Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Kiểm soát ô nhiễm không khí nhà máy thu gom xử lý rác thải lưu QUANG dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.57 KB, 29 trang )

LƯU QUANG DÂN
lớp KHMT-K11B
MÃ SV: DTZ1354403010087
MÔN: KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
ĐỀ TÀI: Kiểm soát ô nhiễm không khí từ các quy trình
công nghệ xử lý rác thải tại bãi rác Xuân Sơn thị xã Sơn
Tây huyện Ba Vì

GVHD: Ths Nguyễn Thị Nhâm Tuất


LỜI MỞ ĐẦU
Chất thải sinh hoạt, rác thải nói chung phát sinh từ các hoạt động của con người
ngày càng gia tăng cùng với sự phát triển dân số và kinh tế, đặc biệt là trong xã hội
công nghiệp. Cùng với các dạng chất thải như nước thải và khí thải, chất thải rắn
không được quản lý và xử lý nghiêm túc sẽ có khả năng gây suy thoái môi trường và
ảnh hưởng tới sức khỏe con người nghiêm trọng. Do đó, chất thải sinh hoạt, rác thải
nói chung đã trở thành vấn đề bức xúc đối với toàn xã hội và cần được sự quan tâm
hiệu quả về kỹ thuật lẫn kinh tế. Vì vậy, quản lý và xử lý chất thải sinh hoạt cần được
quan tâm chu đáo, cải tiến công nghệ theo thời gian.
Chính lý do đó, em tiến hành tìm hiểu về “Kiểm soát ô nhiễm không khí từ các
quy trình công nghệ xử lý rác thải tại bãi rác Xuân Sơn thị xã Sơn Tây huyện Ba
Vì ” bao gồm giới thiệu về các công nghệ thu hồi và tái chế rác, các thiết bị xử lý cơ
học, công nghệ sử dụng nhiệt, các quá trình xử lý sinh học rác thải và các công nghệ
cải tiến hiện nay.
Nhằm chủ động hơn trong việc cập nhật các thiết bị và công nghệ mới, nâng cao
nhận thức và hiểu biết về vấn đề ô nhiễm không khí và bảo vệ môi trường hiện nay.


CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU CÁC QUI TRÌNH XỬ LÝ PHÁT SINH RA CHẤT Ô NHIỄM


1.1 QUY TRÌNH ĐỐT
Hầu hết các phương pháp xử lý, lưu trữ và loại bỏ điều liên quan đến công nghệ
đốt – tức việc đốt cháy các chất một cách có kiểm soát ở trong một miền kín – như
một phương tiện xử lý và thải loại chất thải nguy hại. Là một phương thức quản lý
chất thải nguy hại, công nghệ đốt có một số đặc thù:
Thứ nhất, nếu được tiến hành đang theo qui cách, nó có khả năng phân hủy toàn
bộ các độc chất hữu cơ trong chất thải nguy hại bằng cách phân hủy các mối liên kết
hóa học của chúng và đưa chúng trở lại dạng các nguyên tố hợp thành ban đầu, qua đó
làm giảm thiểu hoặcloại bỏ hoàn tòan các độc tính của chúng.
Thứ hai, nó hạn chế thể tích của chất thải nguy hại cần phải được thải loại bỏ vào
môi trường đất bằng cách biến đổi các chất rắn và lỏng thành dạng tro. So với việc
loại thải bỏ chất thải nguy hại không qua xử lý, việc thải bỏ loại tro vào môi trường
đất an toàn và hiệu quả gấp nhiều lần.
Công nghệ đốt là một quá trình xử lý khá phức tạp. Trong quá trình cháy, các
chất hữu cơ dạng rắn hoặc lỏng sẽ bị chuyển đổi sang pha khí. Các khí này qua các
lưới đốt sẽ tiếp tục bị làm nóng lên, đến một nhiệt độ nào đó các hợp chất hữu cơ của
chúng sẽ bị phân hủy thành các nguyên tử thành phần. Các nguyên tử này kết hợp với
oxy và tạo nên các chất khí bền vững, các khí này sau khi qua các thiết bị kiểm soát ô
nhiễm sẽ được thải vào bầu khí quyển.
Thành phần của các chất khí bền vững phát sinh từ việc đốt các hợp chất hữu cơ
chủ yếu là CO2 và hơi nước. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thành phần của rác thải chủ yếu
là rác thải sinh hoạt và chất thải rắn, một lượng nhỏ CO, NOx, HCl và các khí khác có
thể sẽ được hình thành. Các chất khí này là nguyên nhân tiềm ẩn khả năng gây nguy
hại cho sức khỏe con người và môi trường.
Việc quản lý và thải loại bỏ các kim loại, tàn tro và các sản phẩm phụ của quá
trình đốt cũng có thể gây những tác hại như đã đề cập. Tàn tro là một vật liệu dễ lắng,
tro với thành phần chủ yếu là carbon, các muối và các kim loại. Trong quá trình đốt,


hầu hết tàn tro sẽ tập trung ở đáy của buồng đốt (tro đáy). Khi lớp tro này được lấy ra

khỏi buồng đốt nó có thể xem như là chất thải nguy hại do bởi các qui tắc chuyển hóa
hoặc do nó có 1à đặc tính (nguy hại) nào đó. Tuy nhiên các hạt tro kích thước nhỏ (vật
chất dạng hạt m có thể có các kim loại kèm theo) cũng sẽ bị cuốn theo các chất khí lên
cao (còn gọi là tro bay). Các hạt tro này cùng các kim loại có liên quan cũng phải
được xem xét bởi các qui định áp dụng cho công nghệ đốt bởi vì chúng có thể mang
các hợp phần nguy hại ra khỏi hệ thống thiết bị vào trong khí quyển. Do việc đốt
không phân hủy được các hợp chất vô trong chất thải nguy hại (các kim loại chẳng
hạn), các hợp chất này có thể cũng sẽ tích tụ trong lớp tro đáy và tro bay với nồng độ
có hại.
Hệ thống lò đốt chất thải nguy hại được tiến hành theo quy trình sau:
Công nghệ thiêu đốt phổ biến sử dụng lò đốt thùng quay. Công nghệ lò đốt thùng
quay như sau: Chất thải nguy hại được vận chuyển đến lò đốt bằng các thiết bị chuyên
dùng. Sau quá trình vận hành lò đốt đến nhiệt độ cho phép( buồng sơ cấp 800 oC), chất
thải được đưa vào buồng sơ cấp. Thời gian lưu của chất thải trong lò đốt từ 0,5
-1,5giờ, lượng chất thải nạp vào chiếm khoảng 20% thể tích của lò. Nhiệt độ trong
buồng sơ cấp duy trì 800 -900 oC. Sản phẩm khí sinh ra trong quá trình đốt ở lò sơ cấp
được đốt tiếp tục ở buồng thứ cấp, nhằm đốt triệt để các sản phẩm bay hơi, chưa cháy
hết ở buồng sơ cấp. Nhiệt độ trong buồng thứ cấp khoảng 110 oC, thời gian lưu của khí
cháy trong buồng thứ cấp 1,5 -2 giấy. Toàn bộ khí thải sinh ra được làm nguội và xử
lý trước khi qua ống khói thải ra môi trường.


Hình 1 Sơ đồ lồ đốt thùng quay

1.2 QUI TRÌNH CHÔN LẤP
*Quy trình chôn lấp chất thải sinh hoạt:
Rác tập kết vào ô chôn lấp: Rác tập kết vào ô chôn lấp theo phương pháp đổ lấn
(ô chôn rác) bề ngang của ô chôn rác. Theo trình tự vận hành từng ô chôn lấp.



Đổ rác thải vào ô chôn lấp: Đổ rác vào ô chôn lấp theo sự điều động của nhân
viên hướng dẫn bãi.



San gạt rác: San gạt rác để tránh ùn tắc rác cho việc tiếp nhận các ngày tiếp
theo bằng xe ủi xích. Khi rác tập kết hằng ngày tiến hành san gạt thành từng
lớp chiều dày 60cm, dung trọng đầm nén 750 kg/m3.




Bổ xung VSV: Sau 1 ngày tiến hành phun VSV, EM hoặc Eemunis hoặc các
chế phẩm sinh học khác được phép lưu hành theo định mức 0,1lit VSV/1tấn rác
0,1 kg Bokasi (VSV dạng bột) việc phun VSV pha chế với nước sạch được
điều chỉnh theo tỷ lệ 1/20 (1 lít VSV pha với 20 lít nước sạch). Tuy nhiên phải
điều chỉnh tỷ lệ nước sạch phù hợp với độ ẩm của rác (theo thời tiết).


Phủ đất: Tiến hành phủ đất trung gian trên bề mặt khi rác đã được đầm

nén chiều dày khoảng 2m. Chiều dày lớp đất phủ sau khi đầm nén 15-20 cm.
Đất phủ có hàm lượng hạt sét >30%.
Quá trình trên được thực hiện cho đến khi rác trong ô chôn đạt đến chiều dày
thiết kế sẽ tiến hành phủ bề mặt ô chôn.
*Quy trình chôn lấp chất thải nguy hại
Chất thải nguy hại được vận chuyển vào bãi chôn lấp bằng các thiết bị chuyên
dùng, được phân loại, đóng gói trước khi đưa vào ô chôn.
Chất thải nguy hại được sắp xếp vào ô chôn bằng hệ thống cẩu di động (tời) gắn
cùng với mái che di động.

Công tác đầm nén được thực hiện bằng các xe chuyên dụng hoặc sử dụng đầm
nện. Sau mỗi lớp chất thải nguy hại dày khoảng 1m (tối đa 2m) thì tiến hành che phủ
bằng lớp đất với chiều dày sau khi đầm nén 15 -20 cm nhằm cách ly chất thải nguy hại
với môi trường xung quanh.
Quá trình chôn lấp được thực hiện cho đến khi toàn bộ ô chôn chất thải đạt đến
chiều dày thiết kế sẽ tiến hành che phủ bề mặt.


Bãi chôn lấp kỵ khí

Phân loại cấu trúc bãi chôn lấp

Bãi chôn lấp kỵ khí vệ sinh

Bãi chôn lấp kỵ khí vệ sinh
Cải tiến

Bãi chôn lấp nửa
hiếu khí

ống thu
nước rỉ rác

Bãi chôn lấp hiếu khí

Hình 2 Phân loại cấu trúc bãi chôn lấp


1.3 QUY TRÌNH Ủ (COMPOST)
Rác sinh hoạt được phân loại, tách ra các phần riêng biệt là phần hữu cơ và phần

trơ không sản xuất phân compost như: nylon, giấy, sắt thép...Rác sau khi tách chất trơ
được cắt nhỏ trước khi cho qua hệ thống ủ phân. Hệ thống ủ gồm nhiểu bể ủ song
song, dưới đáy mỗi bể đều có ba rãnh phân phối không khí chạy song song nhau.
Mùn compost được tạo thành từ hệ thống bể ủ tiếp tục được đưa đi ủ chín trong
nhà có mái che.Mùn compost sau khi ủ chín và ổn định còn lẫn nhiều tạp chất, sơ sợi
chưa phân hủy được đưa qua máy sàng để loại bỏ các thành phần chưa phân hủy hết.
Mùn compost được đóng bao thành phầm, phân trơ được đem đi chôn lấp hợp vệ sinh.
Hệ thống gồm 8 hầm ủ hoai xây nổi, chia thành 2 dãy đối diện nhau, mỗi dãy có
4 hầm, mỗi hầm dài 7m, rộng 1,5m, cao 1,5m có thể chứa khoảng 15 m3 rác. Đáng lưu
ý là tường hầm xây bằng gạch thẻ chừa ô trống, trừ tường ở phía lối đi xây kín, lắp
cửa bằng gỗ rộng khoảng 0,7 m. Ở giữa mỗi hầm theo chiều dọc, đặt 7 ống nhựa cứng
đường kính 100 mm, cách nhau chừng 0,8m có đục lỗ xung quanh để trao đổi khí bên
trong và ngoài hầm. Tại mỗi hầm có gắn biểu đồ theo dõi nhiệt độ từ ngày thứ 1 cho
đến ngày thứ 50, tương ứng với dãi nhiệt độ từ 25 0C đến 750 C. Ở đáy các hầm ủ còn
lót cây tạo khoảng hở để nước thải trong hầm dễ dàng thoát ra bên ngoài, rồi theo các
mương nổi trên mặt đất nối với hệ thống mương ngầm đến hầm chứa tập trung, xây
chìm có sức chứa khoảng 10 m3.
Rác được thu gom từ các hộ gia đình, trường học, chợ, và một số doanh nghiệp.
Rác được thu gom rồi vận chuyển bằng xe ba gác máy về xưởng để tiến hành phân
loại. Rác không phân hủy được như bì ny lon, sắt, nhôm, nhựa, giấy các tông, chai, lọ,
lon các loại... được lựa ra để bán phế liệu, còn lại rác hữu cơ cho vào thùng nhựa, đổ
vào hầm ủ hoai. Khi rác đạt độ cao 40 cm thì tiến hành tưới rác bằng nước thải được
bơm lên từ hầm chứa tập trung để tạo độ ẩm và hạn chế khoảng trống trong hầm, sau
đó phun chế phẩm sinh học EM khử mùi hôi. Sau khi tưới rác, nước sẽ chảy trở lại
vào hầm chứa tạo nên một chu trình khép kín nên nước thải không thể rò rỉ ra môi
trường bên ngoài, đảm bảo vệ sinh môi trường sản xuất và xung quanh.
Sau 40 ngày ủ hoai, rác được chuyển qua khu vực ủ chín thêm 10 ngày nữa,
trong thời gian ủ chín có thể che bạt hoặc không tùy vào thời tiết mỗi ngày. Sau đó



compost được trải mỏng, đảo khô rồi chuyển qua công đoạn sàng, đóng bao. Phần còn
lại trên sàng được chuyển qua khu vực riêng để tiếp tục phân loại như lần đầu. Việc
phân loại sẽ lặp đi lặp lại liên tục trong suốt quá trình sản xuất.

CHƯƠNG II:
ĐẶC TRƯNG MỘT SỐ CHẤT KHÍ Ô NHIỄM TỪ CÁC QUI TRÌNH XỬ LÝ
2.1. NƯỚC RỈ RÁC
Nước rỉ rác (còn gọi là nước rác) là nước bẩn thấm qua lớp rác của các ô chôn
lấp, kéo theo các chất ô nhiễm từ rác chảy vào tầng đất ở dưới bãi chôn lấp.
Sự có mặt của nước trong bãi chôn lấp rác có cả mặt tích cực lẫn tiêu cực cho
hoạt động của bãi rác. Nước rất cần cho quá trình hóa học và sinh học xảy ra trong bãi
chôn lấp để phân hủy rác. Mặt khác, nước có thể tạo ra xói mòn trên tầng đất nén và
những vấn đề lắng đọng trong dòng nước mặt chảy qua. Nước rác có thể chảy vào các
tầng nước ngầm và các dòng nước sạch và từ đó gây ô nhiễm đến nguồn nước uống.
Vì vậy vấn đền cần quan tâm khi thiết kế, xây dựng cho hoạt động của một bãi chôn
lấp là kiểm soát nước rác.
Quá trình hình thành nước rác: nước rác được hình thành khi nước thấm vào ô chôn
lấp.
Nước có thể thấm vào rác theo một số cách sau đây:
-

Nước sẵn có và tự hình thành khi phân hủy rác hữu cơ trong bãi chôn lấp.

-

Mực nước ngầm có thể dâng lên vào các ô chôn rác.

-

Nước có thể rỉ vào qua các cạnh (vách) của ô rác.


-

Nước từ khu vực khác chảy qua có thể thấm xuống các ô chôn rác.


-

Nước mưa rơi xuống khu vực bãi chôn lấp rác trước khi được phủ đất và trước
khi ô rác đóng lại.

-

Nước mưa rơi xuống khu vực bãi chôn lấp sau khi ô rác đầy (ô rác được đóng
lại).
Nước có sẵn trong rác thải là nhỏ nhất. Nước từ những khu vực khác chảy qua

bãi chôn lấp cần phải thu gom bằng hệ thống thoát nước. Hệ thống thoát nước không
chỉ bảo vệ những khu vực chôn lấp rác khỏi bị xói mòn trong thời gian hoạt động mà
còn tiêu thoát lượng nước thừa ngấm vào các ô rác và tạo ra nước rác. Nước mưa là
không có cách nào để ngăn chặn không cho chảy vào ô rác. Có thể hạn chế được
lượng nước mưa ngấm vào ô rác bằng cách trồng lại thảm thực vật sau khi bãi đóng
cửa.
Thành phần của nước rác: việc tổng hợp và đặc trưng hóa thành phần nước rác là
rất khó vì một loạt các điều kiện tác động lên sự hình thành của nước rác. Thời gian
chôn lấp, khí hậu, mùa, độ ẩm của bãi rác, mức độ pha loãng với nước mặt và nước
ngầm là loại rác chôn lấp, tất cả đều tác động lên thành phần của nước rác. Các số liệu
tiêu biểu về thành phần và tính chất nước rác từ các bãi chôn lấp mới và lâu năm được
trình bày ở bảng sau:
Bảng 1: Các số liệu tiêu biểu về thành phần và tính chất nước rác từ các bãi chôn lấp

mới và lâu năm.
Thành phần

Nhu cầu oxy hóa

Bãi mới (dưới 2 năm)

Bãi lâu năm (trên

Khoảng

Trung bình

10 năm)

2.000-20.000

10.000

100-200

1.500-20.000

6.000

80-160

3.000-60.000

18.000


100-500

sinh hóa (BOD5),
mg/l
Tổng lượng cacbon
hữu cơ (TOC),mg/l
Nhu cầu oxy hóa
học (COD), mg/l


Tổng chất rắn lơ

200-2.000

500

100-400

Nitơ hữu cơ, mg/l

10-800

200

80-120

Ammoniac, mg/l

10-800


200

20-40

5-40

25

5-10

5-100

30

5-10

4-80

20

4-8

1.000-10.000

3.000

200-1.000

4,5-7,5


6,0

6,6-7,5

Canxi, mg/l

50-1.500

250

50-200

Clorua, mg/l

200-3.000

500

100-400

50-1.200

60

20-200

50-1.000

300


20-50

lửng (TSS), mg/l

Nitrat, mg/l
Tổng

lượng

photpho, mg/l
Othophotpho, mg/l
Độ

kiềm

theo

CaCO3
pH

Tổng

lượng

sắt,

mg/l
Sunphat,mg/l


Như vậy sự hình thành khí và nước rác trong quá trình chôn lấp là những mối
quan tâm lớn trong công tác vận hành và quản lý các bãi chôn lấp ở các đô thị.
Thành phần của nước rác thay đổi theo các giai đoạn khác nhau của quá trình
phân hủy sinh học. Sau giai đoạn háo khí (một vài tuần), tiếp đến là hai giai đoạn phân
hủy: gai đoạn phân hủy yếm khí tùy tiện tạo ra axit và giai đoạn phân hủy yếm khí
tuyệt đối tạo ra khí metan.
Trong giai đoạn tạo axit các hợp chất đơn giản được hình thành như axit béo,
amino axit và carboxylic axit. Giai đoạn axit có thể kéo dài vài năm sau khi chôn lấp,
phụ thuộc vào bản chất không đồng nhất của rác. Đăc trưng của rác trong giai đoạn
này là:
-

Nồng độ cao các axit béo dễ bay hơi


-

pH nghiêng về tính axit

-

BOD cao

-

Tỷ lệ BOD/COD cao

-

Nồng độ NH4 và nitơ cao


2.2. KHÍ PHÁT SINH
Các bãi chôn lấp là nguồn tạo ra khí sinh học mà trong đó khí metan là thành
phần chủ yếu và chiếm một tỷ lệ cao. Khí sinh học là sản phẩm của quá trình phân
hủy các chất hữu cơ có trong bãi chôn lấp. Thành phần của khí ga trong giai đoạn đầu
chủ yếu là carbon dioxit (CO2) và một số loại khí khác như N 2 và O2 . Sự có mặt của
khí CO2 ở trong bãi chôn lấp tạo điều kiện cho vi sinh vật kị khí phát triển và từ đó
bắt đầu giai đoạn hình thành khí metan. Như vậy, khí ga có hai thành phần chủ yếu là
CH4 và CO2 trong đó CH4 có khoảng từ 50 – 60% và CO 2 chiếm khoảng 40 – 50%.
Khí metan có thể trở thành mối nguy hiểm gây ra cháy, nổ, ô nhiễm môi trường ở bãi
chôn lấp và các khu vực xung quanh. Vì vậy việc kiểm tra khí bằng phương pháp
thoát tán hoặc thu hồi và chuyển thành nguồn năng lượng là một phần quan trọng
trong thiết kế và vận hành bãi chôn lấp phế thải hợp vệ sinh, vì vậy các bãi chôn lấp
rác thải hợp vệ sinh nhất thiết phải có một hệ thống thu gom và xử lý tất cả các khí
sinh học sinh ra từ bãi đảm bảo yểu cầu giới hạn cho phép sao cho: Nồng độ của khí
metan sinh ra không được vượt quá 25% giới hạn thấp về cháy nổ - LEL – “Lower
Explosive Level”, có nghĩa là nồng độ metan sinh ra không được vượt quá 1,25% tính
theo thể tích ở những nơi sau:
• Ở trong nhà, hoặc các công trình thuộc phạm vi bãi chôn lấp
• Trong không khí xung quanh thuộc phạm vi bãi chôn lấp
Thuật ngữ “giới hạn thấp về cháy nổ” được hiểu là ở nồng độ thấp, tính theo thể
tích, một chất khí trong hỗn hợp khí ở nhiệt độ 25 oC và ở áp suất 101,325 kPa sẽ gây
ra cháy trong không khí ..


Bảng 2: Thành phần của khí tạo thành ở bãi chôn lấp

Thành phần

% Thể tích khô

Nguồn dẫn liệu:
Nguồn dẫn liệu:

Metan (CH4)

Theo Ham R.K (1984)
47,5

Theo Hocks – J (1985)
55,5

Carbon dioxit (CO2)

47,0

41,2

Nitơ (N2)

3,7

2,1

Oxy (O2)

0,8

1,1

Hydro (H2)

Đặc thù
Nhiệt độ (tại nguồn)

0,1

0,01

Nhiệt lượng

17.700KJ/m3

Trọng lượng riêng

1,04 (so với khí H2)

Độ ẩm

Bão hòa

41oC

Ghi chú: trích dẫn từ Ham R.K (1984) trong Robinson (1986)và Hocks.J
(1983) trong Van Den Broek (1985).
Ngoài ra, trong thành phần của khí còn chứa một số khí khác nữa như
hydrocacbon (CH2); Toluend (C6H5CH3); Benzen (C6H6) trong điều kiện bãi chôn lấp
hoạt động ổn định sau thời gian từ 1 – 2 năm. Tốc độ sản sinh khí thải ở bãi chôn lấp
phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
- Sự thẩm thấu của lượng cacbon trong thực vật đã cùng axit và rượu hình thành trong
quá trình chôn lấp phế thải làm giảm khả năng tạo khí.
- Lượng nước ở bên ngoài túi khí, nếu nhiều quá sẽ làm vi khuẩn có thể không đạt

được chức năng cao trong quá trình tạo khí.


- Nếu có độ kiềm tăng làm độ pH giảm do sản sinh axit trong phế thải củng làm giảm
lượng khí.
- Khi nhiệt độ trong phế thải tăng củng làm giảm lượng khí.
- Do phế thải đóng bánh thành khối quá dầy hoặc quá nhiều mãnh vụn và bột củng
làm giảm quá trình sinh khí.
- Nếu trong phế thải có chứa hóa chất độc hại củng ngăn cản các vi khuẩn tạo khí
metan do thiếu hụt dinh dưỡng.
Thông thường khí ga ở bãi chôn lấp có sản lượng lớn nhất là 5 năm đầu tiên,
đạt được khoảng từ 4 – 14 m3CH4/1 tấn phế thải khô, và kéo dài khoảng 20 năm kể từ
khi giai đoạn yếm khí đầu tiên xuất hiện. Sau đó khả năng sản sinh khí bị giảm dần,
thậm chí có bãi chỉ còn là hiện tượng nhỏ giọt (thu hồi khí trong tình trạng ngắt
quảng), khi đó có thể tạm dừng việc thu hồi khí một thời gian.

CHƯƠNG III:
KIỂM SOÁT CÁC KHÍ Ô NHIỄM TỪ CÁC QUI TRÌNH CÔNG NGHỆ XỬ
LÝ RÁC
3.1 KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TỪ QUÁ TRÌNH CHÔN LẤP
3.1.1 Hệ thống thu gom nước rỉ rác từ quá trình chôn lấp
Các quá trình sinh hóa diễn ra ở bãi chôn lấp chủ yếu do hoạt động của các vi
sinh vật sử dụng các hợp chất hữu cơ làm nguồn dinh dưỡng cho các hoạt động sống
của chúng. Các loại vi sinh vật bao gồm: vi khuẩn, nấm men và nấm mốc. Các loại vi
khuẩn và nấm đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân giải các hợp chất. Các loại
vi sinh vật phát triển tốt trong các điều kiện môi trường như bảng 4.


Bảng 3 Các yếu tố môi trường ảnh hưởng tới vi sinh vật
Yếu tố môi trường


Khoảng giá trị

Nhiệt độ, oC

-8 ÷ +110

Nồng độ muối, %NaCl

0–3

pH

1,0 – 12

nồng độ oxy, %

0 – 30

Áp suất, Mpa

0 – 115

Ánh sáng

Bóng tối – ánh sáng mạnh

Các vi sinh vật tham gia vào quá trình tham gia vào quá trình phân giải tại bãi
chôn lấp được chia thành 3 nhóm chủ yếu sau :
- Các vi sinh vật ưa ẩm: phát triển mạnh mẽ ở nhiệt độ từ 0 – 20oC.

- Các vi sinh vật ưa ấm: phát triển mạnh mẽ ở nhiệt độ từ 2 – 40oC.
- Các vi sinh vật ưa nóng: phát triển mạnh mẽ ở nhiệt độ từ 40 – 70oC.
Các hợp chất

chấtcủa các loại vi sinh vật theo nhiệt độ ở hình 5. Cơ chế sinh hóa của
Sự Các
pháthợp
triển
hữu cơ dạng
hữu cơ dạng rắn

hòa tan hoàn
các quá trình
rắn phân hủy trong các bãi chôn lấp được thể hiện ở hình 6.
toàn

Giai đoạn I: giai đoạn thích nghi ban đầu
Thủy phân

Giai đoạn II: giai đoạn chuyển tiếp
Các hợp chất dạng hòa tan

Giai đoạn III: giai đoạn tạo axit
hữu cơ dạng

hòađoạn
tan lên men metan
Giai đoạn IV: giai
Sunfat hóa


Lên men

Giai đoạn V: giai đoạn kết thúc
Khử
sunfat

Sunphuaro
(H2S)

Axit béo +
alcohol

Carbonic
(CO2)

Mêtan hóa
(gđ thủy phân)

Axetat

Axeton
hóa

Hydro
(H2)

Mêtan
hóa
(gđ axit)
Metan

(CH4)


Hình 3 Cơ chế sinh hóa của quá trình phân hủy sinh học trong các bãi chôn lấp

Bản chất sinh hóa của quá trình được diễn ra như sau: Thời kỳ ban đầu, chỉ một
thời gian ngắn sau khi bãi rác đi vào hoạt động quá trình phân hủy hiếu khí được diễn
ra, ở giai đoạn này các chất hữu cơ dễ bị oxy hóa sinh hóa thành dạng đơn giản như
protêin, tinh bột, chất béo và một lượng năng lượng tỏa ra rất lớn và vì thế có tồn tại
một lượng năng lượng đáng kể ở dạng nhiệt. Lượng nhiệt năng được tạo thành bên
trong các ô chôn lấp được tạo ra nhiều hơn so với lượng nhiệt năng được thoát ra bên
ngoài và do đó nhiệt độ bên trong các ô được tăng lên. Giá trị nhiệt độ tăng tới 60 oC –
70oC được kéo dài trong thời gian khoảng 30 ngày. Ở khoảng nhiệt độ này, các phản
ứng hóa học diễn ra sẽ trội hơn các phản ứng vi sinh vật bởi vì hầu hết các chủng sinh
vật bị tiêu diệt ở nhiệt độ 70oC. Các phản ứng hóa học ở nhiệt độ này được diễn ra với
tốc độ nhanh. Trong quá trình phân hủy hiếu khí, các polyme ở dạng đa phân tử được
vi sinh vật chuyển hóa sang dạng đơn phân tử tồn tại ở dạng tự do. Các polyme đơn
phân tử sau đó lại được vi sinh vật hấp thụ, sử dụng trong việc tiếp nhận năng lượng


để kiến tạo nên tế bào mới. Khi oxy bị các vi sinh vật hiếu khí tiêu thụ dần thì các vi
sinh vật yếm khí bắt đầu xuất hiện và nhiều quá trình lên men khác nhau được bắt đầu
diễn ra trong các ô chôn lấp. Các vi sinh vật tham gia vào quá trình lên men là nhóm
vi sinh vật dị dưỡng trong điều kiện yếm khí lẫn kị khí nghiêm ngặt. Các chất hữu cơ
dạng đơn giản, các amino axit, đường… được chuyển hóa thành các axit béo dễ bay
hơi (VFA), alcohols, khí cacbonic và khí nitơ. Các axit béo dễ bay hơi (VFA),
alcohols sau đó lại được chuyển hóa tiếp tục với sự tham gia của cả các vi sinh vật
axeton và các vi sinh vật khử sunphat. Các vi sinh vật axeton tạo ra axit axetic, khí
cacbonic còn các vi khuẩn khử sunphat thì chỉ tạo ra khí nitơ và khí cacbonic. Các
chất này là nguồn nguyên liệu ban đầu của quá trình lên men hóa. Các vi khuẩn khử

sunphat và vi khuẩn tạo metan là những vi khuẩn thuộc nhóm vi sinh vật kị khí bắt
buộc. Có hai nhóm vi sinh vật chủ yếu tham gia vào quá trình tạo metan: phần lớn là
nhóm các vi sinh vật tạo metan từ khí nitơ và khí cacbonic, phần nhỏ (gồm 2-3 chủng
loài) là những vi sinh vật tạo metan từ axit axetic. Trong tổng hợp khí metan tạo thành
từ bãi chôn lấp thì có tới 70% được tạo thành từ axit axetic. Nếu như có tồn tại nhiều
sunphat trong các ô rác chôn lấp thì các vi khuẩn khử sunphat sẽ mang tính trội hơn vi
khuẩn metan và như vậy sẽ không có khí metan tạo thành nếu sunphat vẫn tồn tại.
Hàm lượng sunphat có nhiều trong chất thải xây dựng, vì vậy điều này phải được quan
tâm tránh không đổ phế thải vào bãi chôn lấp rác đô thị để tạo điều kiện cho quá trình
hình thành khí metan.
Trong quá trình chuyển hóa yếm khí và kị khí, nhiệt độ của các ô chôn lấp giảm
xuống vì các chủng loài vi sinh vật ở giai đoạn này tạo ra ít nhiệt lượng hơn nhiều so
với quá trình chuyển hóa hiếu khí (chỉ bằng 7% so với quá trình hiếu khí). Nếu nồng
độ của các axit hữu cơ, axit béo dễ bay hơi (VFA) tạo ra càng nhiều thì trong nước rác
sẽ có pH thấp (4-5) và có nồng độ COD, BOD5 cao.
Như vậy, rác thải hữu cơ tại các bãi chôn lấp được phân hủy theo nhiều giai đoạn
chuyển hóa sinh học khác nhau để tạo ra sản phẩm cuối cùng trong các bãi chôn lấp là
khí metan, khí cacbonic và nước.


Việc thiết kế hệ thống thu gom nước rác phụ thuộc vào những đặc trưng của bãi
chôn lấp, vì vậy khi thiết kế hệ thống thu gom nước rác phải tuân thủ theo các nguyên
tắc cơ bản sau:
- Hệ thống thu gom nước rác phải được thiết kế và lắp đặt để hạn chế khả năng
tích tụ nước rác ở đáy ô chôn lấp. Thông thường, khi sử dụng lớp chống thấm, nước
rác sẽ được giữ lại trong bãi chôn lấp và phải được thu đi nếu không nó sẽ chảy tràn ra
các cạnh của lớp chống thấm. Việc thiết kế hệ thống thu gom nước rác phụ thuộc vào
những đặc trưng của bãi chôn lấp nhưng có thể tuân thủ theo những hướng dẫn chung
như sau :
- Hệ thống thu gom phải đủ lớn để có thể vận chuyển nước ra khỏi bãi. Điều này

liên quan nhiều đến số lượng ống và khoảng cách đặt ống.
- Hệ thống thu gom nước rác phải được thiết kế và lắp đặt để hạn chế khả năng
tích tụ nước rác ở đáy ô chôn lấp và phải có độ dốc tối thiểu 1%.
- Hệ thống thu gom phải có khả năng làm sạch vì chúng rất dễ bị bịt kín. Thường
thường, người ta sử dụng những ống được đục lỗ từ 15 – 20 cm có độ bền vững về
mặt cấu trúc khi đặt ở bất cứ độ sâu nào trong bãi chôn lấp. Nếu hệ thống thu gom này
được đặt sâu trong bãi chôn lấp có nén ép thì phải sử dụng ống dày hơn và phải thực
hiện kỹ thuật làm đệm ống đặc biệt để tránh vỡ ống dưới áp suất lớn. Hình dạng
chung nhất của hệ thống thu gom nước rác là chạy vòng quanh chu vi của bãi chôn lấp
nhằm hạn chế dòng chảy đi khỏi bãi chôn lấp sau này và sau đó hệ thống này chạy
chéo nhau bên trong bãi chôn lấp với đủ đường ống để đưa dòng nước rác lớn nhất ra
khỏi bãi.
Xử lý nước rác: để lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp, trước hết phải có được
các số liệu về thành phần và tính chất của nước rác. Các thành phần của nước rác cần
phải được xác định khi thiết kế trạm xử lý theo bảng 5
Quá trình xử lý sơ bộ: Thông thường là các song chắn rác, hồ lắng sơ bộ, ở quá
trình này pH của nước rác thường 6,8 – 8, tuy nhiên giá trị của pH có thể thay đổi tùy
thuộc vào thành phần của rác thải và tính chất của nền đất.


Quá trình xử lý sinh học: Ở quá trình này, BOD, COD và các hợp chất của nitơ
sẽ được giảm. Các công trình thường sử dụng là bể aeroten, hồ thổi khí, đĩa lọc sinh
học, bể lọc sinh học…
Quá trình hóa – lý: Quá trình này chủ yểu khử COD, độ màu, lượng cặn lơ lững,
kim loại nặng, coliform, và xử lý mùi. Các phương pháp ứng dụng bao gồm đóng rắn,
lắng, hấp phụ cacbon hoạt tính và hóa học.
Bảng 4 Các thành phần của nước rác cần được xác định khi thiết kế trạm xử lý
nước rác
Thành phần nước rác


Mức độ cần thiết

BOD5, cặn lơ lững (SS), COD, NH+4, Rất cần khi thiết lập các thông số ban đầu
nitơ tổng số

để thiết kế và chọn công nghệ xử lý

pH, coliform

Yêu cầu đối với các công trình xử lý để
đạt chất lượng của dòng xả theo tiêu
chuẩn quy định

Fe2+ , Mn2+ , các kim loại nặng, màu,

Không nhất thiết phải xem xét khi thiết
lập các thông số thiết kế vì những chất

Mùi

này sẽ được khử trong quá trình xử lý các
thành phần khác

3.1.2 Hệ thống thu khí từ ô chôn lấp
Để thu gom khí tạo thành ở bãi chôn lấp cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ bãi
chôn lấp phế thải hợp vệ sinh từ khâu thiết kế đến khâu điều hành chôn lấp phế thải và
phải đạt các yêu cầu sau:
- Đảm bảo độ ẩm của phế thải rắn từ 40% trở lên; trong trường hợp cần thiết cần
phải tưới hoặc phun nước cho phế thải.



- Giữ pH ≈ 7,0 như môi trường xung quanh, pH < 6,2 sẽ làm ngừng quá trình tạo
khí metan trong phế thải.
- Nếu có hiện tượng thiếu hụt dinh dưỡng có thể bù đắp bằng cách phun lên phế
thải bùn đặc biệt vét từ cống ngầm.
- Đảm bảo lớp đất phủ phải đủ dầy và lèn, nén chặt chống thẩm thấu khí qua
tầng đất phủ.
Thoát tán và thu gom khí
Khí metan ở các bãi thải có thể coi là một nguồn gây nguy hiểm, không an toàn
nếu không được phát tán hoặc thu gom để chuyển thành nguồn năng lượng khác, vì nó
dễ gây cháy, nổ và ngạt thở đối với người hay động thực vật ở bãi chôn lấp và các khu
vực xung quanh. Vì vậy vấn đề phòng ngừa an toàn cho tất cả những người điều hành
hoặc làm việc trên bãi chôn lấp, nhất là các khu vực thoát tán khí ga, các khu vực có
thể tích tụ khí ga, các ống dẫn thoát nước, nơi xử lý khí và nơi có hệ thống tập trung
khí metan là rất cần thiết. Việc không ngừng tạo ra khí ga ở trong bãi chôn lấp có
nghĩa là sự nguy hiểm vẫn còn đang tiếp tục và cần phải có sự quan tâm đặc biệt đến
hệ thống thông khí khi thiết kế.
Hai loại hệ thống cơ bản được thiết kế để kiểm soát và thu hồi năng lượng từ khí
metan là: hệ thống thoát khí bị động và hệ thống thoát khí chủ động.
Hệ thống thoát khí bị động: Đối với những bãi chôn lấp quy mô nhỏ và vừa,
người ta thường thiết kế một hệ thống thoát khí bị động. Đây là một hệ thống dựa trên
các quá trình tự nhiên để đưa khí vào khí quyển hoặc ngăn cản không cho nó chuyển
động vào các khu vực không mong muốn. Hệ thống này được xây dựng bằng các
tường đất sét không thấm nước dầy từ 0,7 – 1 m để ngăn chặn khí thấm qua. Tường
đất sét được đắp từ đáy khoang chứa kéo dài lên tận lớp đất phủ và luôn được giữ ẩm
sao cho nó không bị khô và nứt tạo ra các khe thoát khí. Phía trong tường có đào rãnh
thoát khí, được phủ đáy bằng một lớp sỏi, đá đường kính 20 – 40 cm. Từ các giếng
khoan, khí được dẫn tới rãnh thoát khí để đưa vào không khí bằng các rãnh nhỏ hơn
hoặc ống nhựa, ống cao su…



Khu vực thoát khí bị động phải cách biệt hẳn các khu dân cư, các khu sản xuất
công nghiệp. Thông thường khu vực này được xây dựng ngay cạnh bãi chôn lấp và
được quy định là vùng cấm. Nếu khu vực thoát khí ở xa nơi chôn lấp thì phải thiết kế
hệ thống máy hút khí để đưa khí theo hệ thống ống ra nơi thoát khí. Những yêu cầu
cần đạt được trong hệ thống thoát khí bị động bao gồm:
- Tường đất sét phải luôn được giữ ẩm, chống được nứt nẻ.
- Hệ thống mương rãnh thoát phải sạch sẽ và khô ráo, không được để rác, đất lấp
vào lòng mương rãnh.
- Lớp sỏi, đá và hệ thống ống dẫn khí (nếu có) phải luôn được giữ khô để việc
thoát khí thực hiện dễ dàng.
- Hệ thống thoát khí ga đơn giản là khoan giếng vào lớp phế thải sâu tối thiểu là
1m rồi đặt ống thu, thoát khí. Chiều cao ống thoát khí phải cao hơn đỉnh lớp đất tối
thiểu là 0,20 m để khí thoát thẳng ngay trên bãi chôn lấp.
Hệ thống thông khí chủ động: Hệ thống thu hồi khí chủ động có thể được thiết
kế ở những bãi chôn lấp phế thải lớn, có nhiều phế thải. Chúng thường được xây dựng
ở những nơi được xem là có khả năng nguy hiểm nếu như khí thoát vào những tòa nhà
ở gần đó hoặc ở những nơi mà sự thu khí ga được xem là có hiệu quả.
Phương pháp đặt các ống thu khí phun thẳng là khoan các giếng vào rác thải đã
được chôn lấp sâu tối thiểu là 1m, tối đa có thể khoan sâu tới đáy lớp lót. Nếu rác thải
đã đóng kết thành khối vững chắc, người ta có thể đặt trực tiếp ống thu khí ga vào
giếng khoan bằng ống nhựa PVC đường kính tối thiểu là 50mm. Xung qunh ống là
các tầng đá lọc đảm bảo độ rỗng để thu được tối đa lượng khí ga tạo thành và ngoài ra
còn tạo đủ không khí cần thiết để chống lại việc dò khí. Để khí đi vào ống nhựa được
dễ dàng, người ta khoan lỗ xung quanh ống nhựa khoảng cách là 15cm. Khi rác kết
thành khối vững chắc thì phải đóng các ống thép củng được khoan lỗ xung quanh vào
giếng khoan. Ống thép phải có đường kính lớn hơn ống nhựa.
Ngoài hệ thống thu hồi khí ga thẳng đứng như đã trình bày ở trên, ở những bãi
chôn lấp đắp cao theo kiểu cầu vồng có thể áp dụng phương pháp đặt hệ thống thu hồi



khí kiểu nằm ngang. Kích thước ống và vị trí đặt ống tương tự như phương pháp phun
thẳng. Hệ thống thu khí nằm ngang ít được áp dụng.
Để đảm bảo việc thu hồi khí ga được tốt hơn, người ta còn thiết kế hệ thống
phun nước vào bãi chôn lấp nhằm đảm bảo độ thủy phân của rác thải, giữ không cho
oxy lọt vào các túi khí tạo ra các vi sinh vật ưa khí và kéo theo vi sinh vật kỵ khí ra
ngoài và làm chậm quá trình sản sinh khí metan. Mặt khác việc phun nước vào rác
thải sẽ giữ cho độ ẩm của rác đảm bảo không cho khí metan thoát vào không khí.
Ngược lại nếu độ ẩm quá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến độ ẩm trong khí thu hồi, để
khắc phục tình trạng này người ta thiết kế hệ thống rút nước thải từ bãi chôn lấp (nước
tro). Hệ thống thu hồi nước tro được đặt ở phía ngoài và thấp hơn bãi chôn lấp. Nhiều
hệ thống rút nước tro qua xử lý lại được bơm phun trở lại cho phế thải.
Hệ thống rút khí nối với các bơm chân không hay quạt gió bằng một hệ thống
ống dẫn đến nơi xử lý thường có hiện tượng ngưng tụ nước ở thành ống vì vậy cần có
những vị trí thải nước thích hợp trên hệ thống thu hồi khí. Điểm cần chú ý trong việc
thiết kế hệ thống thu hồi khí là chỉ nên thiết kế hệ thống rút được khoảng từ 20 – 70%
thể tích khí tạo ra từ bãi thải vì thực tế cho thấy nếu rút quá 70% thể tích khí tạo ra, sẽ
có hiện tượng không khí lọt vào hệ thống thu khí. Sức ép của áp suất nước bên trên
khí phun ra khoảng 60cm nước là hoàn toàn phù hợp cho việc tạo khí ở phía dưới.
Để thiết kế hệ thống thu hồi khí ga có hiệu quả, cần có cách nhìn tổng quát về
khả năng rút được khí ga ở bãi chôn lấp bằng phương pháp dùng sức nén của áp suất
không khí cao để xác định vị trí tập trung của khí ga và kiểm tra mức độ phun thẳng
lên được của khí ga. Nếu xây dựng bãi chôn lấp mới gần với bãi chôn lấp đã đầy và có
hệ thống thu hồi khí ga thì việc thiết kế hệ thống thu hồi khí ga cho bãi chôn lấp mới
phải hợp nhất cả hai hệ thống làm một.
Xây dựng một hệ thống thu hồi khí ga cho bãi chôn lấp cần phải sử dụng số tiền
vốn khá lớn, vì vậy kiểm tra xác định chắc chắn khả năng thu hồi khí ga ở bãi chôn
lấp là rất cần thiết và phải được chứng minh cụ thể.



Lưu ý rằng: phần này mới chỉ giới thiệu về việc thu hồi khí ga ở bãi chôn lấp. Để
sử dụng được khí ga như một nguồn năng lượng có giá trị còn phải qua các công đoạn
xử lý khác theo công nghệ riêng.
Chỉ dẫn an toàn đối với khí metan: trong trường hợp chưa có khí thoát tán hoặc
thu hồi khí thì ở các vị trí có khả năng tập trung khí có thể gây ra cháy, nổ - do vậy
cần phủ lên rác một lớp đất dầy để giảm khí tập trung. Khí ga có thể loại bỏ khí oxy
trong đất và trong phế thải làm rễ cây không phát triển được (bị nghẹt thở), nếu bãi
chôn lấp được phủ một lớp đất dầy 1m trở lên thì tình trạng trên sẽ được khắc phục.
Các thành phần hydrosunphit (H2S), methyl mecaptans (CH3SH) trong khí gây
mùi thối khác biệt. Mùi này sẽ được loại bỏ nếu khí được thoát tán hoặc đốt cháy. Có
thể sử dụng một lớp lọc bằng đá dầy 1 – 2m để làm giảm mùi.
Trong quy trình quản lý bãi chôn lấp rác thải đô thị cần phải được đưa vào các
quy định an toàn sau:
1. Không được để một người làm việc trên bãi chôn lấp như đắp đất lên nơi chưa
phủ kín phế thải, đào mương hoặc làm sạch mương rãnh… mà phải luôn có ít nhất là
hai người và phải được trang bị bảo hộ lao động đầy đủ. Trong trường hợp một trong
hai người bị ngạt khí ga, người còn lại có thể đưa người kia về nơi an toàn. Người làm
việc trên bãi chôn lấp phải được đào tạo riêng về sự nguy hiểm của khí và cách cấp
cứu.
2. Phải có biển báo, rào chắn hoặc ít nhất là có dây thừng bao quanh các thiết bị
phun khí ga hoặc các giếng khoan đặt thiết bị thu khí.
3. Cấm hút thuốc hoặc đốt lửa trên bãi chôn lấp khí đã có các giếng khoan hoặc
khi đã lắp đặt các thiết bị thu khí hay thu hồi khí trên bãi thải.
4. Khi đã có hệ thống thu hồi khí trên bãi chôn lấp, phải kiểm tra nghiêm ngặt để
xác định rõ mức độ giảm ô nhiễm ở bãi thải và các khu vực lân cận, củng như ngăn
chặn khả năng gây cháy, nổ ở nơi tập trung khí metan, đồng thời tìm mọi biện pháp
giảm các hiện tượng trên đến mức tối thiểu.


5. Những nơi khí metan có khả năng tập trung tới 5 – 15%, cần lắp đặt thiết bị đo

để báo trước sự tập trung khí metan mà tìm cách khắc phục hoặc báo cho mọi người
đề phòng tránh xa những nơi này. Trong hoàn cảnh cho phép có thể xây tường, rào
chắn để đảm bảo an toàn.
3.2 KIỂM SOÁT KHÍ Ô NHIỄM TỪ QUÁ TRÌNH ĐỐT
Khí thải từ các lò đốt rác y tế rất độc hại. Cần đạt trên 1.000 oC mới triệt tiêu
hoàn toàn dioxin.
Gần đây, ở nước ta, xử lý chất thải rắn công nghiệp, chất thải y tế bằng phương
pháp thiêu đốt được áp dụng khá phổ biến, tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là phải xử lý khí
thải như thế nào, nhất là các lò thiêu đốt chất thải độc hại.
Thiêu đốt là quá trình dùng nhiệt độ cao để phân hủy các hợp chất hữu cơ trong
rác thải và giảm nhỏ thể tích. Hiện nay, rác thải đô thị do có độ ẩm lớn, rác có nguồn
gốc hữu cơ cao, tỷ lệ chất rắn cao khó thiêu đốt nên chủ yếu là xử lý chôn lấp. Tuy
nhiên loại rác độc hại như rác y tế hoặc rác công nghiệp thì cần áp dụng phương pháp
thiêu đốt bởi nếu chôn lấp sẽ gây nên ô nhiễm môi trường đất và nguồn nước.
3.3 KIỂM SOÁT KHÍ Ô NHIỄM TỪ QUÁ TRÌNH Ủ
Quá trình hiếu khí. Quá trình xử lý sinh học hiếu khí là quá trình hoạt động của
vi sinh vật chuyển chất hữu cơ thành các hợp chất vô cơ (quá trình khoáng hoá) trong
điều kiện có oxy. Sản phẩm của quá trình là CO2, H2O,
Quá trình yếm khí. Quá trình xử lý sinh học hiếu khí là quá trình khoáng hoá nhờ
vi sinh vật ở điều kiện không có oxy. Công nghệ xử lý sinh học yếm khí tạo thành sản
phẩm khí CH4 chiếm phần lớn, CO2 và H2, N2, H2S, NH3


CHƯƠNG IV:
ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT KHÍ THẢI Ô NHIỄM
4.1. ĐỀ XUẤT CÔNG NGHỆ XỬ LÝ KHÍ THẢI LÒ THIÊU
Phân loại theo công suất nhỏ, trung bình và lớn.
• Lò đốt công suất nhỏ
Với lò có quy mô xử lý khoảng 300 kg/ngày, có thể ứng dụng công nghệ xử lý
gồm thiết bị venturi thấp áp, tháp đệm, quạt khói, bơm, bể tuần hoàn và hệ thống van

gió.
Nguyên lý làm việc là: Khói lò sau khi ra khỏi buồng thứ cấp qua van gió, đi vào
thiết bị venturi để lọc bụi đồng thời hạ nhiệt độ. Từ venturi, nước và khí chuyển sang
tháp lọc. Cấu tạo của tháp lọc gồm lớp đệm bằng khâu sứ, giàn phun nước và bộ tách
nước. Tại tháp, một phần nước cùng với bụi sẽ chảy xuống bể lắng còn khí sẽ đi
ngược lên qua lớp đệm, nơi nó được hạ nhiệt độ, lọc phần bụi còn lại và các chất khí
như SO2, HCl. Chất ô nhiễm được nước hấp phụ chảy xuống bể lắng, còn không khí
sạch sẽ được đẩy vào ống khói qua quạt và thải vào khí quyển.
Thiết bị xử lý khí thải lò thiêu này có thể lắp bổ sung vào hệ thống lò thiêu mà
không làm thay đổi đáng kể cấu trúc của thiết bị lò. Khi cần thiết có thể bổ sung hóa
chất vào bể để xử lý khí độc hại.
• Lò đốt công suất lớn
Với lò thiêu có quy mô xử lý trên 1.000 kg/ngày, thường được thiết kế hoàn
chỉnh và đồng bộ từ khu vực tập kết rác, lò đốt, thiết bị xử lý, khu vực lấy tro, buồng
điều khiển trung tâm... Phần nhiều các khâu được cơ giới hóa hoặc tự động hóa. Nhiệt
độ thiêu đốt trung bình của loại lò này lớn hơn 1.0000 C, thời gian lưu khí 1-2 giây.
Hệ thống xử lý khí thải bao gồm: Thiết bị lọc bụi (lọc khô dạng túi vải hoặc tĩnh
điện) và thiết bị lọc khí độc như SO2, HCl (dùng vôi bột và than hoạt tính). Các chất
này được phun vào buồng hòa trộn sau đó thu lại bằng thiết bị lọc bụi để tuần hoàn.
Vôi có tác dụng hấp phụ các khói axít, than hoạt tính hấp phụ dioxin và furan. Hệ
thống xử lý còn được lắp các thiết bị báo nhiệt độ, nồng độ một số loại khí như carbon
để giám sát chất lượng khí thải và hiệu quả phân hủy của lò.
• Lò đốt công suất trung bình


×