Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Phụ nữ cẩm phả xóa đói giảm nghèo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.05 KB, 41 trang )

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ tổ tiên xa xua
đến con cháu ngày nay trên mọi lĩnh vực, ở mọi lứa tuổi thì phụ nữ ngày
càng khẳng định được vai trò to lớn của mình. Ở mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử dân tộc, người phụ nữ luôn biết lựa chọn chỗ đứng, lựa chọn con
đường đi đúng đắn vì lợi ích và hành phúc của dân tộc, của gia đình và của
bản thân. Đánh giá vai trò của người phụ nữ, Bác Hồ đã viết: “Dân tộc ta đời
đời nhớ ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những người con ưu
tú đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt với, bảo vệ non sông gấm vọc để
lại”. Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, người phụ nữ có vai trò rất quan
trọng, họ không những làm nên hậu phương vững chắc mà còn là những
người chiến sỹ dũng cảm tham gia vào các cuộc đấu tranh cách mạng. Hòa
bình lặp lại họ lại bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, nguồn lực
lao động là một trong những vấn đề quan trọng và được chú ý quan tâm.
Trong đó, phụ nữ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nước ta có khoảng 80% dân số tập
trung chủ yếu ở nông thôn thì phụ nữ chiếm tới 51,34%, trong sản xuất nông
nghiệp lao động chiếm 72%.1Trong những năm gần đây, kinh tế nước ta đã
có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt việc Việt Nam gia nhập tổ
chức thương mại lớn nhất thế giới WTO đang tạo ra những cơ hội lớn cho
kinh tế cũng như xã hội phát triển. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình hội nhập thế giới cũng đang tạo ra
những thách thức không nhỏ đối với nước ta, nhất là vấn đề khoảng cách
giàu nghèo. Một thực tế xảy ra hiện nay: khoảng cách giàu nghèo ở nước ta
ngày càng lớn. Đây là mối quan tâm của không chỉ nước ta mà còn của
nhiều nước trên thế giới. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã
xây dựng chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, nhằm hỗ


trợ cho người nghèo có điều kiện để phát triển kinh tế, tạo sự phát triển đồng
đều trên cả nước.
Cẩm Phả là một đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Ninh. Trong nhiều
năm qua, nhờ phát huy có hiệu quả các chương trình giảm nghèo, cùng với
sự nỗ lực, quyết tâm thoát nghèo của người dân nên công tác giảm nghèo
của thành phố Cẩm Phả đã đạt được những kết quả tích cực. Với truyền
thống cần cù, chịu khó, nỗ lực vươn lên, phụ nữ đã tích cực học tập, ứng
dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, chăn nuôi. Phụ nữ cũng là
1

Tổng cục thống kê
Tình hình kinh tế xã hội tháng 12 năm 2011


một lực lượng đông đảo tham gia thực hiện chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây
trồng, vật nuôi mang lại năng suất, chất lượng. Trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh đã xuất hiện nhiều điển hình phụ nữ làm kinh tế giỏi... Phụ nữ thành
phố Cẩm Phả đang ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc
phát triển kinh tế gia đình và đẩy mạnh hoạt động xã hội. Để có được kết
quả như trên là nhờ vào hoạt động rất tích cực của Hội liên hiệp Phụ nữ
thành phố Cẩm Phả (tỉnh Quảng Ninh). Hội Phụ nữ thành phố Cẩm Phả
được coi là một đơn vị đi đầu trong hoạt động xóa đói giảm nghèo. Hội đã
cùng với nhiều tổ chức khác tổ chức nhiều chương trình, hoạt động nhằm hỗ
trợ cho các hội viên của hội để họ phát triển kinh tế. Nhằm đẩy mạnh phong
trào “phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình”. Tuy nhiên, hoạt động
của hội vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế cần phải khắc phục.
Nghiên cứu này nhằm làm rõ hoạt động của Hội LHPN thành phố Cẩm
Phả trong công tác XĐGN. Các hoạt động chính trong công tác xóa đói giảm
nghèo mà Hội LHPN thành phố đang tiến hành? Trong quá trình thực hiện,
Hội LHPN thành phố đã phối hợp cùng với những tổ chức, ban ngành nào?

Hoạt động phối hợp có đem lại hiệu quả cao không? Hội LHPN thành phố
đã đạt được những thành tựu và gặp phải khó khăn gì khi thực hiện công tác
XĐGN?
Những lý do trên là cơ sở để tôi lựa chọn đề tài: Hội phụ nữ thành phố
Cẩm Phả với phong trào xóa đói giảm nghèo.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Xóa đói giảm nghèo là một chính sách lớn được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Công tác xóa đói giảm nghèo không còn là nhiệm vụ riêng của Nhà
nước hay một quốc gai riêng lẻ, mà nó đã trở thành một vấn đề toàn cầu và mọi
người đều cần phải chung tay góp sức. Đối với Việt Nam, công tác xóa đói giảm
nghèo đã và đang đạt được những thành tựu đáng kể. Chuẩn nghèo của nước ta
liên tục thay đổi và có xu hướng tăng. Tuy nhiên, với mức chuẩn nghèo quy định
như hiện nay của nước ta thì vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình
trung của thế giới.
Nếu trước đây, do quan niệm cổ hủ, lạc hậu, nên một thời gian dài, nước ta
duy trì tư tưởng việc kiếm tiền là do người đàn ông trong gia đình. Do đó, vai trò
của người phụ nữ chưa được đánh giá đúng, họ ít được tham gia vào việc phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do hoạt động tích cực của Liên
hiệp Phụ nữ về công tác bình bẳng giới, tuyên truyền về trách nhiệm cũng như vai
trò của người phụ nữ mà tỷ lệ phụ nữ tham gia sản xuất kinh tế ngày càng nhiều.
Thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh là một trong những địa phương
đi đầu trong toàn tỉnh về việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Trong


những năm qua, Đảng bộ huyện đã phối hợp cùng với các cơ quan đoàn thể
thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những kết quả rất nổi bật
Xóa đói giảm nghèo đã không còn là một vấn đề mới đối với chúng ta.
Đã có rất nhiều nghiên cứu xung quanh vấn đề này như:
- “Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam”. TS. Lê Xuân Bá –
TS. Chu Tiến Quang – TS. Nguyễn Hữu Tiến – TS. Lê Xuân Đình (Nhà

xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 2001).
- “Xóa đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam” của Nguyễn Hải Hữu.
Nghiên cứu về vai trò của hội phụ nữ trong công tác xóa đói giảm
nghèo đã thu hút được sự quan tâm của một số nhà Khoa học như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ về: “Thực trạng nghèo đói và giải
pháp xóa đói giảm nghèo ở một số tỉnh ven biển miền Trung” do PGS. TS
Khổng Diễn làm chủ nhiệm.
- Đề tài nghiên cứu khoa học Bộ về: “Tình trạng nghèo đói trên thế
giới và Việt Nam: hiện trạng, vấn đề và các phương thức giải quyết” do
Lương Thị Thu Trang làm chủ nhiệm.
Đây là những nghiên cứu có tầm vĩ mô, khái quát. Đối với nghiên cứu
của mình, tôi tập trung vào công tác xóa đói giảm nghèo ở thành phố Cẩm
Phả nói chung, và hướng tới chủ thể thực hiện chính là Hội LHPN thành phố
Cẩm Phả.
3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của Hội Phụ nữ trong việc thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Hội Phụ nữ thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
- Thời gian: 2011 - 2016.
- Nội dung: Tập trung một số chương trình, hoạt động nằm trong nội
dung thực hiện công tác XĐGN của Hội LHPN thành phố Cẩm Phả như: tập
huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng,
vật nuôi, kỹ năng kinh doanh, chương trình hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế,
… Từ đó đánh giá được hiệu quả cũng như hạn chế của công tác XĐGN mà
Hội LHPN thành phố đã và đang tiến hành thực hiện.



4. Mục tiêu nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của Hội Phụ nữ
thành phố Cẩm Phả trong hoạt động hỗ trợ hội viên phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo.
4.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và nghiên cứu các văn bản liên quan đến chủ trương, chính
sách xóa đói giảm nghèo nói chung và địa phương nói riêng
- Tìm hiểu, đánh giá kết quả công tác xóa đói giảm nghèo của Hội phụ
nữ thành phố, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế của hoạt
động.
- Tổng hợp, đánh giá đưa ra những khuyến nghị giải pháp nhằm nâng
cao hoạt động của Hội phụ nữ thành phố Cẩm Phả trong công tác xóa đói
giảm nghèo.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định lượng và phân tích tài liệu có sẵn
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
6. Bố cục
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: Một số cơ sở về vấn đề hội phụ nữ thành phố Cẩm
Phả với phong trào xóa đói giảm nghèo.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Hội LHPN thành phố Cẩm
Phả với phong trào xóa đói giảm nghèo.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp, kiến nghị.
KẾT LUẬN


B – PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 – MỘT SỐ CƠ SỞ VỀ VẤN ĐỀ HỘI PHỤ NỮ
THÀNH PHỐ CẨM PHẢ VỚI PHONG TRÀO XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái luận về xóa đói giảm nghèo
a. Khái niệm về nghèo đói
Nghèo đói được coi là một vấn đề kinh tế - xã hội mang tính chất toàn
cầu. Nghèo đói không chỉ là vấn đề tồn tại ở những nước kém phát triển, mà
ngay ở những nước có nền kinh tế phát triển thì nghèo đói vẫn là một vấn đề
đang tồn tại và cần được giải quyết. Đối với những nước có nền kinh tế kém
phát triển, tỷ lệ người nghèo cao thì mục tiêu chung hướng đến sẽ là giảm tỷ
lệ người nghèo, nâng cao chất lượng sống cho người dân, đảm bảo cho
người dân có được mức sống cơ bản nhất. Đối với những nước có nền kinh
tế phát triển, thu nhập bình quân trên đầu người thuộc diện cao thì vẫn
không thể tránh khỏi việc trong xã hội tồn tại một bộ phận dân cư bị đánh
giá là nghèo.2 Và đặc biệt, đối với những nước có nền kinh tế càng phát triển
thì khoảng cách giàu nghèo càng cao. Do đó, đối với các nước thuộc nhóm
này thì sẽ hướng đến mục tiêu chung là xóa nghèo, rút ngắn khoảng cách
giữa người giàu và người nghèo, tạo sự công bằng trong xã hội đối với mọi
người dân. Như vậy, nghèo đói là một vấn đề mang tính toàn cầu, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, có rất nhiều
quan niệm khác nhau về nghèo đói, ở mỗi khu vực, ở mỗi hoàn cảnh khác
nhau thì lại có những quan niệm nghèo đói khác nhau và cũng sẽ có những
biện pháp thực hiện xóa đói giảm nghèo khác nhau.
Theo tác giả cổ Trung Quốc cho rằng: “ những người vẫn đang lo toan
cho bữa ăn đó là người nghèo, cuộc sống đới với người nghèo chỉ là sinh tồn
mà thôi”.3 Theo Robert McNamara, khi còn là giám đốc của Ngân hàng Thế
giới, ông đã cho rằng: nghèo đói tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của
tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh
tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách

vượt qúa sức tưởng tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của
giới trí thức chúng ta”. Theo Word Bank: “Nghèo là đói, thiếu nhà, bệnh
không được đến bác sỹ, không được đến trường, không biết đọc, biết viết,
không có việc làm, lo sợ cho cuộc sống tương lai, mất con do bệnh hoạn, ít
2

Nguyễn Hữu Tiến (2010), Tập bài giảng Chính sách Xóa đói giảm nghèo Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội, trang 7
3
/>

được bảo vệ quyền lợi và tự do”. 4 Theo các quan niệm trên, nghèo đói là sự
thiếu thốn về cả vật chất và phi vật chất. Vật chất bao gồm những điều kiện
như nhà ở, lương thực, phương tiện đi lại,… Phi vật chất là những yếu tố
liên quan đến đời sống tinh thần của con người: không được đến trường,
không được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không được tham
gia các dịch vụ vui chơi, giải trí.
Một chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) ông Abapia Sen –
người nhận giải thưởng Noben 1998 thì cho rằng: nghèo đói là sự thiếu cơ
hội lựa chọn tham gia vào các quá trình phát triển của cộng đồng. 5 Theo
quan điểm này, những người nghèo do bị thiếu thốn về cuộc sống nên không
thể có điều kiện được tham gia với cộng đồng trong việc phát triển chung.
Do đó, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo càng tăng, khoảng cách
vê trình độ dân trí cũng tăng cao.
Theo báo cáo gần đây của Liên hợp quốc, thì nhấn mạnh sự cần thiết
đưa phương pháp tiếp cận nghèo đói trên cơ sở quyền lợi của con người, cụ
thể: - Tự do: con người có quyền có một cuộc sống không bị đói khổ và bị
đe dọa do bạo lực, chống đối và bị tổn thương.- Bình đẳng: mọi người đều
có quyền hưởng thụ các thành quả của xã hội, có quyền tham gia vào các
hoạt động chung.- Sự khoan dung: mọi người cần phải được tôn trọng, bao

gồm cả niềm tin, văn hóa và ngôn ngữ. Theo quan điểm này, nghèo đói được
nhìn nhận một cách toàn diện hơn, không chỉ về mặt đời sống vật chất mà cả
tinh thần và ngôn ngữ.6
Như vậy, khi nói đến nghèo đói là nói đến sự “thiếu hụt” của con
người. Ở mỗi xã hội thì sẽ có một chuẩn riêng để đánh giá mức độ nghèo
riêng. Khi người dân không đủ những chuẩn chung đó và bị rơi vào tình
trạng thiếu hụt một hay nhiều yếu tố theo chuẩn đề ra thì họ sẽ bị coi là rơi
vào tình trạng nghèo đói. Những chuẩn này được đề ra dựa trên những điều
kiện cụ thể về kinh tế, xã hội của từng không gian, thời gian cụ thể và phải
được xã hội thừa nhận.
Đối với ở Việt Nam: Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo
lường mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với
chuẩn nghèo bình quân trên thế giới. Theo quyết định của thủ tướng chính
phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-TTg ký ngày 08 Tháng 07 năm 2005 về việc
ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010:

4

/>Tài liệu tập huấn dánh cho cán bộ làm công tác XĐGN cấp tỉnh, huyện, Nhà xuất bản Lao động – xã hội,
Hà Nội, 2004, trang 20
6
Tài liệu nhóm nghiên cứu, Xác định chuẩn nghèo của Việt Nam thời kỳ 2006 – 2010, Thuộc ban chỉ đạo
Chương trình quốc gia về XĐGN giai đoạn 2006 – 2010 (Báo cáo giai đoạn 1 – tháng 7/ 2004)
5



Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo.


Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ
260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là
hộ nghèo.7
Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 theo Chỉ thị số
175/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, mức chuẩn nghèo và cận nghèo
được xác định:
• Khu vực nông thôn: những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/ người/ tháng trở xuống là hộ nghèo. Những hộ có thu nhập bình quân
từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/ người/ tháng là hộ cận nghèo.
• Khu vực thành thị: những hộ có thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/ người/ tháng trở xuống là hộ nghèo. Những hộ có thu nhập bình quân
từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/ người/ tháng là hộ cận nghèo.
Chuẩn nghèo được thay đổi theo từng giai đoạn nhất định. Chuẩn
nghèo ngày càng tăng thể hiện sự nỗ lực lớn của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo.
b. Những đặc trưng cơ bản của nghèo đói
Thứ nhất, Đặc trưng về nhân khẩu học.
Các hộ thuộc diện nghèo thường có số nhân khẩu trong gia đình cao
hơn bình quân so với các hộ gia đình bình thường. 8 Nguyên nhân của tình
trạng này là do người nghèo thường đẻ nhiều, đẻ dày. Đây là vừa là nguyên
nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Mức độ hiểu biết của các gia đình nghèo
về sinh sản còn nhiều hạn chế, lại thêm những quan niệm lạc hậu nên nhiều
gia đình vẫn không nhận thức được hệ quả của việc gia tăng nhân khẩu.
Theo đó, những hộ gia đình nghèo đông con sẽ kéo theo tỉ lệ người ăn theo
cao, làm cho chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng sâu sắc. Việc các hộ gia
đình có đông con nhưng lại thiếu nguồn lao động là một nghịch lý đang xảy
ra ở nước ta.
Biểu 1: Cơ cấu phân theo giới tính của Việt Nam
Đơn vị: %

Năm
Giới

7

Năm
2006

Năm
2007

Năm
2008

Năm
2009

Năm
2010

/>Nguyễn Hữu Tiến (2010), Tập bài giảng Chính sách Xóa đói giảm nghèo Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội, trang 22
8


Nam

49.21

49.21


49.29

49.43

49.46

Nữ

50.79

50.79

50.71

50.57

50.54

(Nguồn:Tổng cục thống kê)
Theo cơ cấu dân số Việt Nam phân theo giới thì tỷ lệ nữ luôn chiếm tỷ
lệ cao hơn nam. Trong gia đình, người phụ nữ là người có vai trò rất quan
trọng trong việc duy trì giống nòi và thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Là
người vợ, người mẹ trong gia đình, người phụ nữ cần ý thức được những hậu
quả của việc sinh đẻ không có kế hoạch. Từ đó để có thể hạn chế và điều
chỉnh mức sinh cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình. Tuy nhiên, để có thể
thực hiện tốt công tác này thì cũng cần có sự phối hợp từ người chồng,
người cha trong gia đình.
Thứ hai, sự tiếp cận giáo dục đối với người nghèo còn hạn chế
Đây là một hệ quả của việc đông con trong đối với các gia đình thuộc

diện nghèo. Vì nghèo đói, nên nhiều gia đình không có khả năng cho con
tham gia theo học mà phải ở nhà để tham gia vào sản xuất kinh tế,… Trình
độ dân trí thấp, nên người nghèo ít có khả năng tiếp cận với các tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, do đó sản xuất chính của họ vẫn chủ yếu là nông nghiệp
thuần túy. Với phương thức sản xuất nông nghiệp truyền thống thì người
nghèo khó có thể nâng cao được hiệu quả kinh tế cũng như năng suất lao
động. Vì vậy, đời sống vẫn không được cải thiện, thu nhập vẫn thấp thì việc
trang trải cho các nhu cầu thiết yếu của sinh hoạt hằng ngày đã khó, còn nói
gì đến việc đầu tư cho con cái học hành. Và cứ như thế, người nghèo sẽ bị
rơi vào một cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Trong nhiều gia đình nông thôn hiện nay vẫn tồn tại tư tưởng “trọng
nam khinh nữ”. Do đó, người phụ nữ ít được tiếp xúc với các dịch vụ của
giáo dục. Hơn nữa, nữ giới là đối tượng hay bị bỏ học hơn nam giới. Vì vậy,
những kiến thức của phụ nữ về các vấn đề xã hội, về trình độ chuyên môn
còn rất hạn chế. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của hội LHPN.
Bởi hoạt động của hội cần có sự phối hợp và hỗ trợ của nhiều ban ngành,
đoàn thể khác nhau. Do đó, đòi hỏi các cán bộ và các hội viên Hội LHPN
cần có một trình độ nhất định để có thể tuyên truyền, giải thích cho các chị
em hiểu rõ hơn về các chương trình, hoạt động của Hội. Đồng thời, các hội
viên cũng cần phải có hiểu biết để có thể nắm bắt được những chủ trương
mà Hội phổ biến.
Thứ ba, người nghèo dễ bị tổn thương.


Khi bị rơi vào tình trạng nghèo đói, con người sẽ bị thiếu thốn rất nhiều
thứ để đảm bảo cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Và khi đó, người nghèo
sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cả về chủ quan và khách quan tác động
vào.
Đứng trước những khó khăn, rủi ro như: bệnh tật, thiên tai,… thì người

nghèo là đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất. Đối với các hộ
nghèo thì việc trang trải cho cuộc sống hằng ngày đã là một khó khăn lớn,
họ không có dự trữ để phòng chống cho những rủi ro có thể xảy ra. Do đó,
nếu trong xã hội có biến động như: lạm phát, suy thoái kinh tế,…
Đối với người phụ nữ, theo những quan điểm truyền thống thì họ là
“phái yếu” trong xã hội. Tuy nhiên, với những hoạt động tích cực, cùng
những thành tựu đạt được trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, vai
trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội ngày càng được nâng
cao. Giờ đây, phụ nữ nghèo đã được đứng ra để vay vốn, được tham gia các
lớp chuyển giao khoa học kỹ thuật, được tạo cơ hội việc làm,… để người
phụ nữ có thể chủ động và độc lập trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thứ tư, người nghèo không có tiếng nói, không có địa vị trong xã hội
Người nghèo được coi là nhóm yếu thế trong xã hội. Do hạn chế về
trình độ dân trí nên người nghèo ít khi được tham gia đóng góp vào các vấn
đề của xã hội. Nguyên nhân ở đây là do bản thân người nghèo không có
những hiểu biết cơ bản về các vấn đề xã hội nên khi tiếp xúc với mọi người
xung quanh, cũng như tiếp xúc với một sự kiện xã hội nào đó thì người
nghèo thường tỏ ra rụt rè.
Hằng năm, có rất nhiều chương trình nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói
giảm nghèo. Tuy nhiên, những chương trình đó lại đi vào thất bại và người
nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nguyên nhân dẫn đến những thất bại của các
chương trình đó là do người nghèo không biết sử dụng những nguồn vốn
được hỗ trợ, không hiểu được những cách thức triển khai của chương trình,
… Tóm lại là những chương trình trên được đưa ra nhưng hoàn toàn không
phù hợp với năng lực cũng như điều kiện của người nghèo.
Trong thực tế, vai trò của người phụ nữ trong sản xuất gia đình và các
hoạt động xã hội còn rất nhiều hạn chế. Người phụ nữ chưa thể phát huy hết
năng lực cũng như trình độ của mình. Đó là chưa kể đến phụ nữ nghèo, đây
là một đối tượng yếu thế trong xã hội và rất cần được quan tâm. Những tư
tưởng lạc hậu, những quan niệm cổ hủ đã làm cho người phụ nữ nghèo trở

nên tự ti với chính bản thân mình, làm cho họ có tâm lý mạc cảm với mọi
người xung quanh. Vì vậy, cần có cái nhìn đúng đắn hơn về người phụ nữ
nói chung và đối với người phụ nữ nghèo nói riêng. Đây là một lực lượng
tiềm năng cần phải được quan tâm sâu sắc hơn.


Thứ năm, người nghèo thường tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng
sâu, vùng xa
Biểu 2: Cơ cấu dân số phân theo khu vực của Việt Nam
Đơn vị: %
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Khu vực
2006
2007
2008
2009
2010
Nông thôn

72.34

71.8

71.01


70.26

69.83

Thành thị

27.66

28.2

28.99

29.74

30.17

(Nguồn: Số liệu thống kê của Tổng cục thống kê)
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục thống kê, năm 2010 dân số nước ta
có 30,17% dân số tập trung ở thành thị, còn lại 69,83% dân số tập trung ở
nông thôn. Như vậy, nông thôn là nơi tập trung đông dân số của cả nước.
Trong khi đó, phần lớn dân cư tập trung ở nông thôn là nông dân, những
người sản xuất nông nghiệp. Do chưa có điều kiện để áp dụng những tiến bộ
của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên sản xuất nông nghiệp còn chưa đạt
hiệu quả cao, sản xuất không ổn định, năng suất thấp.
Miền núi, vùng sâu vùng xa là những địa bàn có địa hình khó khăn cho
việc phát triển kinh tế, văn hóa,… Phần lớn dân cư tập trung ở vùng núi,
vùng xâu vùng xa có nền kinh tế còn kém phát triển, trình độ dân trí thấp.
Bên cạnh đó, trong xu hướng đô thị hóa hiện nay thì tỷ lệ nữ ở nông
thôn ngày càng tăng. Phần lớn những người di dân đến các thành phố, khu
công nghiệp để tìm kiếm việc làm là nam giới. Đây là thực tế dẫn đến sự

chênh lệch về tỷ lệ nam và tỷ lệ nữ giữa các khu vực như hiện nay.
c. Tổng quan về công tác xóa đói giảm nghèo
Công tác xóa đói giảm nghèo là quá trình đưa ra chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống
cho người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, xã nghèo trên cả nước. Công tác
xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải
quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp thích hợp để
tiến hành xóa đói giảm nghèo, kết hợp phát huy nội lực với trợ giúp quốc tế.
Nhà nước đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách
bền vững đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp
đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước


sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào nghèo trong các dân tộc
thiểu số. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mạnh các
doanh nghiệp, trước hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ giàu đầu tư
vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi.
Ở Việt Nam, xóa đói giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. XĐGN được xác định là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã
hội và tăng trưởng kinh tế. Một nước phát triển là một nước mà không còn
nghèo đói, người dân được bình đẳng tham gia vào các dịch vụ xã hội. Và
đối với một quốc gia như Việt Nam thì truyền thống lâu đời của nền nông
nghiệp lúa nước đã ăn sâu vào tư tưởng của người dân. Trong xã hội vẫn tồn
tại những tư tưởng trọng nam khinh nữ, người phụ nữ không được coi trọng
trong việc đóng góp vào sản xuất kinh tế. Tuy nhiên, từ Đại hội Đảng lần
thứ VI, VII,VIII và IX, Đảng ta đều khẳng định: cùng với quan điểm đổi
mới toàn diện, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với XĐGN, thực hiện công

bằng xã hội, bình đẳng giới, giảm sự phân biệt giàu nghèo. Đảng đã chủ
trương tập trung mọi nguồn lực để tham gia công tác XĐGN. Và Hội LHPN
Việt Nam cũng là một nguồn lực quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
quốc gia về XĐGN. Tính đến năm 2006, Hội đã giúp được gần 800.000 hộ
nghèo, trong đó có hơn 114.000 hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ đã thoát
được nghèo và ổn định sản xuất, tăng thu nhập.
Thành phố Cẩm Phả là một trong những địa bàn của tỉnh Quảng Ninh
đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong công tác xóa đói giảm nghèo những
năm qua. Hiện nay, huyện đang thực hiện một số chính sách, chương trình,
dự án giảm nghèo như:
- Chính sách, dự án tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất,
tăng thu nhập
- Các chính sách tạo cơ hội cho người nghèo được tiếp cận với các dịch
vụ xã hội như: tổ chức các lớp tập huấn cho người nghèo để họ được tiếp thu
kiến thức khoa học, kỹ thuật, thực hiện chính sách cho vay vốn ưu đãi tín
dụng cho hộ nghèo, vệ sinh nước sạch môi trường, giao thông thủy lợi, xây
dựng cơ sở vật chất hạ tầng.
- Các dự án nâng cao năng lực và nhận thức được nhân lên rõ rệt: tiếp
tục thực hiện công tác tập huấn nâng cao năng lục cho cán bộ cơ sở thực
hiện tốt chương trình giảm nghèo, tuyên truyền phổ biến về đường lối chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao nhận thức cho
nhân dân.
Tính riêng năm 2012, thành phố đã giải quyết việc làm và đào tạo nghề
cho trên 4.600 lao động, hỗ trợ xây mới và sửa chữa 37 nhà ở cho các gia
đình chính sách, hộ nghèo với tổng kinh phí gần 4 tỷ đồng; cấp thẻ BHYT


cho 711 người thuộc hộ nghèo; 1.085 người thuộc hộ cận nghèo. Từ những
sự hỗ trợ này, công tác giảm nghèo của thành phố đã đạt được những kết quả
đáng kể, đến cuối năm 2012 số hộ nghèo trên địa bàn thành phố chỉ còn 316

hộ, chiếm 0,6%. Trong thời gian tới thành phố có kế hoạch từng bước giảm
bền vững tỉ lệ hộ nghèo.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên thì công tác xóa đói giảm
nghèo của thành phố Cẩm Phả vẫn còn gặp phải những tồn tại. Thứ nhất là
những bất cập trong chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo như: nguồn
cho các hộ nghèo vay còn quá ít, không đáp ứng đủ nhu cầu thực tiễn, các
dự án cho vay trên địa bàn huyện còn chậm. Thứ hai là những tồn tại trong
phân cấp quản lý và bố trí nguồn vốn để thực hiện. Thứ ba là việc phối hợp
giữa các tổ chức đoàn thể còn chưa nhịp nhàng, đôi khi còn chậm. Thứ nữa
là sự chồng chéo trong bố trí nguồn nhân lực thực hiện công tác xóa đói
giảm nghèo còn chưa hiệu quả, nhận thức của các cấp và người dân còn
thiếu khoa học về hoạt động của công tác xóa đói giảm nghèo, việc huy
động nguồn lực tại chỗ để thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế.
Để cho công tác XĐGN thực sự thu được kết quả thì bên cạnh việc huy
động các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân thì còn cần phải có sự phối
hợp thực hiện giữa các cấp, các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội có liên
quan. Hội LHPN đóng một vai trò quan trọng trong việc phát huy được năng
lực của các hội viên để góp phần thực hiện chính sách XĐGN.
d. Vị trí và vai trò của công tác xóa đói giảm nghèo
Công tác XĐGN có một vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc
phát triển của đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng.
Về mặt kinh tế: Thực hiện tốt công tác XĐGN sẽ làm cho đời sống của
người dân được nâng cao, kinh tế hộ ổn định và đưa nền kinh tế chung của
đất nước phát triển. Đồng thời, công tác XĐGN cũng có những tác động
ngược lại làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nếu thực hiện không có
hiệu quả.
- Thứ nhất: công tác XĐGN hướng đến đối tượng chung là người
nghèo. Một trong những nguyên nhân để các cá nhân bị rơi vào cảnh nghèo
là do không có thu nhập. Do đó, công tác XĐGN hướng đến tạo thêm công
ăn việc làm cho người nghèo để họ có thêm thu nhập.

- Thứ hai: hằng năm, Đảng và Nhà nước ta đang tập trung một nguồn
vốn rất lớn cho việc thực hiện công tác XĐGN. Công tác XĐGN thực hiện
tốt, tỷ lệ hộ nghèo giảm thì sẽ giúp giảm gánh nặng về tài chính cho nền
kinh tế của nước ta. Người nghèo sẽ được thoát nghèo và có khả năng tự lập
về kinh tế mà không cần đến sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.


- Thứ ba: hiện nay, khoảng cách giàu nghèo đang là một vấn đề đáng
được quan tâm. Công tác XĐGN sẽ giúp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Theo đó, mọi người dân trong xã hội sẽ được hưởng những dịch vụ xã hội
tương đương nhau, góp phần thực hiện bình đẳng trong xã hội.
Về mặt chính trị - xã hội: nghèo đói cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội. Do đó, việc thực hiện tốt
công tác XĐGN sẽ tạo điều kiện để giữ vững được chính trị, ổn định được
xã hội. Và khi chính trị được giữ vững, xã hội được ổn định thì nền kinh tế
mới có điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, nếu công tác XĐGN không được
thực hiện tốt thì sẽ làm cho người dân mất lòng tin ở Đảng và Nhà nước.
Đây sẽ là một khe hở nguy hiểm mà các thế lực thù địch bên ngoài luôn
muốn hướng đến.
Bên cạnh đó, đói nghèo cũng đang là một nguyên nhân làm cho các tệ
nạn xã hội có cơ hội để phát triển. Do không có việc làm, nên người nghèo
dễ rơi vào những tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm,… Và khi
không có tiền để phục vụ những nhu cầu trên thì lại phát sinh những hiện
tượng: bạo hành gia đình, giết người cướp của,… Đây là một mối lo lớn cần
phải nhanh chóng được ngăn chặn. Do đó, thực hiện tốt công tác XĐGN sẽ
giúp hạn chế được những tệ nạn phát sinh trong xã hội.
Về mặt văn hóa – giáo dục: một trong những đặc trưng của người
nghèo là sự tiếp cận về giáo dục của người nghèo còn hạn chế. Do đó, thực
hiện tốt công tác XĐGN sẽ tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận gần
hơn với các dịch vụ giáo dục, cơ hội được tham gia vào các hoạt động văn

hóa của xã hội. Từ đó sẽ làm cho đời sống tinh thần và trình độ dân trí của
người dân được nâng cao. Giúp cho người nghèo có cơ hội được tham gia,
đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
1.1.2. Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ trong phong trào xóa đói giảm
nghèo
a. Hội phụ nữ
Hội phụ nữ (Hội liên hiệp phụ nữ) là một tổ chức chính trị xã hội, tập
hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam. Hội là thành viên của Mặt trận
tổ quốc và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp hội các nước Đông
Nam Á).
Hội phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có chức
năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng
của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn
kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách


của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội tham gia tích cực trong các hoạt động và hòa bình đoàn kết hữu
nghị giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Hoạt động chủ yêu
là vì sự bình đẳng tiến bộ và phát triển phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp
pháp và chính đảng của phụ nữ. Tổ chức của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
bao gồm Hội phụ nữ ở các cấp hành chính (Tỉnh/ thành phố, huyện, xã,
thôn)
Hội thực hiện các nhiệm vụ chính như:
- Tuyên truyền, vận động, giáo dục phụ nữ giữ gìn, phát huy phẩm
chất đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; tổ chức, tạo điều
kiện để phụ nữ nâng cao nhận thức, trình độ, năng lực về mọi mặt, tích cực
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.

- Tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật
pháp, chính sách về bình đẳng giới, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của phụ nữ; tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về công tác phụ
nữ nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện bình đẳng và phát triển.
- Tập hợp các tầng lớp phụ nữ, phát triển hội viên, xây dựng tổ chức
Hội vững mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đa dạng các nguồn thu hợp pháp để xây dựng và phát triển quỹ hội
bền vững, hỗ trợ cho hoạt động của Hội.
- Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
b. Vai trò của hội phụ nữ
Tư tưởng coi nam giới là “trụ cột” còn phụ nữ luôn gắn với vai trò nội
trợ, chăm sóc gia đình đã gây ra cách nhìn lệch lạc về vai trò của mỗi giới
dẫn đến thiếu sự chia sẻ, trách nhiệm giữa nam giới và phụ nữ trong công
việc gia đình và tham gia các hoạt động xã hội. Tư tưởng này đã ảnh hưởng
rất lớn đến sự đóng góp vào việc phát triển kinh tế, cũng như sự tham gia
của phụ nữ vào các công việc của xã hội, làm hạn chế khả năng của người
phụ nữ nói chung và của các hội viên của hội phụ nữ nói riêng.
Hội LHPN là một trong những chủ thể quan trọng trong việc thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, Hội LHPN đã phối hợp với nhiều
tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho các hội viên có điều kiện để phát triển kinh


tế. Hoạt động hỗ trợ vốn của Hội LHPN được triển khai từ khi thành lập hội
(ngày 20/ 10/ 1930). Các chương trình hỗ trợ kinh tế do Hội LHPN Việt
Nam phát động đã thu hút được các hội viên tham gia, gia tăng số hội viên ở
các cơ sở, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội. Trong những năm
gần đây, thực hiện chủ trương XĐGN của Đảng, Chính phủ và thực hiện
Nghị quyết TW 7 khóa IX, với chủ trương về cơ sở và tập trung cho cơ sở,

nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ nghèo, Hội LHPN Việt Nam đã đề ra chỉ
tiêu trên 80% số hộ nghèo do phụ nữ làm chủ hộ được Hội giúp đỡ. Các cấp
Hội đã đẩy mạnh các phong trào như: “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”,
“Giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ”, “Phụ nữ làm kinh tế giỏi”,.. và đã huy động
được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp phự nữ vào các hoạt động
XĐGN với nhiều hình thức sáng tạo, đa dạng, phù hợp… Năm 2006, số vốn
do các cấp Hội quản lý đã lên tới 10.550 tỷ đồng, trong đó vốn vay từ Ngân
hàng NN&PTNT và Ngân hàng CSXH là hơn 9.000 tỷ đồng, chiếm hơn
86% trong tổng số vốn do các cấp Hội quản lý. Riêng năm 2006, hưởng ứng
đợt thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động, các cấp hội đã đóng góp sửa
và xây mới gần 3.000 ngôi nhà, giúp chị em phụ nữ nghèo ăn cư, lạc nghiệp.
Từ năm 2010 đến nay, Hội LHPN Việt Nam đã tổ chức xây dựng thí điểm
các mô hình hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm tại Hà Nội, Quảng Bình và
Thành phố Hồ Chí Minh. Hội cũng đã tổ chức 30 cuộc tư vấn học nghề và
lập nghiệp cho hơn 900 lượt phụ nữ tại cộng đồng, tổ chức hội nghị khách
hàng và tổ chức dạy nghề theo mô hình “3 trong 1” (dạy nghề, thực hành
nghề và hỗ trợ việc làm).9 Để tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác XĐGN
trong thời gian tới, Hội LHPN Việt Nam tập trung chỉ đạo một số hoạt động:
tăng cường các biện pháp giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ, nhất là phụ nữ vùng
sâu vùng xa. Phối hợp với các ban ngành, chính quyền địa phương,… tiến
hành rà soát lại danh sách hộ đói nghèo do phụ nữ làm chủ. Bên cạnh đó,
Hội tiếp tục duy trì phong trào “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế”, tăng
cường khai thác các nguồn vốn đặc biệt từ Ngân hàng CSXH, phát triển quỹ
“Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”. Tiếp tục thực hiện tập huấn cho chị em
hội viên về các hình thức vay vốn, quản lý vốn, đào tạo nghề, giới thiệu việc
làm.
Công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh quảng Ninh trong những năm
qua được phổ biến rộng rãi, thu hút nhiều ban ngành và quần chúng nhân
dân tham gia. Đặc biệt, với sự tham gia tích cực của Hội LHPN tỉnh quảng
Ninh, trong những năm gần đây, tỷ lệ hội viên phụ nữ nghèo đã giảm xuống

9

Minh Nguyệt (Văn phòng
tổng hợp - Hội LHPN Việt Nam), Hội LHPN Việt Nam đẩy mạnh công tác dạy nghề và tạo việc làm cho
lao động nữ. Báo Hội LHPN Việt Nam, cập nhật ngày 14/10/2011


đáng kể. Xuất hiện nhiều tâm gương phụ nữ làm kinh tế giỏi, vươn lên phát
triển kinh tế, tạo việc làm cho nhiều lao động trong tỉnh. Để có được thành
quả trên là nhờ vào sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh cùng với đội ngũ cán bộ Hội
các cấp trong tỉnh. Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh rất coi trọng việc XĐGN,
tạo điều kiện để các hộ phụ nữ trong diện đói nghèo có điều kiện vươn lên
thoát nghèo.
Thực hiện chỉ đạo chung của Hội LHPN tỉnh Quảng Ninh và Đảng bộ
thành phố, Hội LHPN thành phố Cẩm Phả đã thực hiện rất có hiệu quả hoạt
động hỗ trợ vốn cho hội viên để phát triển kinh tế, hoạt động đào tạo nghề
gắn với tạo việc làm cho chị em phụ nữ, hoạt động chuyển giao khoa học kỹ
thuật,… Mục đích chung của các hoạt động là tạo điều kiện thuận lợi để các
hội viên hội phụ nữ nói riêng và người nghèo nói chung có cơ hội vươn lên
thoát nghèo, ổn định đời sống, phát triển kinh tế. Trong suốt chặng đường
hoạt động, Hội đã tập hợp đoàn kết đông đảo các tầng lớp phụ nữ tham gia,
phát huy được truyền thống của người phụ nữ, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng địa phương. Cùng với Hội LHPN Việt Nam, ngay từ khi thành lập, Hội
LHPN thành phố Cẩm Phả đã chú trọng đến hoạt động hỗ trợ hội viên phát
triển kinh tế, giúp hội viên thoát nghèo, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống.


1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm, tình hình của thành phố Cẩm Phả
a. Điều kiện địa lý tự nhiên, dân số

Về vị trí địa lý.
Cẩm Phả nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 200 km về phía đông bắc,
cách trung tâm thành phố Hạ Long 30 km, có toạ độ địa lý từ 20o58'10 21o12' vĩ độ bắc, 107o10' - 107o23'50 kinh độ đông. Phía đông của thành phố
giáp với huyện Vân Đồn, phía tây giáp huyện Hoành Bồ và thành phố Hạ
Long, phía nam giáp thành phố Hạ Long và huyện Vân Đồn, và phía bắc
giáp huyện Ba Chẽ và huyện Tiên Yên.
Về điều kiện tự nhiên.
Cẩm Phả có diện tích tự nhiên 486,45 km², địa hình chủ yếu đồi núi.
Đồi núi chiếm 55,4% diện tích, vùng trung du 16,29%, đồng bằng 15,01%
và vùng biển chiếm 13,3%. Ngoài biển là hàng trăm hòn đảo nhỏ, phần lớn
là đảo đá vôi. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23oC, độ ẩm trung bình
84,6%, lượng mưa hàng năm 2.307 mm, mùa đông thường có sương mù.
Về dân cư.
Tính đến ngày 21 tháng 02 năm 2012, dân số tại thành phố Cẩm Phả có
195.800 người, với mật độ dân số đạt 403 người/km², dân số nam chiếm
59% dân số nữ chiếm 47%. Hầu hết dân số ở đây là người Kinh chiếm
95,2% dân số, còn lại đáng kể là người Sán Dìu với 3,9%, các dân tộc khác
sống xen kẽ rải rác trong địa bàn toàn thành phố. Người Cẩm Phả phần lớn
là công nhân ngành than, có nguồn gốc từ vùng đồng bắc Bắc Bộ.

b. Tình hình kinh tế- xã hội
Chặng đường phát triển của thành phố Cẩm Phả ngày nay gắn liền với
chặng đường 60 năm đấu tranh, xây dựng và trưởng thành của Vùng mỏ kể
từ ngày Giải phóng, ngày 25 tháng 4 năm 1955. Trải qua những năm tháng
thăng trầm của lịch sử, với truyền thống “Kỷ Luật và Đồng Tâm”, các thế hệ
những con người Vùng Mỏ đã xây dựng Cẩm Phả vươn lên mạnh mẽ, trở
thành thành phố đô thị loại 2, phát triển năng động và đầy triển vọng.
Trong 5 năm qua, tình hình kinh tế - chính trị thế giới và khu vực có
diễn biến phức tạp, có nhiều tác động xấu đến phát triển kinh tế và đời sống



của nhân dân thành phố Cẩm Phả và ngành Than. Song nhờ sự đoàn kết
thống nhất cao trong cấp ủy đảng, chính quyền, sự vào cuộc tích cực và
đồng thuận của nhân dân, bằng tinh thần chủ động, sáng tạo, Đảng bộ thành
phố đã vượt qua khó khăn, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Kinh tế thành phố tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng kinh tế
bình quân đạt 13,4%/năm. Cơ cấu tỷ trọng các ngành kinh tế tiếp tục khẳng
định tiềm năng, thế mạnh của thành phố: Công nghiệp (74,8%), dịch vụ
(24,4%); giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp còn 0,8%. Thu ngân sách luôn
đạt và vượt kế hoạch được giao, bình quân tăng trên 10%/năm. Thu nhập
bình quân đầu người đạt 55 triệu đồng/năm, tăng gấp 2 lần so với năm 2010.
Tổng đầu tư toàn xã hội trên địa bàn thành phố 5 năm đạt trên 120.000 tỷ
đồng, gấp 3 lần so với giai đoạn 2006-2010; trong đó vốn đầu tư từ khu vực
tư nhân và đầu tư nước ngoài chiếm trên 70%.
Công tác cải cách hành chính đạt được kết quả nổi bật, đã đưa 100%
thủ tục vào giải quyết tại Trung tâm phục vụ hành chính công. Cơ sở hạ
tầng, nhất là hạ tầng đô thị được tập trung đầu tư, đồng thời đã thu hút được
sự tham gia tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị trong vận động,
tuyên truyền tạo được đồng thuận cao của nhân dân và cộng đồng các doanh
nghiệp tham gia hiến đất, đóng góp công sức, huy động nguồn lực vào xây
dựng hạ tầng, chỉnh trang, nâng cấp đô thị và thực hiện nếp sống văn minh
đô thị. Năm 2012, thị xã Cẩm Phả được nâng cấp trở thành thành phố, đầu
năm 2015 được công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh.
Với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống, thành phố Cẩm Phả luôn
quan tâm đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Trong đó, chú trọng thực
hiện đầy đủ các hoạt động hỗ trợ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng,
người nghèo, các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt.
Thành phố Cẩm Phả luôn xác định công tác xoá đói giảm nghèo; hỗ trợ
dạy nghề và tạo điều kiện tiếp cận việc làm; giúp đỡ các đối tượng chính

sách, người có hoàn cảnh khó khăn… là những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên
suốt. Qua đó, với những nỗ lực thực hiện, cùng sự vào cuộc của các cấp, các
ngành, sự sẻ chia từ những tấm lòng vàng của các tổ chức, cá nhân đã giúp
cho công tác an sinh trên địa bàn thành phố đạt được nhiều kết quả quan
trọng. Trong công tác xoá đói giảm nghèo, thành phố đã chủ động xây dựng
các giải pháp, linh hoạt trong cách làm để nâng cao hiệu quả công tác giảm
nghèo một cách bền vững. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ, phụ


nữ thể hiện rõ vai trò của mình trong việc nắm bắt kịp thời đặc điểm, lợi thế
của địa phương, khai thác các tiềm năng sẵn có,… tạo công ăn việc làm,
tăng thu nhập ổn định cho người lao động. Trong một số lĩnh vực sản xuất
kinh doanh, phụ nữ cũng là lực lượng chủ yếu làm ra sản phẩm như: nông
sản, các sản phẩm làm từ len ( mũ, ái ghile, túi xách,…),… Như vậy, phụ nữ
ngày càng khẳng định được vị thế cũng như vai trò của mình trong việc phát
triển kinh tế gia đình. Bên cạnh đó, các chị em còn tham gia tạo công ăn việc
làm cho các lao động, nhằm nâng cao đời sống của người dân địa phương.
Bên cạnh công tác xoá đói giảm nghèo, TP Cẩm Phả cũng thực hiện
mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ cấp cho các đối tượng chính
sách trên địa bàn. Cùng với đó, công tác tiếp nhận và thẩm định các hồ sơ
liên quan đến vấn đề đối tượng nhiễm chất độc da cam; giải quyết chế độ
thăm viếng, di chuyển hài cốt liệt sĩ, chế độ ưu đãi giáo dục cho con em
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ; tổ chức cho các đối tượng hoạt động
kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học và người có công điều trị, điều
dưỡng tại các cơ sở y tế… cũng được thực hiện đầy đủ. Hàng năm, vào các
dịp lễ, tết…, các hoạt động thăm hỏi, tặng quà các đối tượng gia đình chính
sách, người có công, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt… được thành phố quan
tâm. Có thể thấy những kết quả đạt được trong công tác đảm bảo an sinh xã
hội đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc và nỗ lực cao của các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và các tổ chức, cá nhân trên địa bàn thành phố Cẩm Phả. Trong

thời gian tới, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá
xã hội, hy vọng với những kết quả đã đạt được sẽ là động lực để thành phố
Cẩm Phả từng bước xoá đói giảm nghèo bền vững, nâng cao mức sống vật
chất và tinh thần cho nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của
tỉnh.
c. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức bộ máy của hội phụ nữ thành phố
Cẩm Phả
1- THÔNG TIN CHUNG:
Tên cơ quan : Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Cẩm Phả
Địa chỉ : 207 - Trần Phú - Cẩm Tây - Cẩm Phả - Quảng Ninh
Điện thoại/Fax : 0333.968.262
2- TỔ CHỨC BỘ MÁY :


1) Chủ tịch Hội : bà Trịnh Thị Huệ
- Ngày sinh : 14/02/1968
- Dân tộc : Kinh
- Trình độ chuyên môn : Đại học Kinh tế
- Trình độ lý luận chính trị : Cao cấp
- Email:

2) Phó Chủ tịch Hội Thường trực : bà Nguyễn Thị Kim Hiên

- Ngày sinh : 21/5/1980
- Dân tộc : Kinh
- Trình độ chuyên môn : Đại học Sư phạm
- Trình độ lý luận chính trị : Trung cấp
- Điện thoại cơ quan : 0333.863.014
- Email:


3) Phó Chủ tịch Hội : bà Phạm Mai Hương

- Ngày sinh : 16/3/1982
- Dân tộc : Kinh
- Trình độ chuyên môn : Đại học Sư phạm
- Trình độ lý luận chính trị : Trung cấp
- Email:


3- CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ :
3.1. Chức năng:
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có chức năng Đại diện chăm lo, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia
xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước; Đoàn kết, vận động, phụ nữ
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
3.2. Nhiệm vụ: Hội Liên hiêp Phụ nữ Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ sau
đây:
(1) Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm
chất đạo đức, lối sống, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước;
(2)Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận
động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh
phúc; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
(3) Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia
đình và trẻ em;

(4) Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
(5) Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ
trong khu vực và thế giới vì bình đẳng, phát triển và hòa bình.
Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Quảng
Ninh, Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Cẩm Phả, sự phối hợp, tạo điều
kiện của chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị, Hội liên
hiệp phụ nữ thành phố Cẩm Phả đã đoàn kết khắc phục mọi khó khăn, nỗ
lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ mà Tỉnh Hội và Thành uỷ Cẩm Phả giao


cho, góp phần vào hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương./.

1.2.2. Cơ sở pháp lý


CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ THÀNH PHỐ CẨM PHẢ VỚI PHONG TRÀO XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
2.1. Tổ chức thực hiện
2.1.1. Chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
Chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế là chương trình mũi
nhọn, là hoạt động hỗ trợ thúc đẩy phong trào phụ nữ và hoạt động của Hội.
Mục đích mà chương trình hướng đến là: nâng cao vị thế của người phụ nữ
trong gia đình và với các hoạt động xã hội. Chương trình là cơ sở giúp cho
chị em có điều kiện để nâng cao đời sống, góp phần thực hiện chủ trương:
tăng hộ khá, giảm hộ nghèo mà huyện đã đề ra. Hội LHPN thành phố đã tiến
hành ba nội dung chính trong Chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế
là: hỗ trợ vốn, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, giới thiệu và tạo việc
làm.

Với phương châm "Hướng mạnh về cơ sở, tập trung hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập". Trong những năm qua, Hội đã
triển khai tốt việc hỗ trợ phụ nữ, đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ phù hợp
với điều kiện và khả năng phát triển của mỗi địa phương đã thu hút được hội
viên tích cực tham gia. Hàng năm, thực hiện chương trình hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, Hội khảo sát tìm nguyên nhân
dẫn đến đói nghèo để có kế hoạch huy động nguồn vốn tại chỗ, sử dụng tốt
nguồn vốn đã có, vận động cán bộ hội tham gia đóng góp vốn giúp phụ nữ
nghèo, tổ tín dụng tiết kiệm.
Để phong trào đạt được hiệu quả cao, Hội LHPN thành phố Cẩm Phả
chỉ đạo các cơ sở hội bám sát nghị quyết các cấp xây dựng nội dung, chương
trình hành động cụ thể và đề ra những giải pháp kịp thời để triển khai đồng
bộ, đạt yêu cầu đề ra. Phối hợp với các ngành khảo sát điều tra hộ đói nghèo,
mở lớp tập huấn, hướng dẫn cho chị em phụ nữ áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, đẩy mạnh chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tổ chức và
nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế... Song song với việc hỗ trợ vay
vốn, các cấp Hội Phụ nữ thành phố Cẩm Phả đã tích cực phối hợp tuyên
truyền, vận động hội viên thực hiện tốt việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, áp dụng kỹ thuật mới, tích cực thâm canh nâng cao năng suất, chất
lượng. Thường xuyên định hướng cho hội viên tập trung vào sản xuất các
mặt hàng phù hợp với nhu cầu thị trường. Xây dựng các mô hình phát triển
kinh tế phù hợp với tiềm năng sẵn có của địa phương.


Hoạt động tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật là một trong những
hoạt động quan trọng nằm trong Chương trình “Hỗ trợ phụ nữ phát triển
kinh tế” mà Hội LHPN thành phố đang tiến hành trong thời gian qua. Hoạt
động nhằm đưa đến cho các chị em hội viên những kiến thức mới về khoa
học kỹ thuật, giúp chị em hiểu và biết cách vận dụng hiệu quả những tiến bộ
của khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Việc tổ chức các lớp tập huấn chuyển

giao khoa học kỹ thuật đối với chị em hội viên sẽ là tiền đề quan trọng trong
việc cải tạo sản xuất, nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm, tăng thu
nhập, ổn định đời sống cho các hội viên.
Chị Trịnh Thị Huệ, Chủ tịch Hội LHPN thành phố cho biết: Chúng tôi
đã phối hợp với Liên minh HTX tỉnh, Trung tâm Dạy nghề Hội LHPN tỉnh
và Phòng LĐ-TB&XH thành phố tổ chức tập huấn về chuyển giao khoa học
kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, kỹ năng kinh doanh,
các lớp học nghề cho chị em phụ nữ nghèo, cận nghèo. Trong 5 năm qua,
chúng tôi đã thực hiện 7 lớp tập huấn kiến thức kinh doanh, khởi sự doanh
nghiệp cho 431 thành viên vay vốn nhóm tín dụng tiết kiệm và chị em có
hoạt động kinh doanh buôn bán, 7 lớp dạy nghề kỹ thuật chế biến món ăn và
phục vụ cho 245 hội viên, thành lập HTX dịch vụ ăn uống, tạo việc làm cho
35 người.
Cũng theo chị Huệ, hàng năm Hội chủ động tín chấp với Ngân hàng
CSXH thành phố giải quyết cho trên 3.000 lượt hội viên vay vốn với tổng số
dư nợ trung bình trên 80 tỷ đồng/năm để phát triển kinh tế. Hội còn vận
động chị em phụ nữ phát huy nội lực, xây dựng các tổ, nhóm vay vốn tiết
kiệm tại chỗ, mỗi hội viên phụ nữ tiết kiệm ủng hộ xây dựng quỹ 5.000
đồng/tháng, hoạt động này đã được triển khai rộng khắp tới 100% chi hội
toàn thành phố thu hút trên 93% hội viên tham gia, mỗi năm tiết kiệm được
trên 1 tỷ đồng. Từ nguồn này các cấp Hội đã giải quyết hỗ trợ vốn cho 483
hội viên có hoàn cảnh khó khăn vay phát triển kinh tế không lấy lãi. Các hội
viên còn đóng góp 546 triệu đồng xây dựng được 12 mái ấm tình thương cho
phụ nữ nghèo có địa chỉ.

Về hoạt động đào tạo nghề và giới thiệu việc làm. Việc làm là một cơ
sở để người nghèo có thể cải tạo thu nhập và ổn định đời sống. Không có
việc làm, đồng nghĩa với việc người nghèo sẽ phải chịu áp lực về những
khoản chi phí cho sinh hoạt hằng ngày. Nếu tỷ lệ thất nghiệp càng cao thì



nguy cơ tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, giáo dục và y tế thì bị suy giảm
trầm trọng. Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với việc tổng sản phẩm quốc
nội thấp, sản xuất ít hơn, nhu cầu xã hội giảm,… gây ảnh hưởng rất lớn đến
nền kinh tế của cả nước.
Trong tình hình đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, công
nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, nhu cầu về việc làm
ngày càng tăng. Đây là một cơ hội lớn để người lao động nói chung và người
phụ nữ nói riêng có thể tìm kiếm được việc làm có thu nhập cao. Tuy nhiên,
một thách thức đang đặt ra hiện nay đối với nguồn lao động là phải có tay
nghê cao, được đào tạo có chất lượng,… Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề việc làm và những hạn chế đối với chất lượng nguồn lao động
của thành phố, trong những năm qua, hoạt động đào tạo nghề và giới thiệu
việc làm của thành phố Cẩm Phả được tiến hành rất có hiệu quả. Thành phố
đã thu hút được các dự án đầu tư vốn giúp cho người nghèo có cơ hội tiếp
cận với một số ngành nghề mới.
2.1.2. Các chính sách hỗ trợ xóa đói giảm nghèo của hội phụ nữ
thành phố Cẩm Phả
a. Chính sách hỗ trợ về y tế
Nhận thức được sức khỏe con người là vốn quý giá nhất, có sức khỏe
thì con người mới có thể lao động và cống hiến. Do đó, chăm sóc sức khỏe
cho người dân luôn là một nhiệm vụ rất được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm. Các gia đình hiện nay đã quan tâm nhiều hơn đến việc chăm sóc sức
khỏe cho các thành viên trong gia đình. Tuổi thọ bình quân của người dân và
của phụ nữ được tăng dần.
Về bản chất, người nghèo ít được tiếp xúc với các dịch vụ y tế, chăm
sóc sức khỏe. Người nghèo ăn uống không đầy đủ, ăn uống kém, dễ bị ốm
đau. Ốm đau, không có tiền mua thuốc, bệnh càng nặng và không có chi phí
để khám chữa bệnh.10 Nhất là đối với phụ nữ, nhất là phụ nữ nghèo, họ rất ít
khi được tiếp xúc với các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Người

phụ nữ là người có vai trò rất lớn trong việc duy trì và phát triển nòi giống.
Vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe, tuyên truyền phổ biến về sức khỏe sinh sản
là một nhiệm vụ quan trọng.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là do đông con. Theo
số liệu điều tra, có 39% số hộ có từ 3 – 6 con trở lên, họ muốn có nhiều con
10

Nguyễn Hữu Tiến (2010), Tập bài giảng Chính sách xóa đói giảm nghèo, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội, trang


×