách mạng có thêm những cây bút mới như Trần Huy Li ệu, Phạm Tất
Đắc, đặc biệt là truyện kí rất hiện đại của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp.
Tóm lại, cả thơ và văn xuôi đã có dấu hiệu phân chia khuynh hướng sáng tác theo kiểu lãng mạn
và hiện thực.
- Giai đoạn ba: Từ năm 1930-1945
VH được HĐH và cách tân trên mọi lĩnh vực. các thể loại phát triển mạnh mẽ
- Văn thơ yêu nước, thành tựu nổi bật là “Từ ấy” (1937-1946) của Tố Hữu và “Nhật ký trong tù”
của Hồ Chí Minh.
- Văn học hiện thực xuất hiện nhiều cây bút thực sự tài năng: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… “Số đỏ” và “Chí Phèo” là hai kiệt tác.
- Văn học lãng mạn - Thơ mới (1932-1941) được đánh giá là “một thời đại thi ca” với một l ớp thi
sĩ tài hoa như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn
Mặc Tử, v.v… Tiểu thuyết lãng mạn với tên tuổi các nhà văn xuất sắc: Khái Hưng với Nửa chừng
Xuân, Nhất Linh với Đoạn tuyệt, Thạch Lam với Gió đầu mùa, Nguyễn Tuân với “Vang bóng một
thời”v.v…
2. Nhịp độ phát triển mau lẹ(số lượng, cách tân, trưởng thành, kết tinh tài năng…)

Vũ Ngọc Phan: “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như ba mươi năm của người”. Vì sao vậy?
- Yêu cầu thúc bách của thời đại(như đã nói ở trên).
- Sức sống mãnh liệt của dân tộc và tiếng Việt.
- Tác động của các cuộc vận động cách mạng theo tinh thần dân chủ từ đầu TK đến 1945
- Đóng góp của các tài năng, của tầng lớp trí thức Tây học. Họ tìm thấy ở nghề văn lẽ sống và cơ
hội bày tỏ tấm lòng chung thuỷ của mình đối với đất nước, tổ tiên.
- Văn chương trở thành hàng hoá, viết văn trở thành một nghề kiếm sống.
3. Sự phân hoá phức tạp thành nhiều xu hướng văn học
Sự khác nhau về quan điểm nghệ thuật và khunh hướng thẩm mĩ và thái độ chính trị đối với chủ
nghĩa thực dân và quan điểm về mối quan hệ giữa văn học và chính trị của người cầm bút dẫn
đến sự phận hoá VH thành hai bộ phận:
a. Bộ phận VH hợp pháp:
- Tuy có tính dân tộc và chứa đựng những yếu tố tư tưởng lành mạnh, tiến bộ nhưng nó không
có ý thức cách mạng và tinh thần chống đối trực tiếp chế độ thực dân. Có đóng góp mang ý
nghĩa quyết định đối với quá trình HĐH.
- Do có sự khác biệt về khuynh hướng nghệ thuật nên phân hoá thành hai xu h ướng chính:
+ Xu hướng lãng mạn chủ nghĩa: thể hiện trực tiếp và sâu sắc cái tôi trữ tình tràn đầy cảm xúc,
phát huy cao độ trí tưởng tưởng để diễn tả những khát vọng, ước mơ của cá nhân.
+ Xu hướng HTCN chú trọng diễn tả, phân tích, lí giải hiện thực XH với thái độ phê phán trên tinh
thần dân chủ và nhân đạo.
b. Bộ phận VH bất hợp pháp và nửa hợp pháp:
- Đây là sáng tác của những nhà văn-chiến sĩ
- Phác hoạ được hình tượng cao đẹp: người chiến sĩ-nhân vật tiên tiến của thời đại: yêu nước,
căm thù bọn cướp nước và bán nước, hiên ngang, bất khuất, mang lí tưởng m ới của thời đại, lạc
quan chiến thắng
- Hạn chế về nghệ thuật
II. Thành tựu VH
1. Về nội dung, tư tưởng
a. Chủ nghĩa yêu nước(phát huy truyền thống)
Phan Bội Châu: Dân là dân nước, nước là nước dân

Nguyễn Ái Quốc-HCM và các nhà văn vô sản gắn CNYN với lí tưởng XHCN
Trong VH hợp pháp: yêu nước là yêu tiếng Việt, ghi lại những cảnh sắc, phong tục tập quán của
quê hương.
Chủ nghĩa nhân đạo mang nội dung mới: đối tượng VH là những con người bình thường trong
XH, là tầng lớp khổ cực, lầm than;
b. Tinh thần dân chủ(đóng góp mới)đem đến cho truyền thống nhân đạo những khía cạnh nội
dung mới:
- Đối tượng chủ yếu của VH là những con người bình thường trong XH đặc bi ệt là các tầng lớp
nhân dân cực khổ, lầm than.


- Sự thức tỉnh ý thức cá nhân của người cầm bút. Họ đấu tranh chống lễ giáo phong kiến hà
khắc để giành quyền hưởng hạnh phúc cá nhân, thể hiện khát vọng sống của con người, không
chấp nhận một cuộc sống tù túng, vô nghĩa, nô lệ…
- Chủ nghĩa anh hùng mang nội dung mới: vai trò của nhân dân, lí tưởng c ộng sản, tinh thần
quốc tế vô sản.
2. Về hình thức thể loại và ngôn ngữ VH
- Các thể loại phát triển mạnh đặc biệt là truyện ngắn và thơ ca
- Ngôn ngữ VH đạt trình độ cao, hiện đại
"Trở về với mẹ ta thôi" - của Đông Đức Bốn
Hy vong chúng ta làm được mẹ vui long nhiều hơn nữa.
1.
Cả đời ra bể vào ngòi
Mẹ như cây lá giữa trời gió rung
Cả đời buộc bụng thắt lưng
Mẹ như tằm nhả bỗng dưng tơ vàng
Đường đời còn rộng thênh thang
Mà tóc mẹ đã bạc sang trắng trời
Mẹ đau vẫn giữ tiếng cười
Mẹ vui vẫn để một đời nhớ thương

Bát cơm và nắng chan sương
Đói no con mẹ xẻ nhường cho nhau
Mẹ ra bới gió chân cầu
Tìm câu hát đã từ lâu dập vùi.
2.
Chẳng ai biết đến mẹ tôi
Bạc phơ mái tóc bên trời hoa mơ
Còng lưng gánh chịu gió mưa
Nát chân tìm cái chửa chưa có gì
Cần lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.
3.
Mẹ mua lông vịt chè chai
Trời trưa mưa nắng đôi vai lại gầy
Xóm quê còn lắm bùn lầy
Phố phường còn ít bóng cây che đường
Lời rào chim giữa gió sương
Con nghe cách mấy thôi đường còn đau.
4.
Giữa khi cát bụi đầy trời
Sao mẹ lại bỏ kiếp người lầm than
Con vừa vượt núi băng ngàn
Về nhà chỉ kịp đội tang ra đồng
Trời hôm ấy chửa hết giông
Đất hôm ấy chẳng còn bông lúa vàng
Đưa mẹ lần cuối qua làng
Ba hồn bảy vía con mang vào mồ
Mẹ nằm như lúc còn thơ
Mà con trước mẹ già nua thế này.
5.

Trở về với mẹ ta thôi
Giữa bao la một khoảng trời đắng cay
Mẹ không còn nữa để gầy
Gió không còn nữa để say tóc buồn
Người không còn dại để khôn
Nhớ thương rồi cũng vùi chôn đất mềm
Tôi còn nhớ hay đã quên
Áo nâu mẹ vẫn bạc bên nắng chờ
Nhuộm tôi hồng những câu thơ


Tháng năm tạc giữa vết nhơ của trời
Trở về với mẹ ta thôi
Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ.
Thuyết minh truyện ngắn " Chiếc Lá cuối cùng"
Truyện ngắn là một hình thức tự sự loại nhỏ, dung lượng ngắn, có cốt truyện và ít nhân vật, miêu
tả một khía cạnh, tính cách, một mảnh trong cuộc đời nhân vật. Tuy là truyện ngắn nh ưng nó đề
cập đến những vần đề lớn lao trong cuộc sống như truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O Hen - ri
trong chương trình Ngữ văn 8. Một tác phẩm đặc sắc đã để lại trong lòng người đọc những nỗi
niềm trăn trở…
O Hen-ri sinh năm 1862 mất năm 1910 là nhà văn Mĩ chuyên viết truyện ngắn. Truyện của ông
nổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái k ết bất ng ờ và khéo léo. Nh ững
truyện của O Hen-ri thường nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả, tình th ương
yêu người nghèo khổ, rất cảm động. Được bạn đọc yêu thích hơn cả như: Căn gác xép, Tên
cảnh sát và gã lang thang, Quà tặng của các đạo sĩ,… và “kiệt tác” Chiếc lá cuối cùng.
Chiếc lá cuối cùng là một trong những truyện ngắn hay nhất của O Hen-ri. Câu chuy ện k ể v ề Xiu,
Giôn-xi và cụ Bơ-men – những họa sĩ nghèo cùng sống trong một căn hộ thuê gần công viên Oasinh-tơn. Giôn-xi bị bênh viêm phổi khá nặng, cô thấy tuyệt vọng và tin rằng khi chiếc lá cu ối
cùng của cây thường xuân cạnh cửa sổ rụng xuống, cô cũng sẽ lìa đời. Kì diệu thay, sau m ột
đêm mưa bão khủng khiếp, chiếc lá ấy vẫn dũng cảm bám vào cành cây bằng sự kiên c ường
mãnh liệt. Điều đó đã khiến Giôn-xi thay đổi ý nghĩ về cái chết của mình, cô không còn muốn

chết nữa mà đã lạc quan, vui vẻ và có niềm tin vào cuộc sống hơn. Qua lời kể của Xiu, Giôn-xi
mới biết rằng chiếc lá ấy là do cụ Bơ-men đã vẽ vào ngay cái đêm mà chiếc lá cuối cùng rụng
xuống, trong khi đó, để cứu sống Giôn-xi, cụ Bơ-men đã hi sinh mạng sống của mình.
Điều gì đã khiến chiếc lá cuối cùng vẫn còn đấy, vẫn đeo bám vào cây dây leo mỏng manh mặc
cho mưa gió trút xuống? Điều gì đã khiến Giôn-xi – con người tàn nhẫn có ý nghĩ quái gở ấy lấy
lại niềm tin vào cuộc sống? Phải chăng tất cả đều là một phép màu? Vâng! Đúng là có phép
màu, không phải phép màu nhiệm xảy ra ở trong truyện cổ tích mà ta thường đọc, cũng không
phải do ông tiên hay thần linh nào ban tặng mà đó là phép màu của tình yêu thương. Chính c ụ
Bơ-men - con người có tình yêu thương, giàu đức hi sinh cao cả ấy đã làm cho chiếc lá vẫn còn
mãi, vẫn tươi xanh mặc bao giông gió vùi dập phũ phàng. Chiếc lá vẫn đeo bám lấy sự sống để
Giôn-xi thấy rằng: cuộc sống này đáng quý biết bao! Đáng trân trọng bi ết bao! Tại sao lại không
yêu quý, trân trọng từng phút giây được sống mà lại đặt cược mạng sống của mình vào những
chiếc lá thường xuân? “Kiệt tác” của cụ Bơ-men cũng đã cho Giôn-xi biết rằng: cô đã quá y ếu
đuối, tệ bạc với cuộc đời và chính bản thân mình. Xiu cũng là một nhân vật đáng ca ngợi, m ột cô
gái với tình bạn cao đẹp, chung thủy, hết lòng với Giôn-xi. Dù hoàn cảnh cũng nghèo khó nh ưng
cô luôn động viên Giôn-xi chiến thắng bệnh tật, khát khao sống với cu ộc đời. Từ hi ện th ực đầy
rẫy những bất công vô lý, đem đến bao bất hạnh cho những con người nghèo kh ổ, nhà văn luôn
khơi dậy được vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật qua tình huống truyện thật bất ngờ và cảm động.
Thành công của “Chiếc lá cuối cùng” còn phải kể đến tài năng viết truyện điêu luy ện của O Hen-ri
đặc biệt là nghệ thuật đảo ngược tình huống hai lần và việc kể, tả tâm trạng nhân vật. O Hen-ri
đã rất khéo léo trong việc lựa chọn ngôi kể thứ ba để có thể kể hết câu chuyện của nhân vật m ột
cách khách quan, biểu thị thái độ đánh giá, bộc lộ các khía cạnh khác nhau cùa từng nhân vật.
Truyện được xây dựng theo kiểu có nhiều tình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và khéo léo khiến
người đọc bị lôi cuốn vào câu chuyện một cách say mê, hứng thú. Kết thúc truyện thật bất ngờ
khiến cho người đọc phải ngẫm nghĩ rất nhiều về sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men mà Giôn-xi lại
không phản ứng gì thêm, tạo sự dư âm cho truyện ngắn đặc sắc này.
Chiếc lá cuối cùng là một tác phẩm có giá trị cao đối với nền văn học thế giới. Một truy ện ngắn
gởi thông điệp đến mọi người quan niệm về nghệ thuật và tình người thật đẹp trong cuộc sống :
Đó chính là người nghệ sĩ phải sáng tạo ra những tác phẩm không chỉ bằng tài năng mà bằng cả
trái tim. Một trái tim chan chứa tình yêu thương giữa con người với con người. D ư âm của câu

chuyện sẽ mãi lắng đọng trong tâm trí ngưởi đọc xoay quanh chiếc lá cuối cùng – một “kiệt tác
nghệ thuật” của O Hen-ri.


Hiếm có một truyện ngắn nào mang một sức sống mãnh liệt và để lại nhiều cảm xúc như “Chiếc
lá cuối cùng” của O Hen – ri. Có lẽ chất triết lý trong truyện ngắn đã tạo nên v ẽ đẹp trường tồn và
chính vì thế, “chiếc lá” ấy còn mãi với thời gian.
ó bạn nào muốn add nói nhiều hơn về Nguyên Duy, quả thực mình cũng rất thích thơ Nguy ễn
Duy nó nhẹ nhàng nhưng rất thâm thúy, ý tứ. Đọc " Ánh Trăng" để thấymột tâm hồn đầy sự trải
nghiệm , bài " Tre Việt Nam" giúp cây tre gắn liền với phẩm chất, hình ảnh người Việt Nam.
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là ph ường
Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội
dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân
Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây
của bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh,
Đường 9 - Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam, biên giới phía Bắc (năm 1979). Sau đó
ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của
báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm
1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời
vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997
ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm l ịch th ơ, in thơ lên các
chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhi ều thơ trên giấy dó. Ông đã
biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài th ơ thi ền thời Lý, Tr ần
do ông chọn lọc) khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, d ịch nghĩa và dịch th ơ
tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.
Nguyễn Duy được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Tác phẩm chính[
Thơ
Cát trắng (1973)

Ánh trăng (1978)
Đãi cát tìm vàng (1987)
Mẹ và em (1987)
Đường xa (1989)
Quà tặng (1990)
Về (1994)
Bụi (1997)
Thơ Nguyễn Duy(2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ông)
Thể loại khác
Em-Sóng (kịch thơ - (1983)
Khoảng cách (tiểu thuyết - 1986)
Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký - 1986)
Thành tựu nghệ thuật
Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì th ế
cứ ngấm vào người đọc và trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải gi ật mình suy nghĩ,
nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta
xưa, Đò Lèn, Sông Thao,.... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một th ể th ơ có cảm
giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo
phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt ch ẽ. Nguyễn Duy được
giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt
nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt nam.
Nguyễn Duy còn có bộ 3 bài thơ theo thể tự do nổi tiếng được công chúng bi ết t ới viết về những
trăn trở, suy nghĩ của ông về tương lai đất nước, tương lai của con người và môi sinh. Bài thơ
đầu mang tên Đánh thức tiểm lực viết từ năm 1980 đến 1982 với những suy tư về tiềm lực và
tương lai của đất nước. Bài thơ thứ hai được viết lúc ông đến thăm Liên Xô và đến năm 1988
mới hoàn thành mang tên "Nhìn từ xa...Tổ quốc". Bài thơ viết về những trì trệ, bất cập mà ông
mắt thấy tai nghe trong thời kì bao cấp, với những câu thơ rất mạnh mẽ, "như những nhát dao
cứa vào lòng người đọc" (Lê Xuân Quang). Bài thơ thứ 3 viết sau đó chục năm, mang tên Kim,



Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vẫn cùng thi pháp với 2 bài thơ trước nhưng chủ đề lại rộng hơn: những
suy nghĩ về thiên nhiên, không gian và tương lai con người.[1]
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói như sau: "Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn
thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang đó."



×