Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Chapter 84 SINH LÝ BÀO THAI VÀ TRẺ SƠ SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.3 KB, 11 trang )

CHƯƠNG 84

\

SINH LÝ BÀO THAI VÀ TRẺ SƠ SINH
Thảo luận đầy đủ về sự phát triển bào thai, sinh lý
của đứa trẻ ngay sau khi sinh, và sự tăng trưởng và
phát triển qua những năm đầu đời nằm trong các
khóa học chính quy ở khoa sản và nhi của tỉnh. Tuy
nhiên, nhiều nguyên tắc sinh lý đặc trưng ở trẻ sơ
sinh, và trong chương này thảo luận những nguyên
tắc sinh lý quan trọng hơn.

pound; 1 tháng trước sinh, trung bình 4.5 pound; và
lúc sinh, trung bình 7 pound, cuối cùng trọng lượng
thai lúc sinh thay đổi thấp nhất từ 4.5 pound đến
cao nhất là 11 pound với những đứa trẻ bình thường
qua thời kì mang thai bình thường.

Sự phát triển của hệ cơ quan.

Chỉ trong một tháng sau khi trứng thụ tinh, những
đặc tính đại thể của tất cả các cơ quan khác nhau
của bào thai đã bắt đầu được phát triển, và trong
suốt 2-3 tháng tiếp theo hầu hết đặc điểm của các
Sự phát triển ban đầu của nhau thai và màng thai
xảy ra nhanh hơn nhiều sự phát triển của thai. Thực cơ quan khác nhau đã được thiết lập. Sau tháng thứ
tế, trong suốt 2-3 tuần sau khi cấy vào túi phôi, bào tư, những cơ quan của bào thai về mặt đại thể giống
với bào thai. Tuy nhiên, sự phát triển các tế bào
thai hầu như vẫn ở dạng vi mô, nhưng sau đó, như
trên mỗi cơ quan thường chưa được hoàn thiện và


được biểu thị ở Hình 84-1, chiều dài của bào thai
cần 5 tháng mang thai còn lại để phát triển hoàn
tăng lên tương ứng với tuổi. Khi được 12 tuần,
toàn. Ngay cả lúc sinh, những cấu trúc nhất định,
chiều dài khoảng 10 cm; lúc 20 tuần là 25cm; và
lúc 40 tuần là 53cm. Do trọng lượng thai tương ứng đặc biệt là hệ thần kinh, thận và gan, thiếu sự phát
triển hoàn toàn, như được mô tả sau trong chương
xấp xỉ với lập phương của chiều dài, trọng lượng
này.
thai hầu như tăng tương ứng với lập phương tuổi
thai.Lưu ý trong Hình 84-1 mà trọng lượng vẫn còn
Hệ tuần hoàn. Tim bắt đầu đập từ tuần thứ tư
rất nhỏ trong suốt 12 tuần đầu tiên và đạt đến 1
sau khi thụ tinh, co bóp với tỉ lệ khoảng 65
pound chỉ trong 23 tuần thai. Sau đó, trong suốt quý nhịp/phút. Tỉ lệ này tăng đều đến khoảng 140
thai cuối cùng, bào thai tăng cần nhanh chóng, để 2 nhịp/phút ngay sau khi sinh.
tháng trước sinh, trọng lượng thai trung bình là 3
Hình thành các tế bào máu. Các tế bào hồng
cầu có nhân bắt đầu được hình thành ở túi noãn
hoàng và lớp trung biểu mô của nhau thai khoảng
tuần thứ ba của sự phát triển thai. Sau đó một tuần
(tuần thứ tư đến tuần thứ năm) hình thành các tế
bào hồng cầu không có nhân bởi trung biểu mô thai
và cũng bởi trung biểu mô của các mạch máu. Vào
tuần thứ 6, gan bắt đầu hình thành các tế bào máu,
và vào tháng thứ ba, lách và các mô lympho của cơ
thể bắt đầu hình thành các tế bào máu. Cuối cùng,
từ tháng thứ ba, tủy xương dần trở thành nguồn
chính của các tế bào hồng cầu, cũng như hầu hết
các bạch cầu, ngoại trừ các sản xuất các tế bào

lympho và tương bào ở mô lympho.

Sự tăng trưởng và phát triển chức năng
của bào thai.


Hệ thống hô hấp. Hô hấp không thể xảy ra
trong cuộc sống bào thai bởi vì khoongc ó khí để
thở trong khoang ối. Tuy nhiên, vận động hô hấp
được cố gắng thực hiện diễn ra bắt đầu vào cuối
quý thứ nhất của kỳ thai nghén. Kích thích xúc giác
và đặc biệt thai ngạt gây cố gắng vận động hô hấp.

được hấp thu trực tiếp từ máu mẹ. Những vẫn đề
đặc biệt chuyển hóa của thai liên quan đến calci,
phosphate, sắt và một số vitamin.
Chuyển hóa Calci và Phosphate.

Hình 84-2 biểu thị tỉ lệ calci và phosphate tích lũy
trong bào thai, chứng minh rằng trung bình khoảng
Trong suốt 3-4 tháng cuối của kỳ thai nghén, vận
22.5 gam calci và 13.5 gam phospho được tích lũy
động hô hấp của thai chủ yếu là bị ức chế, lý do vẫn
trong suốt thời kì bào thai. Khoảng một nửa số
chưa được biết, và phổi hầu như vẫn hoàn toàn bị
chúng tích lũy trong suốt 4 tuần cuối của kỳ thai
xẹp. Sự ức chế hô hấp trong những tháng cuối của
nghén, chúng trùng khớp với giai đoạn hóa xương
bào thai ngăn cản phổi được ngập tràn dịch và
nhanh của xương và tăng cân nhanh của bào thai.

mảnh vụn từ phân được bài tiết bởi ống tiêu hóa
của thai vào dịch ối. Cũng vì thế, lượng nhỏ dịch
Trong giai đoạn đầu của bào thai, xương tương đối
được bài tiết vào phổi bởi biểu mô phế nang tăng
chưa hoàn thiện và chủ yếu ở dạng sụn. Thực tế,
lên cho đến thời điểm lúc sinh, do đó chỉ giữ dịch
phim x quang thường không thấy bất kì sự hóa
sạch trong phổi.
xương nào cho đến sau tháng thứ tư của kỳ thai
nghén.
Hệ thần kinh. Phần lớn những phản xạ của
thai, bao gồm tủy sống và kể cả thân não xuất hiện Đặc biệt lưu ý rằng toàn bộ lượng calci và
kể từ tháng thứ ba đến tháng thứ tư của kỳ thai
phosphate cần thiết cho thai nhi trong suốt thời kì
nghén. Tuy nhiên, chức năng hệ thần kinh bao gồm mang thai chỉ chiếm khoảng 2% lượng chất trong
vỏ não vẫn chỉ phát triển ở giai đoạn sớm kể cả lúc xương của mẹ, và do đó những chất này rời khỏi
sinh. Thực tế, sự myeline hóa một số vùng thần
mẹ là rất nhỏ. Mất rất nhiều xảy ra sau khi sinh,
kinh não quan trọng của não hoàn thành chỉ sau
trong thời kì cho con bú.
khoảng 1 năm sau sinh.
Ống tiêu hóa. Giữa kỳ thai nghén bào thai bắt
đầu tiêu hóa và hấp thu lượng lớn dịch ối, và trong
2-3 tháng cuối, chức năng tiêu hóa giống với của
đứa trẻ sơ sinh bình thường. Ở thời điểm này, lượng
nhỏ phân liên tục được hình thành trong ống tiêu
hóa và được đào thải từ hậu môn vào dịch ối. Phân
bao gồm một phần từ phần còn lại dịch ối đã nuốt
vào và một phần dịch nhầy, các tế bào biểu mô, và
các sản phẩm bài tiết còn lại từ biểu mô đường tiêu

hóa và các tuyến.
Thận. Thận bào thai bắt đầu bài tiết nước tiểu
trong suốt quý thứ 2, và nước tiểu thai tạo ra chiếm
khoảng 70-80% của dịch ối. Thận phát triển bất
thường hoặc suy chức năng thận nghiêm trọng làm
giảm đáng kể sự hình thành dịch ối của thai
(oligohydramnios) và có thể dẫn đến chết thai.

Tích lũy sắt.

Hình 84-2 cũng biểu thị rằng tích lũy sắt trong bào
thai thậm chí nhanh hơn nhiều so với calci và
phosphate. Phần lớn sắt ở dạng hemoglobin, chúng
Mặc dù thận thai hình thành nước tiểu,hệ thống
bắt đầu được hình thành từ rất sớm, từ tuần thứ 3
điều khiển của thận điều hòa thể tích dịch ngoại bào sau khi trứng được thụ tinh.
và cân bằng điện giải, và đặc biệt cân bằng acidLượng nhỏ sắt được tập trung trong nội mạc tử
base hầu như không tồn tại cho đến giai đoạn cuối
của thai và chưa phát triển hoàn thiện cho đến một cung trước khi thụ thai; sắt được hấp thu vào phôi
thai bởi các nguyên bào nuôi và được sử dụng để
ít tháng sau khi sinh.
hình thành các tế bào hồng cầu rất sớm. Khoảng
Chuyển hóa của thai.
một phần ba sắt ở bào thai đã được phát triển hoàn
toàn toàn thông thường được dự trữ ở gan. Lượng
Thai chủ yếu sử dụng glucose để tạo năng lượng.
sắt này sau đó có thể được sử dụng cho một vài
Thai có khả năng dự trữ chất béo và protein lớn,
tháng sau khi sinh để hình thành thêm hemoglobin.
hầu hết chất béo được tổng hợp từ đường thay vì



bắt đầu thở trong vài giây và nhịp thở bình thường
đạt được trong vòng 1 phút sau khi sinh. Bào thai
Bào thai sử dụng vitamin nhiều như người trưởng
nhanh chóng thở chỉ ra rằng thở được kích hoạt bởi
thành và một số trường hợp có mức độ cao hơn.
đột ngột tiếp xúc với môi trường bên ngoài, có lẽ
Thông thường, chức năng những vitamin ở bào thai gây ra từ trạng thái hơi ngạt thở, đó là việc quá
giống với người lớn, như đã được thảo luận ở
trình sinh và từ các xung cảm giác bắt nguồn từ da
chương 72. Tuy nhiên, chức năng đặc biệt của một ngột ngột bị lạnh. Nếu đứa trẻ không thở ngay, cơ
vài vitamin nên được đề cập.
thể trở nên thiếu oxy thêm và tăng nồng độ CO2,
Vitamin B, đặc biệt là vitamin B12 và acid folic, cần chúng tạo thêm kích thích lên trung tâm hô hấp và
thường gây ra thở chỉ trong một phút sau khi sinh.
thiết cho sự hình thành các hồng cầu và mô thần
kinh, cũng như cho toàn bộ sự tăng trưởng của bào
Chậm thở hay bất thường sau khi sinh-nguy
thai.
cơ thiếu oxy. Nếu người mẹ được sử dụng thuốc
Vitamin C cần thiết cho sự hình thành phù hợp các mê lúc sinh, ít nhất một phần bào thai cũng bị gây
mê, bắt đầu hô hấp có khả năng bị chậm vài phút,
chất gian bào, đặc biệt chất nền tủy xương và các
do đó chứng minh tầm quan trọng của sử dụng ít
sợi mô liên kết.
thuốc gây mê. Cũng vì thế, nhiều đứa trẻ bị chấn
Vitamin D cần thiết cho sự phát triển xương của
thương đầu trong lúc sinh hoặc trải qua quá trình đẻ
bào thai, nhưng cho dù nhiều quan trọng, mẹ cần nó kéo dài làm chậm thở hoặc thỉnh thoàng hoàn toàn

để hấp thu đủ calci từ ống tiêu hóa. Nếu người mẹ
không thở. Điều này có khả năng có 2 tác động:
nhiều vitamin D trong dịch cơ thể, lượng lớn
Đầu tiên, ở một ít đứa trẻ, chảy máu nội sọ hay dập
vitamin sẽ được dự trữ bởi gan của thai để sử dụng não gây hội chứng sang chấn gây chèn ép mạnh lên
cho một vài tháng sau khi sinh.
trung tâm hô hấp. Thứ hai, có lẽ quan trọng hơn
nhiều, thiếu oxy thai kéo dài trong lúc sinh có thể
Cơ chế chức năng của vitamin E không hoàn toàn
rõ rang, nhưng nó cần cho sự phát triển bình thường gây suy giảm nghiêm trọng trung tâm hô hấp.
Sử dụng và tích lũy vitamin.

ở giai đoạn đầu của phôi. Thiếu nó trên những động Thiếu oxy thường xuyên xảy ra trong lúc sinh bởi
vật thực nghiệm, sẩy thai tự phát thường xảy ra khi vì (1) Chèn ép dây rốn; (2) Nhau thai bị bong sớm;
mang thai giai đoạn đầu.
(3) tử cung co quá mạnh, chúng có thể làm ngắt
Vitamin K được gan bào thai sử dụng để hình thành dòng máu mẹ đến nuôi thai; hay (4) gây mê quá
mức ở người mẹ, chúng làm giảm oxy hóa ở máu
yếu tố VII, prothrombin, và một vài yếu tố đông
mẹ.
máu. Khi vitamin K ở mẹ không đủ, yếu tố VII và
prothrombin trở nên thiếu ở bào thai và mẹ. Bởi vì
phần lớn vitamin K được hình thành bởi hoạt động
của vi khuẩn ở ruột già người mẹ, trẻ sơ sinh không
đủ nguồn vitamin K cho tuần đầu hoặc cuộc sống
sau sinh cho đến khi hoạt động của hệ vi khuẩn
đường ruột được hình thành bình thường. Do đó, dự
trữ vitamin K ở gan bào thai một lượng nhỏ được
nhận từ người mẹ rất hữu ích trong ngăn chảy máu
thai, đặc biệt xuất huyết não khi đầu bị chấn thương

khi đẩy qua đường sinh.

Thích nghi của trẻ sơ sinh với cuộc sống
ngoài tử cung.

Mức độ thiếu oxy mà một trẻ sơ sinh có
thể chịu đựng được.
Ở người lớn, không thở chỉ trong 4 phút thường gây
chết, nhưng trẻ sơ sinh thường sống sót kéo dài đến
10 phút mà không thở sau khi sinh. Não bị tổn
thương vĩnh viễn và nghiêm trọng thường xảy ra
ngay sau khi thở chậm hơn 8 đến 10 phút. Trên
thực tế, những tổn thương thực sự phát triển chủ
yếu ở vùng đồi thị, ở não sinh tư dưới, và một số
phần khác của thân não, do đó ảnh hưởng vĩnh viễn
đến nhiều chức năng vận động của cơ thể.

Sự giãn nở của phổi lúc sinh. Lúc sinh, thành
các phế nang đầu tiên bị xẹp bởi vì sức căng bề mặt
Tác động rõ ràng nhất của sinh đẻ lên đứa bé là mất của dịch nhầy đổ đầy phế nang. Áp suất âm hít vào
nhiều hơn 25 mmHg là cần thiết để chống lại tác
nhau thai kết nối với người mẹ, do đó, mất sự hỗ
trợ chuyển hóa này. Một trong những thay đổi trực động đối lập của sức căng bề mặt và để mở phế
nang lần đầu tiên. Một khi phế nang mở, tuy nhiên,
tiếp quan trọng nhất cần thiết ở trẻ sơ sinh là bắt
hô hấp có thể bị ảnh hưởng thêm với vận động hô
đầu thở.
hấp tương đối yếu. May mắn thay, hít vào của trẻ
Nguyên nhân thở lúc sinh. Sau khi đứa bé ra
bình thường rất giàu năng lượng; Có khả năng tạo

khỏi người mẹ không được gây mê, đứa bé thường
Onset of breathing.


ra áp lực âm trong khoang màng phổi lên đến
60mmHg.

Đều quan trọng như bắt đầu thở lúc sinh là tuần
hoàn ngay lập tức thích nghi để cho phép đủ dòng
máu qua phổi. Ngoài ra, thích nghi tuần hoàn trong
Hình 84-3 biểu thị cần áp lực âm rất lớn trong
suốt một ít giờ đầu của cuộc sống gây nhiều máu
khoang màng phổi để mở phổi khi bắt đầu thở. Ở
qua gan hơn nữa, mà vào thời điểm này có ít dòng
đỉnh của hình, đường cong thể tích-huyết áp (đường
máu qua gan. Để mô tả những thích nghi này, đầu
cong độ dãn nở) lúc thở lần đầu tiên sau khi sinh
tiên chúng ta quan tâm đến cấu trúc giải phẩu của
được biểu thị. Quan sát thấy, đầu tiên, phần thấp
tuần hoàn bào thai.
hơn của đường cong bắt đầu từ điểm áp lực 0 và di
chuyển sang bên phải. Đường cong cho thấy rằng
Cấu trúc giải phẫu đặc biệt của tuần hoàn
thể tích của khí trong phổi vẫn hầu như bằng 0 cho
thai nhi. Bởi vì phổi chủ yếu không thực hiện
đến khi áp lực âm đạt đến -40cmH2O (-30mmHg).
chức năng trong suốt cuộc sống thai nhi và do gan
Sau đó, khi áp lực âm tăng đến -60cmH2O, khoảng
chỉ thực hiện một phần chức năng, nó không cần
40ml khí đi vào phổi . Để tháo hết khí trong phổi,

tim thai bơm nhiều máu qua phổi hay gan của nó.
một áp lực dương đáng kể, khoảng 40cmH2O, là
Tuy nhiên, tim thai phải bơm một lượng lớn máu
cần thiết bởi vì sức cản của chất nhầy được tạo ra
qua nhau thai. Do đó, sự sắp xếp giải phẫu đặc biệt
bởi dịch trong các tiểu phế quản.
làm cho tuần hoàn thai có nhiều khác biệt so với
tuần hoàn của trẻ sơ sinh.
Lưu ý rằng thở lần thức hai là dễ dàng hơn nhiều,
cần ít áp lực âm và áp lực dượng hơn nhiều. Thở
Đầu tiên, như Hình 84-4, máu trở về từ nhau qua
không hoàn toàn bình thường cho đến khoảng phút
tĩnh mạch rốn rồi đi qua ống tĩnh mạch, phần lớn bỏ
thứ 40 sau khi sinh, như được biểu thị bởi đường
qua gan. Sau đó phần lớn máu qua tâm nhĩ phải từ
cong giãn nở thứ hai, hình dạng của chúng là thuận
tĩnh mạch chủ dưới trực tiếp từ đường thẳng qua
lợi hơn so với bình thường ở người lớn, như được
phần sau của tâm nhĩ phải và qua lỗ bầu dục trực
biểu thị ở Chương 39.
tiếp vào tâm nhĩ trái. Do đó, máu được oxy hóa tốt
Hội chứng suy hô hấp gây ra khi thiếu bài tiết từ nhau chủ yếu qua bên trái của tim, thay vì bên
phải, và được bởm bởi tâm thất trái chủ yếu vào
surfactant. Một số nhỏ trẻ sơ sinh đặc biệt là trẻ
sinh non và đứa trẻ có mẹ bị đái tháo đường, suy hô động mạch của đâu và chi trên.
hấp nặng tiến triển trong ít giờ đến vài ngày đầu sau Máu vào tâm nhĩ phải từ tĩnh mạch chủ trên trực
khi sinh, và một số trẻ chết chỉ trong một số ngày
tiếp xuống qua van ba lá vào tâm nhĩ phải. Lượng
sau đó. Phế nang của những đứa trẻ chết chứa một
máu này chủ yếu là máu bị khử oxy hóa từ vùng

lượng lớn dịch protein, hầu như các huyết tương
đầu của thai. Nó được bơm bởi tâm thất phải vào
tinh khiết bị rỉ từ các mao mạch vào phế nang. Tình động mạch phổi và sau đó chủ yếu qua ống động
trạng này còn được gọi là bệnh màng kính (hyaline mạch vào để vào động mạch chủ xuống, sau đó qua
membrane disease) bởi vì tiêu bản kính hiển vi của hai động mạch rốn vào nhau thai, nơi này máu khử
phổi thấy rằng các chất tràn vào các phế nang giống oxy sẽ trở thành máu được oxy hóa.
một màng hyaline.
Hình 84-5 biểu thị tỉ lệ tương đối của toàn bộ máu
Một đặc trưng tìm thấy ở hội chứng suy hô hấp là
được bơm bởi tim qua các vòng tuần hoàn khác
niêm mạc hô hấp bài tiết số lượng surfactant, một
nhau của bào thai. Xấp xỉ 55% máu đi qua nhau
chất thông thường được bài tiết vào phế nang để
thai, chỉ còn lại 45% đi đến tất cả các mô của bào
làm giảm sức căng bề mặt của dịch phế nang, do
thai. Hơn nữa, trong suốt thời kỳ bào thai, chỉ 12%
vậy theo đó cho phép các phế nang mở ra dễ dàng
máu qua phổi, trong khi ngay sau khi sinh, hầu như
khi hít vào . Các tế bào bài tiết surfactant (các tế
tất cả dòng máu qua phổi.
bào phế nang type II) không bắt đầu bài tiết
surfactant cho đến 1-3 tháng kỳ thai nghén cuối
Thay đổi tuần hoàn khi sinh. Những thay đổi
cùng. Do đó, nhiều đứa bé sinh thiếu tháng và một cơ bản ở tuần hoàn thai nhi lúc sinh được mô tả ở
ít đứa bé sinh đủ tháng sinh ra không có khả năng
Chương 23 trong mối liên quan với những bất
bài tiết đủ surfactant, chúng gây ra xẹp phế nang và thường bẩm sinh của ống động mạch và lỗ bầu dục
phù phổi. Vai trò của surfactant trong những tác
mà tồn tại trong suốt cuộc sống của một ít người.
động ngăn cản được mô ta ở chương 38.

Những thay đổi được mô tả ngắn trong những nội
dung tiếp theo.

Sự thích nghi lại tuần hoàn lúc sinh.

Giảm hô hấp và tăng sức cản của hệ thống
mạch lúc sinh. Những thay đổi chủ yếu trong tuần


hoàn lúc sinh, đầu tiên, mất rất nhiều dòng máu qua
nahu, chúng xấp xỉ gấp đôi sức kháng của hệ mạch
lúc sinh. Sức kháng của hệ thống mạch tăng gấp đôi
làm tăng áp ức động mạch chủ, cũng như áp lực của
tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải.
Thứ hai, sức cản của các mạch phổi giảm rất mạnh
khi phổi giãn. Khi phổi bào thai không được giãn,
mạch máu bị chèn ép bởi vì phổi có thể tích nhỏ.
Ngay khi phổi dãn, những mạch không bị chèn ép
nữa và sức cản của mạch máu giảm đi khoảng 7
lần. Cũng vì thế, khi ở thời kì bào thai, giảm oxy
máu gây tăng trương lực co đáng kể của các mạch
máu phổi, nhưng giãn mạch diễn ra khi thông khí
phổi làm mất tác động giảm oxy máu. Tất cả những
thay đổi cùng nhau làm giảm sức cản dong máu qua
phổi nhiều đến năm lần, làm giảm huyết áp động
mạch phổi, áp lực tâm thất phải và tâm thất trái.
Đóng lỗ bầu dục. Áp lực tâm nhĩ phải thấp và
áp lực tâm nhĩ trái cao xảy ra ngay sau khi thay đổi
sức cản của mạch phổi và mạch hệ thống lúc sinh
làm cho máu bây giờ có xu hướng chảy ngược qua


lỗ bầu dục, đó là từ tâm nhĩ trái vào tâm nhĩ phải
thay vì theo hướng khác như khi trong giai đoạn
bào thai. Kết quả là, van nhỏ nằm trên lỗ bầu dục
bên phía vách tâm nhĩ trái đóng lỗ này lại, theo đó
ngăn dòng máu tiếp tục qua lỗ bầu dục.
Ở 2/3 số người, van trở nên dính chặt với lỗ bầu
dục chỉ trong một vài tháng đến một vài năm và
đóng kín vĩnh viễn lỗ bầu dục. Tuy nhiên, nếu như
đóng vĩnh viễn lỗ bầu dục không xảy ra- một tình
trạng còn được gọi là còn lỗ bầu dục-suốt cuộc đời
thì thông thường áp lực tâm nhĩ trái vẫn cao hơn áp


lực tâm nhĩ phải 2-4mmHg, và đối áp giữ cho van
đóng lại.
Đóng ống động mạch. Ống động mạch cũng
được đóng, nhưng có nhiều lý do khác nhau. Đầu
tiên, tăng sức cản của tuần hoàn hệ thống tăng áp
lực động mạch chủ trong khi giảm áp lực của giảm
sức cản của phổi làm giảm áp lực động mạch phổi.
Như một hệ quả, sau khi sinh, dòng máu bắt đầu
trào ngược từ động mạch chủ vào động mạch phổi
qua ống động mạch, thay vì theo hướng ngược lại
như ở giai đoạn bào thai. Tuy nhiên, chỉ sau khi
sinh một vài giờ, thành cơ của ống động mạch co
lại rõ rệt và chỉ trong 1-8 ngày, co cơ thường đủ để
dừng toàn bộ dòng máu. Đây còn được gọi là đóng
chức năng của ống động mạch. Sau đó, trong suốt 1
đến 4 tháng sau đó, đống động mạch thường trở nên

tắc giải phẫu bở sự tăng sinh các mô xơ vào lòng
ống của nó.
Nguyên nhân đóng ống động mạch liên quan đến
tăng sự oxy hóa của dòng máu qua ống, cũng như
mất các tác động gây giãn mạch prostaglandin E2
(PGE2). Ở cuộc sống bào thai áp suất riêng phần
của ống động mạch (PO2) chỉ là 15-20mmHg,
nhưng nó tăng lên khoảng 100mmHg chỉ trong vài
giờ sau sinh. Hơn nữa, nhiều thực nghiệm đã chỉ ra
rằng độ co cơ trơn của thành ống động mạch liên
quan nhiều với sự sẵn có của O2.

Dinh dưỡng của trẻ sơ sinh.
Trước khi sinh, bào thai nhận hầu hết năng lượng từ
glucose của máu mẹ. Sau khi sinh, lượng glucose
được dự trữ trong cơ thể ở dạng glycogen gan và cơ
để cung cấp đủ cho nhu cầu của đứa trẻ chỉ trong
vài giờ. Gan của trẻ sơ sinh vẫn chưa thực hiện đủ
chức năng lúc sinh, chúng ngăn cản tạo thêm nhiều
đường mới. Do đó, nồng độ đường máu của trẻ sơ
sinh thường máu thấp trong những ngày đầu
khoảng 30-40 mg/dl, chúng ít hơn một nửa so với
giá trị bình thường. May mắn thay, các cơ chế thích
ứng thích hợp sẵn sàng để cho phép trẻ sơ sinh sử
dụng được các chất béo và protein dự trữ cho
chuyển hóa cho đến khi sữa mẹ có thể cung cấp 2-3
ngày sau đó.
Vấn đề đặc biệt là thường xuyên phải cung cấp đủ
dịch cho đứa bé bởi vì tỉ lệ dịch của trẻ sơ sinh là
gấp bảy lần so với người lớn, và cung cấp sữa mẹ

cần phải có một vài ngày để sản xuất. Thông
thường, trọng lượng trẻ sơ sinh giảm từ 5-10% và
thỉnh thoảng lên đến 20% chỉ trong 2-3 ngày đầu.
Phần lớn mất trọng lượng này là do mất dịch cơ thể.

Những chức năng đặc biệt ở trẻ sơ sinh.

Một đặc trưng quan trọng của trẻ sơ sinh là tính
không ổn định của hệ thống kiểm soát hormone và
thần kinh khác nhau. Tính không ổn định này một
Khoảng một trên vài nghìn trẻ sơ sinh, ống không
phần là do sự phát triển chưa đầy đủ của các cơ
được đóng lại, gây còn ống động mạch, hậu quả của quan khác nhau và một phần từ thực tế rằng hệ
chúng đã được mô tả ở chương 23. Không đóng
thống kiểm soát đơn giản chưa được thích nghi với
ống động mạch được coi là do ống dãn quá mức
cuộc sống mới.
gây ra bởi các prostaglandin giãn mạch, đặc biệt là
Hệ hô hấp.
PGE2 lên thành ống. Thực tế, sử dụng thuốc
indomethacin, chúng sẽ chặn tổng hợp các
Tỉ lệ hô hấp bình thường ở trẻ sơ sinh là khoảng 40
prostaglandin thường dẫn đến đóng ống động mạch. nhịp/phút, và khí lưu thông mỗi nhịp thở trung bình
là 16ml, kết quả là thể tích hô hấp mỗi phút là
640ml/phút-gấp đôi người lớn so với trọng lượng
của cơ thể. Dung tích cặn chức năng của phổi trẻ sơ
sinh chỉ bằng một nửa so với người lớn trong mối
liên quan với trọng lượng cơ thể. Sự khác nhau này
gây ra nồng độ khí máu của trẻ sơ sinh tăng và
Ngay sau khi sinh, máu qua tĩnh mạch rốn dừng lại, giảm quá mức nếu như tần số thở là chậm, bởi vì

nhưng phần lớn máu tĩnh mạch cửa vẫn qua ống
khí cặn trong phổi tạo điều kiện thay đổi khí máu.
tĩnh mạch, với chỉ một lượng nhỏ qua các kênh của
gan. Tuy nhiên, chỉ trong 1-3 giờ thành cơ của ống Tuần hoàn.
động mạch co mạnh và đóng ống động mạch. Như Thể tích máu. Thể tích máu của trẻ sơ sinh ngay
một hệ quả, huyết áp tĩnh mạch cửa tăng từ gần 0
sau khi sinh trung bình khoảng 300ml, nhưng nếu
đến 6 đến 10 mmHg, chúng đủ để đẩy dòng máu
đứa trẻ vẫn còn được gắn với nhau thai một vài
tĩnh mạch cửa qua các xoang gan. Mặc dù ống động phút sau sinh hoặc dây rốn được kẹp để cho phép
mạch hiếm khi không bị đóng, chúng tôi biết rất ít
máu chảy qua mạch máu vào đứa bé, cung cấp
những nguyên nhân gây đóng ống tĩnh mạch.
thêm cho đứa trẻ 75ml máu vào cơ thể, để có tổng
Đóng ống tĩnh mạch. Ở thời kì bào thai máu
tĩnh mạch cửa từ bụng của bào thai hợp nhất với
máu từ tĩnh mạch rốn, và chúng cùng bỏ qua gan
bởi ống tĩnh mạch trực tiếp vào tĩnh mạch chủ dưới
ngay phía dưới tim và trên gan.

cộng là 375 ml. Sau đó, trong suốt vài giờ sau đó,


dịch đi vào các khoảng mô từ lượng máu này,
chúng làm tăng hematocrit nhưng thể tích máu lại
quay trở về giá trị bình thường khoảng 300ml. Trên
một số trẻ người ta cho rằng lượng máu bổ sung
này từ việc kẹp dây rốn có thể dẫn đến phù phổi
nhẹ với một số mức độ suy hô hấp, nhưng bổ sung
lượng hồng cầu này thường có giá trị với trẻ sơ

sinh.
Hiệu suất của tim. Hiệu suất tim của trẻ sơ sinh
trung bình khoảng 500ml/phút, chúng giống như hô
hấp và chuyển hóa của cơ thể, khoảng nhiều gấp 2
lần người lớn so với trọng lượng cơ thể. Thỉnh
thoảng một đứa trẻ sinh ra với một hiệu suất tim
đặc biệt thấp gây ra bởi xuất huyết nhiều thể tích
còn được gọi là tăng bilirubin máu sinh lý, được
máu từ nhau thai lúc sinh.
biểu thị ở Hình 84-6, và nó được kết hợp với vàng
da trẻ sơ sinh và đặc biệt là giác mạc trong một
Huyết áp động mạch. Huyết áp động mạch
trong ngày đầu sau sinh trung bình huyết áp tâm thu hoặc hai tuần.
khoảng 70mmHg và huyết áp tâm trương khoảng
50mmHg và tăng chậm trong vài tháng tiếp theo
đến khoảng 90/60. Tăng chậm hơn nhiều xuất hiện
sau những năm tiếp theo cho đến tuổi dậy thì bằng
huyết áp người lớn 115/70.

Tuy nhiên, cho đến nay những bất thường quan
trọng nguyên nhân của vàng da sơ sinh nghiêm
trọng là rối loạn nguyên hồng cầu sơ sinh, được mô
ta chi tiết ở Chương 33 trong mối liên hệ với yếu tố
Rh không tương thích giữa bào thai và mẹ. Tóm lại,
rối loạn nguyên hồng cầu trẻ em hồng cầu di truyền
Đặc trưng của máu. Số lượng hồng cầu ở trẻ
yếu tố Rh+ từ người cha, trong khi người mẹ là Rh-.
sơ sinh trung bình khoảng 4 triệu/mm3. Nếu máu
được dồn từ dây rốn vào đứa trẻ, số lượng hồng cầu Người mẹ+ sau đó trở thành gây tự miễn chống lại
tăng thêm từ 0.5 tới 0.75 triệu trong vài giờ đầu, để yếu tố Rh (một protein) trong các tế bào máu của

bào thai, và các kháng thể của người mẹ phá vỡ các
tổng lượng hồng cầu là 4.75 triệu/mm3, như được
tế bào hồng cầu bào thai, giải phóng một số lượng
biểu thị ở Hình 84-6. Sau đó, tuy nhiên, một ít
lớn bilirubin vào máu bào thai và thường dẫn đến
hồng cầu được hình thành ở trẻ sơ sinh trong vài
tuần đầu sau sinh, có lẽ do thiếu oxy máu kích thích chết thai do không đủ số lượng hồng cầu. Trước khi
của bào thai không còn xuất hiện để kích thích sản ra đời phương pháp điều trị sản khoa hiện đại,
những trường hợp nhẹ hoặc nặng của những tình
xuất tế bào hồng cầu. Do đó, như được biểu thị ở
trạng này xuất hiện với 1 trên mỗi 50-100 trẻ sơ
Hình 84-6, lượng hồng cầu trung bình giảm đến
thấp hơn 4 triệu/mm3 khoảng 6 đến 8 tuần tuổi. Từ sinh.
đó trở đi, tăng hoạt động do đứa trẻ tạo những kích Cân bằng dịch, acid-base, và chức năng
thích thích hợp để số lượng hồng cầu quay lại mức
bình thường trong vòng 2-3 tháng sau đó. Ngay sau thận.
khi sinh, lượng tế bào bạch cầu của trẻ sơ sinh xấp Tỉ lệ dịch uống vào và bài tiết ra ở trẻ sơ sinh là gấp
xỉ 45,000/mm3, chúng cao hơn người trưởng thành 7 lần người trưởng thành so với trọng lượng cơ thể,
khoảng 5 lần.
điều này có nghĩa là ngay cả thay đổi một tỉ lệ nhỏ
Vàng da sơ sinh và nguyên hồng cầu sơ sinh.
Bilirubin được hình thành trong bào thai có thể qua
nhau thai vào người mẹ và được bài tiết qua gan
của mẹ; nhưng ngay sau khi sinh, trẻ sơ sinh phải
loại bỏ bilirubin qua gan của nó, mà trong tuần đầu
tiên chức năng gạn còn kém và chưa đủ khả năng
liên hợp một lượng đáng kể bilirubin với acid
glucuronic để bài tiết vào mật. Hậu quả là nồng độ
bilirubin huyết tương tăng từ mức bình thường ít
hơn 1mg/dl đến trung bình 5mg/dl trong suốt 3

ngày đầu và sau đó giảm dần về giá trị bình thường
khi gan bắt đầu thực hiện chức năng. Hiệu ứng này

dịch hấp thu vào hoặc dịch bài xuất ra cũng có thể
gây phát triển những rối loạn nhanh chóng.
Tốc độ chuyển hóa ở trẻ sơ sinh cũng gấp đôi người
trưởng thành khi cùng so với trọng lượng cơ thể,
chúng có nghĩa là bình thường acid được hình
thành nhiều hơn, tạo ra xu hướng nhiễm toan ở trẻ
sơ sinh. Ví dụ, thận của trẻ sơ sinh có thể cô đặc
nước tiểu chỉ bằng 1.5 lần áp suất thẩm thấu huyết
tương, trong khi ở người lớn có thể cô đặc nước
tiếu gấp 3 đến 4 lần áp suất thẩm thấu của huyết
tương. Vì vậy, xem xét thận chưa trưởng thành,
cùng với thay thể dịch mạnh mẽ ở trẻ sơ sinh và


nhanh chóng hình thành acid, có thể dễ dàng hiểu
rằng những vấn đề quan trọng nhất của trẻ sơ sinh
là nhiễm toan, mất nước và hiếm hơn, ứ nước.

Chức năng gan.
Trong vài ngày sau sinh, chức năng gan của trẻ sơ
sinh có thể bị giảm chức năng, được chứng minh
bởi những tác động sau:
1. Gan của trẻ sơ sinh kém liên hợp bilirubin
với acid glucuronic và do vậy bài tiết chỉ
một lượng ít bilirubin trong vài ngày đầu.
2. Bởi vì gan của trẻ sơ sinh thiếu hình thành
các protein huyết tương, nồng độ protein

huyết tương giảm trong những tuần đầu ít
hơn trẻ lớn từ 15-20%. Thỉnh thoảng nồng
độ protein máu giảm đến mức thấp gây
phù.
3. Chức năng tân sinh đường của gan trẻ sơ
sinh đặc biệt thiếu. Như kết quả, mức
đường máu của trẻ sơ sinh chưa được cho
ăn giảm đến khoảng 30-40mg/dl (khoảng
40% mức bình thường), và trẻ sơ sinh phải
phụ thuộc chủ yếu vào nguồn chất béo dự
trữ để tạo năng lượng cho đến khi có đủ
thức ăn.
4. Gan của trẻ sơ sinh cũng thường hình thành
quá ít các yếu tố máu cần cho quá trình
đông máu.

Tiêu hóa, hấp thu, và chuyển hóa năng
lượng của thức ăn và chất dinh dưỡng.
Thông thường, khả năng tiêu hóa, hấp thu, và
chuyển hóa của trẻ sơ sinh là không có sự khác biệt
so với trẻ lớn, ngoại trừ 3 đặc điểm sau:
1. Tụy của trẻ sơ sinh bài tiết thiếu amylase,
vì thế trẻ sơ sinh thường sử dụng được ít
tinh bột hơn so với trẻ lớn.
2. Hấp thu chất béo từ đường tiêu hóa ít hơn
một chút so với trẻ lớn. Kết quả, sữa với
lượng chất béo cao, như sữa bò, thường
không hấp thu được đầy đủ.
3. Bởi vì chức năng gan chưa đầy đủ ít nhất
trong tuần đầu tiên, nồng độ đường máu

không ổn định và thấp.

sơ sinh so với trọng lượng cơ thể gấp đôi người lớn,
chúng giải thích cho thực tế rằng hiệu suất của tim
và thể tích hô hấp trong một phút gấp đôi người lớn
so với trọng lượng cơ thể.
Bởi vì diện tích bề mặt cơ thể là lớn so với trọng
lượng cơ thể, thiệt dễ bị mất khỏi cơ thể. Như kết
quả, nhiệt độ cơ thể của trẻ sơ sinh, chủ yếu là trẻ
sinh thiếu tháng, dễ bị hạ nhiệt. Hình 84-7 biểu thị
rằng ngay cả một đứa trẻ bình thường nhiệt độ cơ
thể cũng thường giảm vài độ trong vài giờ đầu sau
sinh nhưng quay lại mức bình thường từ 7 đến 10
giờ. Tuy nhiên, các cơ chế điều hòa nhiệt độ cơ thể
vẫn nghèo nàn trong những ngày đầu, cho phép
nhiệt độ thay đổi đáng kể, cũng được biểu hiện ở
Hình 83-7.
Nhu cầu dinh dưỡng trong những tuần đầu
của đứa trẻ. Lúc sinh, một đứa trẻ thường hoàn
toàn cân bằng dinh dưỡng, nếu người mẹ được bổ
sung một chế độ dinh dưỡng đầy đủ. Hơn nữa, chức
năng của hệ tiêu hóa thường có nhiều khả năng để
tiêu hóa và đồng hóa các chất dinh dưỡng cần thiết
cho trẻ sơ sinh nếu các chất dinh dưỡng thích hợp
được cung cấp trong chế độ ăn. Tuy nhiên, có 3 vấn
đề đặc biệt xuất hiện sớm ở trẻ sơ sinh.
Nhu cầu Calci và Vitamin D. Bởi vì trẻ sơ sinh
có giai đoạn hóa xương nhanh lúc sinh, sẵn sàng
cung cấp calci trong suốt tuổi thơ ấu là cần thiết.
Thông thường được cung cấp đầy đủ bởi cho dùng

sữa. Tuy nhiên, hấp thu calci bởi ống tiêu hóa giảm
khi không có vitamin D. Do đó, chỉ trong vài tuần,
thiếu vitamin D ở trẻ sơ sinh có thể gây bệnh còi
xương nặng. Điều này đặc biệt đúng ở trẻ sơ sinh
thiếu tháng bởi vì đường tiêu hóa của chúng hấp
thu calci kém hiệu quả hơn so với những trẻ sơ sinh
bình thường.

Nhu cầu sắt trong chế độ ăn. Nếu người mẹ
thiếu sắt trong chế độ ăn, gan của đứa trẻ thường
được dự trữ đủ lượng sắt để duy trì hình thành các
tế bào máu trong 4-6 tháng sau sinh. Tuy nhiên, nếu
người mẹ cung cấp thiếu sắt trong chế độ ăn, thiếu
máu nặng có khả năng xảy ra ở trẻ sơ sinh sau
khoảng 3 tháng. Để ngăn khả năng này, cho trẻ ăn
bổ sung với lòng đỏ trứng, chúng chứa lượng lớn
sắt hợp lý, hoặc sử dụng một số dạng sắt khác là
Trẻ sơ sinh có đặc biệt có khả năng tổng hợp và cần thiết vào tháng thứ 2 hoặc thứ 3.
dự trữ các protein. Thực tế, với chế độ ăn đầy
Thiếu vitamin C ở trẻ sơ sinh. Acid Ascorbic
đủ, trên 90% các amino acid ăn vào sẽ được sử (vitamin C) không được dự trữ với số lượng nhiều
dụng để hình thành các protein cơ thể, cao hơn trong mô của bào thai, nhưng nó cần thiết để thích
nhiều so với người lớn.
hợp hình thành sụn, xương và các cấu trúc gian bào
Tăng tỉ lệ chuyển hóa và kém điều hòa nhiệt
độ cơ thể. Thông thường tỉ lệ chuyển hóa của trẻ

khác của trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, lượng vitamin C
thường được cung cấp đủ bởi sữa mẹ trừ khi người



mẹ bị thiếu vitamin C nghiêm trọng. Sữa bò chỉ có
lượng vitamin C bằng 1/4 so với sữa mẹ. Trong một
số trường hợp nước cam hoặc một số nguồn acid
ascorbic khác được bổ sung cho những trẻ sơ sinh
thiếu vitamin C.

Miễn dịch.
Trẻ sơ sinh thừa kế nhiều chức năng miễn dịch từ
mẹ bởi vì nhiều protein kháng thể khuếch tán từ
máu mẹ qua nhau vào bào thai. Tuy nhiên, trẻ sơ
sinh không hình thành kháng thể của riêng nó. Đến
cuối tháng đầu tiên, các γ-globulin của trẻ sơ sinh,
chúng bao gồm các kháng thể, bị giảm đến ít hơn
một nửa mức ban đầu, với tương ứng giảm khả
năng miễn dịch. Sau đó, hệ thống miễn dịch bắt đầu
hình thành các dạng kháng thể và nồng độ γglobulin quay về mức bình thường sau 12-20 tháng.
Mặc dù giảm γ-globulin sớm sau sinh, những kháng
thể nhận được từ mẹ bảo vệ đứa bé cho tới 6 tháng
chống lại hầu hết các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em,
bao gồm bạch hầu, sởi và bại liệt. Do đó, tạo miễn
dịch chống lại những bệnh trước 6 tháng thường
không cần thiết. Tuy nhiên, những kháng thể nhận
được chống lại bệnh ho gà thường không đủ để bảo
vệ đứa trẻ; do đó, để hoàn toàn an toan, đứa trẻ cần
tạo miễn dịch chống lại những bệnh này trong
tháng đầu tiên hoặc ngay sau đó.
Dị ứng. Trẻ sơ sinh hiếm khi bị dị ứng. Vài
tháng sau đó, tuy nhiên, khi kháng thể của nó bắt
đầu được hình thành, những trạng thái dị ứng nặng

có thể tiến triển, thường gây eczema nghiêm trọng,
bất thường về tiêu hóa, và thậm chí sốc phản vệ.
Khi đứa trẻ lớn hơn và vẫn có mức miễn dịch cao,
những biểu hiện dị ứng thường biến mất. Liên quan
giữa miễn dịch và dị ứng được trình bày ở Chương
35.

Vấn đề nội tiết.
Thông thường, hệ nội tiết của trẻ sơ sinh thường rất
phát triển lúc sinh, và đứa trẻ hiếm khi biểu hiện
ngay bất cứ bất thường miễn dịch nào. Tuy nhiên,

nội tiết của trẻ sơ sinh quan trọng trong những hoàn
cảnh đặc biệt sau:
1. Nếu một bà mẹ mang thai một bé gái được
điều trị với hormone androgen hoặc nếu có
một khối u androgen trong suốt lúc mang
thai, đứa bé được sinh ra sẽ có mức độ nam
hóa cao của các cơ quan giới tính, do đó
gây ra một loại lưỡng tính.
2. Các hormone giới tính được bài tiết bởi
nhau thai và bởi các tuyến của mẹ trong lúc
mang thai thỉnh thoảng gây tuyến vú của
trẻ sơ sinh hình thành sữa trong những
ngày đầu. Thỉnh thoảng tuyến vú sau đó trở
nên bị viêm, hoặc viêm vú nhiễm trùng.
3. Một đứa bé sinh ra từ người mẹ bị đái tháo
đường không được điều trị sẽ có các tiểu
đảo Langerhans tụy tăng sinh và tăng chức
năng đáng kể. Như một hậu quả, nồng độ

đường máu của đứa bé giảm thấp hơn 20
mg/dl trong thời gian ngắn sau sinh. May
mắn thay, tuy nhiên, ở trẻ sơ sinh-không
giống với người lớn- sốc insulin hoặc hôn
mê do nồng độ đường máu thấp hiếm khi
xảy ra. Bà mẹ bị đái tháo đường type II
phần lớn sinh ra đứa trẻ lớn. Đái tháo
đường type II ở bà mẹ kháng lại tác dụng
chuyển hóa của insuline và đáp ứng bù tăng
nồng độ insulin huyết tương. Mức cao của
insulin được cho rằng kích thích thai tăng
trưởng và góp phần vào tăng trọng lượng
thai. Tăng cung cấp đường và các chất dinh
dưỡng khác cho thai cũng góp phần tăng
trọng lượng thai. Tuy nhiên, phần lớn tăng
trọng lượng thai là do tăng lượng mỡ cơ
thể; thường ít tăng chiều cao, mặc dù kích
thước của một số cơ quan có thể tăng
(organomagaly). Khi người mẹ đái tháo
đường type I không kiểm soát (thiếu sự bài
tiết insulin), sự tăng trưởng của bào thai bị
kìm hãm bởi vì thiếu chuyển hóa ở người
mẹ,và sự tăng trưởng và trưởng thành của
mô trẻ sơ sinh thường bị suy giảm. Ngoài
ra, có tỉ lệ cao bị chết bào thai. Trong số
những bào thai đi đến chín, thì vẫn có một
tỉ lệ chết cao. Hai phần ba số trẻ em chết do
hội chứng suy hô hấp, được trình bày ở
phần sau.
4. Thỉnh thoảng một đứa trẻ được sinh ra với

giảm chức năng vỏ thượng thận, thường
gây ra do bất sản tuyến thượng thận hay teo
do suy kiệt, chúng có thể xảy ra khi tuyến
thượng thận bị kích thích quá mức.
5. Nếu một người phụ nữ mang thai bị cường
giáp hoặc được điều trị với hormone tuyến
giáp quá mức, đứa trẻ được sinh ra có khả
năng giảm bài tiết hormone tuyến giáp tạm
thời. Ngược lại, nếu trước khi mang thai
người mẹ đã bị loại bỏ tuyến giáp, tuyến
yên bà mẹ có thể bài tiết một lượng lớn


Những hệ thống cơ quan khác nhau chưa hoàn thiện
chức năng ở trẻ sơ sinh thiếu tháng làm cho các cơ
chế hằng định nội môi của cơ thể không ổn định. Ví
dụ, cân bằng acid-base có thể thay đổi rất lớn, đặc
biệt khi tỉ lệ thức ăn hấp thu vào thay đổi theo thời
gian. Cũng tương tự như vậy, nồng độ protein máu
thường thấp bởi vì gan chưa phát triển hoàn toàn,
thường dẫn đến phù do hạ protein máu. Trẻ sơ sinh
Những vấn đề đặc biệt của đẻ non.
Tất cả những vấn đề trong cuộc sống của trẻ sơ sinh chưa có khả năng điều hòa nồng độ calci máu dẫn
đến co giật cơ do hạ calci máu (hypocalcemic
được lưu ý chỉ nghiêm trọng hơn ở trẻ sinh non.
tetany). Cũng vì thế, nồng độ đường máu có thể
Chúng có thể được phân loại theo hai tiêu đề sau
thay đổi rất rộng từ 20 đến hơn 100 mg/dl, phụ
đây: (1) hệ cơ quan nào đó chưa hoàn thiện và (2)
thuộc chủ yếu vào thời điểm cho ăn. Từ những thay

hệ thống kiểm soát hormone khác nhau không ổn
định. Vì những ảnh hưởng này, những đứa trẻ sinh đổi rất lớn trong môi trường nội sinh của trẻ sơ sinh
thiếu tháng, không ngạc nhiên khi mà tỉ lệ chết cao
non hiếm khi sống được nếu được sinh non nhiều
ở những đứa trẻ sinh non hơn 3 tháng.
hơn 3 tháng.
Sự phát triển chưa hoàn thiện của trẻ sinh Nhiệt độ cơ thể không ổn định. Một trong những
vấn đề đặc biệt của trẻ sinh thiếu tháng là không có
non.
khả năng ổn định nhiệt độ cơ thể. Nhiệt độ cơ thể
Hầu như tất cả hệ thống cơ quan là chưa hoàn thiện của trẻ sinh thiếu tháng có xu hướng bằng với nhiệt
ở trẻ sinh non và cần phải chăm sóc đặc biệt nếu
độ môi trường xung quanh. Ở nhiệt độ phòng bình
như đứa trẻ sinh non được cứu sống.
thường , nhiệt độ của trẻ (tính theo độ F) có thể ổn
Hô hấp. Hệ thống hô hấp đặc biệt có khả năng
định ở mức thấp hơn 90 hoặc thậm chí 80. Những
bị kém phát triển ở trẻ sơ sinh thiếu tháng. Dung
nghiên cứu cho thấy rằng nhiệt độ cơ thể được ổn
tích sống và dung tích khí cặn chức năng của phổi
định dưới 96oF (33.5oC) được đi kèm với một tỉ lệ
nhỏ so với kích thước của đứa bé. Ngoài ra, bài tiết chết đặc biệt cao, chúng lý giải cho việc hầu như
surfactant bị giảm hoặc không xuất hiện. Như một
bắt buộc sử dụng lồng ấp khi chăm sóc trẻ sơ sinh
kết quả, hội chứng suy hô hấp là một nguyên nhân thiếu tháng.
gây chết phổ biến. Ngoài ra, dung tích khí cặn chức Nguy cơ bị mù gây ra bởi điều trị quá nhiều
năng thấp ở trẻ sơ sinh thiếu tháng thường kết hợp
oxy ở những trẻ sơ sinh thiếu tháng.
với chu kì thở kiểu Cheyne-Stokes.
Bởi vì những trẻ sơ sinh thiếu tháng thường bị suy

Chức năng đường tiêu hóa. Một vấn đề lớn
hô hấp, điều trị oxy được sử dụng điều trị cho
của trẻ sinh thiếu tháng là tiêu hóa và hấp thu đủ
những đứa trẻ này. Tuy nhiên, sử dụng quá nhiều
thức ăn. Những đứa trẻ sinh thiếu nhiều hơn 2
oxy gen để điều trị cho trẻ sơ sinh non, đặc biệt là
tháng, hệ thống tiêu hóa và hấp thu hầu như không lúc mới sinh, có thể dẫn đến mù bởi vì quá nhiều
đủ. Hấp thu chất béo rất kém ở trẻ thiếu tháng nên
oxy làm dừng sự tăng sinh các mạch máu mới của
phải có một chế độ ăn ít chất béo. Hơn nữa, bởi vì
võng mạc. Sau đó, khi điều trị oxy dừng lại những
hấp thu calci rất khó ở trẻ sơ sinh thiếu tháng, trước mạch máu sẽ bù đắp cho thời gian đã mất và vỡ các
những khó khăn đã được công nhận, những đứa trẻ mạch lớn tràn vào khắp thủy tinh dịch, ngăn ánh
thiếu tháng có thể mắc bệnh còi xương nặng. Vì lý
sáng từ đồng tử đến võng mạc. Sau đó, các mạch
do này, cần đặc biết chú ý bổ sung calci và vitamin máu được thay thế với một khối mô xơ ở thủy tinh
D.
dịch của mắt.
Chức năng của các cơ quan khác. Những hệ
Tình trạng này, được biết như là Bệnh võng mạc trẻ
thống cơ quan khác chưa hoàn thiện thường gây
sinh non, gây mù vĩnh viễn. Vì lý do này, nó đặc
những khó khăn cho trẻ sơ sinh thiếu tháng bao
biệt quan trọng để tránh điều trị cho trẻ sinh non
gồm: (1) gan chưa hoàn thiện, chúng gây ra có ít
với liệu pháp oxy với nồng độ cao. Những nghiên
các chất chuyển hóa trung gian và thường có xu
cứu sinh lý học chỉ ra rằng những trẻ sinh non
hướng chảy máu do giảm hình thành các yếu tố
thường an toàn với liệu pháp oxy 40%, nhưng một

đông máu; (2) thận chưa trưởng thành, làm cho cơ
số nhà nghiên cứu trẻ em tin rằng hoàn toàn an toàn
thể đặc biệt thiếu khả năng đào thải acid, theo đó
có thể đạt được chi khi cho thở nồng độ oxy bình
đứa trẻ dễ bị nhiễm toan và rối loạn cân bằng dịch
thường.
nghiêm trọng; (3) cơ chế tạo máu của tủy xương
chưa hoàn thiện, chúng cho phép nhanh chóng tiến Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em.
Những vấn đề lớn của đứa trẻ ngoài giai đoạn sơ
đến bệnh thiếu máu; và (4) giảm hình thành γsinh là liên quan đến nhu cầu chuyển hóa đặc biệt
globulin bởi hệ thống bạch huyết, chúng thường
cho sự tăng trưởng, chúng được bao trùm hoàn toàn
dẫn đến nhiễm trùng nặng.
trong nội dung của cuốn sách này ở phần chuyển
Những hệ thống kiểm soát hằng số nội môi
hóa và nội tiết.
không không ổn định ở trẻ sinh thiếu tháng.
thyrotropin trong trời gian mang thai và
đứa trẻ sinh ra bị cường giáp tạm thời.
6. Khi một bào thai thiếu sự bài tiết tuyến
giáp, sự tăng trưởng xương kém và chậm
phát triển trí não, gây ra tình trạng gọi là
người lùn độn, được trình bày ở Chương
77.


Hình 84-8 thể hiện sự thay đổi chiều cao của con
trai và con gái qua thời gian cho đến tuổi 20. Đặc
biệt lưu ý rằng các đường chiều cao song song với
nhau hầu như đúng cho đến cuối thập niên đầu tiên.

Giữa độ tuổi 11-13 tuổi, estrogen nữ giới bắt đầu
được hình thành và gây ra tăng chiều cao nhanh
chóng nhưng sụn bọc đầu xương của xương dài
nhanh chóng bị nối liền ở khoảng 14-16 tuổi, vì thế
tăng chiều cao sau đó bị dừng lại. Ngược lại, tác
động của testosterone ở nam giới gây dài xương
xảy ra sau đó một chút- chủ yếu giữa 13-17 tuổi. Ở
nam giới, tuy nhiên, giai đoạn tăng trưởng kéo dài
bởi vì chậm nối liền của sụn bọc đầu xướng
(epiphyses), vì thế cuối cùng chiều cao nam giới
cao hơn nữ giới đáng kể.

Phát triển hành vi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Brew N, Walker D, Wong FY: Cerebral vascular regulation
and brain
injury in preterm infants. Am J Physiol Regul Integr Comp
Physiol
306:R773, 2014.
Coceani F, Baragatti B: Mechanisms for ductus arteriosus
closure.
Semin Perinatol 36:92, 2012.
Forhead AJ, Fowden AL: Thyroid hormones in fetal growth
and prepartum
maturation. J Endocrinol 221:R87, 2014.
Fowden AL, Giussani DA, Forhead AJ: Intrauterine
programming
of physiological systems: causes and consequences. Physiology
(Bethesda) 21:29, 2006.

Gao Y, Raj JU: Regulation of the pulmonary circulation in the
fetus
and newborn. Physiol Rev 90:1291, 2010.
Gluckman PD, Hanson MA, Cooper C, Thornburg KL: Effect
of in
utero and early-life conditions on adult health and disease. N
Engl
J Med 359:61, 2008.
Grijalva J, Vakili K: Neonatal liver physiology. Semin Pediatr
Surg
22:185, 2013.
Hilaire G, Duron B: Maturation of the mammalian respiratory
system.
Physiol Rev 79:325, 1999.
Hines MH: Neonatal cardiovascular physiology. Semin Pediatr
Surg
22:174, 2013.
Johnson MH: Functional brain development in humans. Nat
Rev
Neurosci 2:475, 2001.
Kugelman A, Colin AA: Late preterm infants: near term but
still in a
critical developmental time period. Pediatrics 132:741, 2013.

Phát triển hành vì chủ yếu liên quan đến sự hoàn
thiện của hệ thần kinh. Nó khó để phân biệt giữa
hoàn thiện cấu trúc giải phẫu của hệ thống thần
kinh hay do giáo dục. Nghiên cứu giải phẫu thấy
rằng những ống thần kinh lớn của hệ thần kinh
trung ương chưa hoàn toàn được myeline cho đến

cuối năm đầu tiên. Vì lý do này, trạng thái của hệ
thần kinh chưa hoàn thiện chức năng lúc sinh. Vỏ
não và những chức năng kết hợp, như nhìn, dường
như cần vài tháng sau sinh để phát triển hoàn thiện
chức năng.
Lúc sinh, khối não của đứa trẻ chỉ bằng 26% so với
khối não người lớn và lúc 1 tuổi là 55%, nhưng nó
hầu như tương ứng với ngưới lớn sau vài năm.
Quá trình này cũng được kết hợp với đóng thóp và
nối các xương sọ, chúng cho phép khối não tăng
thêm 20% sau vài tuổi. Hình 84-9 biểu thị một biểu
đồ quá trình tăng trưởng của đứa trẻ trong năm đầu
Luyckx VA, Bertram JF, Brenner BM, et al: Effect
tiên. So sánh biểu đồ so với sự phát triển thực tế
của đứa bé được sử dụng cho đánh giá lâm sàng về of fetal and child
health on kidney development and long-term risk of
sự phát triển trí não và hành vi.
hypertension
and kidney disease. Lancet 382:273, 2013



×