Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

2013 CD 11 lao động, việc làm, chính sách đối với người lao động và chỉ tiêu xác minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.02 KB, 26 trang )

UBND TỈNH HƯNG YÊN
SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

ĐỀ TÀI
Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chí quản lý doanh nghiệp sau
đăng ký trên hồ sơ điện tử tại tỉnh Hưng Yên

CHUYÊN ĐỀ 11

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU QUẢN LÝ
LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM

Hà Nội, tháng 10 năm 2013


2

MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

Lao động là một trong những yếu tố đầu vào cùng với các yếu tố khác đóng
vai trò quyết định đến quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Một mặt là nguồn lực sản xuất chính không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế.
Một mặt là bộ phận của dân số ,là người được hưởng thụ những lợi ích của quá
trình phát triển. Mọi quốc gia đều nhấn mạnh đến mục tiêu: “Phát triển vì con người


và coi đó là động lực của sự phát triển”.
Nguồn lực con người là nguồn lưc quan trọng nhất, lâu bền nhất trong sự phát
triển của mỗi quốc gia, Bởi lẽ “cho dù các nguồn lực mà không có môi trường kinh
tế, chính trị, xã hội, tâm lý và dư luận thuận lợi cho con người hoạt động thì không
chắc đạt được sự phát triển như mong muốn. Chính vì vây cần phải cân đối và bôi
trơn bánh xe thị trường lao động. Thị trường lao động được hình thành, là thị trường
lớn nhât và quan trọng nhất trong hệ thống các loại thị trường. Nó có đặc điểm khác
biệt so với các loại thị trường khác. Thị trường lao động không chỉ bị chi phối bởi
các yếu tố về cung cầu lao động mà còn chịu tác động mạnh mẽ của các chính sách
của Chính phủ điều tiết quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động nhằm
phục vụ mục tiêu kinh tế-xã hội trong tổng thể của quá trình phát triển kinh tế xã
hội nói chung. Kết quả của thị trường lao động, mức độ cân bằng giữa cung cầu lao
động mà cụ thể là mức độ tình trạng có việc làm, thất nghiệp, có ảnh hưởng quan
trọng đến đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy lao động và việc
làm là một trong những vấn đề được quan tâm xem xét hàng đầu để hoạch định phát
triển kinh tế nhằm đạt được một nền kinh tế xã hội tăng trưởng kinh tế của mỗi
quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, đặc biệt trong quá trình hội nhập
của nước ta hiện nay, việc nghiên cứu “Xây dựng hệ thống chỉ tiêu quản lý lao động
và việc làm” sẽ giúp đi sâu và tìm hiểu rõ hơn về những yếu tố ảnh hưởng đến lao
động và việc làm, từ đó đưa ra hệ thống chỉ tiêu quản lý, vận dụng vào thực tế, đề ra
những giải pháp thiết thực đối với vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lao động
vào việc làm, từ đó bước đầu đề xuất hệ thống chỉ tiêu giúp quản lý vấn đề về lao
động và việc làm ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống chỉ tiêu quản lý lao động và việc

làm.


4

Đề tài được thực hiện trong phạm vi thời gian từ 2/2013 đến hết tháng 9/2013.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua việc khảo sát các
yếu tố ảnh hưởng đến lao động và việc làm từ các chuyên gia. Sau đó sử dụng
phương pháp thống kê để tập hợp được hệ thống các tiêu chí quản lý vấn đề lao
động và việc làm.

1. CHƯƠNG 1.
TỔNG QUAN VỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM


5

1.1.

Khái niệm lao động và việc làm.

1.1.1. Khái niệm lao động:
Lao động có thể hiểu là hoạt động có mục đích của con người,thông qua hoạt
đông đó con người tác động vào tự nhiên cải biến chúng thành những vật có ích
nhằm đáp ứng một hay môt số nhu cầu nào đó của con người. Hoat động lao động
có ba đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất,về mặt tính chất, hoạt động lao động lao động phải có mục
đích của con người.

• Thứ hai, về mục đích, hoat động lao động phải tạo ra sản phẩm nào đó
nhằm thỏa mãn nhu cầu chính đáng nào đó của con người
• Thứ ba, xét về mặt nội dung, hoat động lao động của con người là phải
tác động vào tự nhiên và xã hội nằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần
phục vụ cho lợi ích của con người.


1.1.2. Khái niệm việc làm:
Việc làm là phạm trù dung để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và
nhưng điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó. Sự phù hợp giữa chi phí ban
đầu và sức lao động có ý nghĩa là mọi người có khả năng lao động , có nhu cầu làm
việc đều có việc làm. Nếu chỉ xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động
khi có việc làm thì đó là việc làm đầy đủ, còn nếu xem xét trong trường hợp sử
dụng triệt để nguồn lực về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm việc
làm hợp lý. Điều 13 chương II “Việc làm” của Bộ luật Lao Động, một hoạt động
được coi là có việc làm cần thỏa mãn 2 điều kiện:
Một là, hoạt động phải có ích và taọ ra thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình.
• Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm.


1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến lao động và việc làm.

Trên thị trường, lao động và việc làm bị tác động bởi rất nhiều yếu tố, trong đó
yếu tố về cung, cầu lao động là những yếu tố tác động chủ yếu nhất đến tình hình
lao động và việc làm. Cung lao động được hiểu là những người có nhu cầu về việc
làm để tạo ra thu nhập (bao gồm cả những người trong độ tuổi lao động và ngoài độ
tuổi lao động). Cầu lao động là khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao

động ở một không gian và thời gian nhất định. Những yếu tố ảnh hưởng đến cung –
cầu lao động cũng chính là những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình lao động và việc
làm trên thị trường.
1.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung lao động, việc làm.
Trên thị trường lao động, cung về lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau. Ngoài việc chịu sự điều tiết của thị trường lao động theo mối quan hệ


6

cung cầu trên thị trường thông qua tiền lương, cung lao động còn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố khác như dân số, kinh tế - văn hóa - xã hội, y tế và giáo dục… Trong
đó yếu tố về dân số; kinh tế - văn hóa – xã hội chủ yếu ảnh hưởng đến số lượng và
cơ cấu cung lao động thông qua số lượng, cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động và
tỷ lệ tham gia lao động… Còn các yếu tố khác có ảnh hưởng đến chất lượng cung
lao động trên thị trường.


Yếu tố dân số:

Các biến đổi về dân số như sinh, tử, di cư có tác động đến quy mô, cơ cấu tuổi
– giới tính, và phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động. Trong đó,
các tỉ suất sinh tác động đến quy mô dân số trong độ tuổi lao động sau 15 năm, còn
các tỷ lệ tử vong và di cư chỉ có tác động tức thì.
Tốc độ tăng giảm dân số có tác động làm tăng giảm dân số trong độ tuổi lao
động. Tuy nhiên, không phải tất cả dân số trong độ tuổi lao động đều là cung lao
động. Sẽ có một bộ phận người trong độ tuổi lao động không có khả năng lao động
do tàn tật hoặc do học hành, nội trợ… nên không tham gia lao động. Do đó mức
tăng nguồn lao động không chỉ phụ thuộc vào tốc độ sự tăng dân số mà còn phụ
thuộc vào sự thay đổi mức độ tham gia lao động của dân số.

Di cư có tác động tứcthì đến cung lao động, đặc biệt là khu vực thị trường lao
động thành thị. Bởi di cư chủ yếu là người trong độ tuổi lao động và hầu hết lý do di
cư là để kiếm một môi trường làm việc có điều kiện mới nên tỷ lệ tham gia lao động
của họ rất cao, thậm chí cao hơn những người không di cư, làm tăng nguồn lực ở
nơi chuyển đến một cách tức thì.


Yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa:

Yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa tác động mạnh đến quy mô và cơ cấu lực lượng
lao động thông qua mức độ tham gia lao động của các nhóm dân số.
Mức độ tham gia lao động của trẻ em phụ thuộc nhiều vào dịch vụ, giáo dục
có sẵn, chi phí giáo dục, khả năng đóng góp của lao động trẻ em vào thu nhập gia
đình, các chính sách và quan điểm, thái độ của chính phủ đối với lao động trẻ em.
Sự tham gia lao động của nhóm dân số trên tuổi lao động phụ thuộc: nguồn
thu nhập thay thế đến khi tuổi già, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa,
các chính sách hưu trí bắt buộc…
Sự tham gia của lao động nữ phụ thuộc vào các yếu tố nhất định. Việc giảm
mức sinh, sự phát triển của kinh tế hộ gia đình, mức tiền lương cho lao động nữ
tăng lên… làm tăng mức độ tham gia lao động của phụ nữ.


Yếu tố về y tế và giáo dục, đào tạo:


7

Y tế và giáo dục cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cung lao động.Về mặt số
lượng, nó tác động đến dân số thông qua trình độ văn hóa của người dân nói chung
và của các bà mẹ nói riêng. Từ đó ảnh hưởng tới lượng cung lao động.

Y tế, với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, có tác động mạnh mẽ tới
sức khỏe của người lao động. Trong khi giáo dục và đào tạo lại có ảnh hưởng toàn
diện đến sức khỏe, trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn, kĩ năng nghề
nghiệp của lực lượng lao động.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu lao động, việc làm.


Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế

Như ta đã biết, hàm sản xuất được viết dưới dạng: Q = f(K,L) trong đó Q là
sản lượng, K là vốn, L là lao động, f biểu thị công nghệ. Do đó nếu công nghệ và
vốn cố định thì tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng cầu lao động, việc làm. Tuy nhiên
tăng trưởng kinh tế thường kéo theo sự thay đổi công nghệ, và sự thay đổi này
thường làm tăng nhu cầu giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, tăng nhu cầu lao động
có trình độ chuyên môn kỹ thuật.


Mức độ công nghiệp hóa

Đảng và Nhà nước ta đã xác định đường lối phát triển của đất nước là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những khó khăn gặp phải là làm thế nào để
công nghiệp hóa có khả năng tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động lớn và đang
tăng lên ở nước ta. Chúng ta cần lựa chọn “công nghệ với chi phí tối thiểu” để sử
dụng lao động nhiều hơn thay vì nhập khẩu và áp dụng công nghệ với dung lượng
lớn. Chiến lược đặt ra hiện nay làm sao thúc đẩy các ngành công nghiệp nhỏ, cả về
truyền thống và hiện đại, thường có khả năng tạo việc làm nhiều hơn, khả thi hơn về
vốn đối với lựa chọn công nghệ.


Yếu tố giá cả


Đây là yếu tố ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm. Như đã biết, mối quan hệ
giữa giá cả và cầu lao động có thể được biểu hiện như sau:
p*Q = W*L + r*K
(trong đó: p là mức giá cả, Q là sản lượng đầu ra, W là mức tiền công, r là lãi
suất vốn)
Giá cả là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các phương thức sản xuất, tác
động đến tỷ trọng lao động và vốn. Trên phương diện vĩ mô nó thúc đẩy các công
nghệ đắt tiền, không thích hợp, ảnh hưởng không tốt đến việc làm, sử dụng vốn kém
hiệu quả. Mặt khác nếu điều tiết tiền lương, tiền công không tốt sẽ làm biến dạng


8

giá cả. Chẳng hạn nếu tăng tiền lương ở khu vực quản lý nhà nước và hành chính sự
nghiệp mà vẫn giữ nguyên biên chế thì sẽ làm tăng tiền lương đối với khu vực khác.


Yếu tố phân phối thu nhập và các hình thức tiêu dùng:

Nếu các hình thức tiêu dùng như thế nào đó để có nhu cầu lớn hơn đối với
hàng hóa trong nước và các dịch vụ được tạo ra bởi các phương pháp sản xuất cần
nhiều lao động thì sẽ tăng được nhu cầu tiêu dùng, kết quả sẽ làm tăng nhu cầu lao
động. Nếu nhu cầu tiêu dùng chỉ hướng tới các sản phẩm nhập ngoại, được sản xuất
bởi các phương pháp công nghệ cần nhiều vốn thì dẫn đến làm giảm nhu cầu lao
động. Như vậy, các hình thức tiêu dùng tác động quan trọng đến nhu cầu lao động.
Mặt khác, các nhu cầu tiêu dùng lại chịu tác động của nhiều yếu tố khác, trong đó
có các loại hình phân phối thu nhập trong xã hội. Các gia đình có thu nhập trung
bình và cao thường có xu hướng tiêu dùng thiên về các hàng hóa nhập ngoại. Đối
với các gia đình nghèo có thu nhập thấp không thể tăng mức tiêu dùng nên thường

tiêu dùng các hàng hóa địa phương, do đó khuyến khích sản xuất phát triển, tăng
cầu lao động, mở rộng thêm việc làm.


Tiết kiệm và tạo vốn:

Nhìn chung, nhân công nước ta có khả năng “hấp thụ vốn” thấp hơn so với
công nhân các nước phát triển. Nếu tăng sản lượng thông qua tăng năng suất lao
động sẽ tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn, do đó một số lợi ích thu được sẽ đến
với người lao động và người tiêu dùng làm cho giá cả ổn định. Vấn đề là làm sao có
đủ vốn cho sức lao động dôi dư và số lao động đang tăng lên. Các nhà kinh tế đã chỉ
ra rằng vấn đề trung tâm trong học thuyết phát triển kinh tế là tiết kiệm (tích lũy)
của cộng đồng. Cần tiết kiệm bao nhiêu là hợp lý cho một tỉ lệ tăng việc làm nhất
định. Do nước ta trình độ phát triển thấp, lực lượng lao động tăng nhanh nên cần
phải có mức tích lũy cao. Rõ ràng tồn tại một nghịch lý rằng các nước nghèo cần
nhiều vốn thì lại không có, trong khi đầu tư nước ngoài và vay nợ cần thiết để tạo
vốn thì nợ tồn đọng và khả năng trả làm cản trở các chiến lược này ở nước ta.


Chính sách khuyến khích tự tạo việc làm:

Đây là yếu tố quan trọng với đặc điểm thị trường lao động nước ta. Đảng và
Nhà nước khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư
nhân. Điều này đòi hỏi một thể chế ổn định. Tất cả các nhà đầu tư dù lớn hay nhỏ
đều đòi hỏi sự ổn định để có thể hoạch định và xúc tiến các dự án đầu tư. Sự ổn
định này đòi hỏi trên 2 phương diện:
Hệ thống luật điều tiết hoạt động của kinh tế tư nhân không được thay
đổi thường xuyên, trừ các hành vi tháo gỡ vướng mắc và các hành vi
nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường.
• Về tổng thể nền kinh tế phải ổn định để đảm bảo không lạm phát. Mất

ổn định kinh tế sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng, do đó cản trở tự tạo



9

việc làm, cũng như cải thiện tiền công. Trên giác độ này tỷ trọng công
nhân tự tạo việc làm sẽ tăng lên trong thời kỳ suy thoái do mất việc
làm, tiền công trong khu vực cũng bị cắt giảm. Tự tạo việc làm không
có ý nghĩa nếu như không làm tăng sản lượng và nâng cao mức sống.
1.3.

Quản lý lao động và việc làm.

Quản lý lao động là hoạt động quản lý lao động con người trong một tổ chức
nhất định trong đó chủ thể quản trị tác động lên khách thể bị quản trị nhằm mục
đích tạo ra lợi ích chung của tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp
được đặt trong sự cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp
phải thường xuyên tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đó các
công việc phải quan tâm hàng đầu là quản trị lao động. Những việc làm khác sẽ trở
nên vô nghĩa nếu công tác quản lý lao động không được chú ý đúng mức không
được thường xuyên củng cố. Thậm chí không có hiệu quả, không thể thực hiện bất
kỳ chiến lược nào nếu từng hoạt động không đi đôi với việc hoàn thiện và cải tiến
công tác quản lý lao động. Một doanh nghiệp dù có điều kiện thuận lợi trong kinh
doanh, có đầy đủ điều kiện vật chất kĩ thuật để kinh doanh có lãi, một đội ngũ công
nhân viên đủ mạnh nhưng khoa học quản lý không được áp dụng một cách có hiệu
quả thì doanh nghiệp đó cũng không tồn tại và phát triển được. Ngược lại một
doanh nghiệp đang có nguy cơ sa sút, yếu kém để khôi phục hoạt động của nó, cán
bộ lãnh đạo phải sắp xếp, bố trí lại đội ngũ lao động của doanh nghiệp, sa thải
những nhân viên yếu kém, thay đổi chỗ và tuyển nhân viên mới nhằm đáp ứng tình

hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với khả năng làm
việc của từng người.
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã làm cho các mối quan hệ
giữa con người càng trở nên phức tạp. Nhiệm vụ của quản lý lao động là điều hành
chính xác trọn vẹn các mối quan hệ ấy để cho sản xuất được tiến hành nhịp nhàng,
liên tục và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy vai trò của quản lý lao động đối với doanh
nghiệp là rất quan trọng. Bởi lẽ quản lý lao động là bộ phận không thể thiếu được
của quản trị sản xuất kinh doanh, nó nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số lượng và
chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra, tìm
kiếm và phát triển những hình thức, những phương pháp tốt nhất để con người có
thể đóng nhiều sức lực cho các mục tiêu của tổ chức đồng thời cũng tạo cơ hội để
phát triển không ngừng chính bản thân con người. Sử dụng có hiệu quả nguồn lực
của con người là mục tiêu của quản lý lao động.
Quản lý lao động cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ
nền kinh tế đất nước. Quản lý lao động hiệu quả sẽ giúp giải quyết vấn đề việc làm
cho người lao động, tránh gây tình trạng thừa, thiếu lao động trong xã hội. Việc
quản lý vấn đề lao động, việc làm không chỉ góp phần ổn định cuộc sống của người


10

dân mà còn tạo tiền đề cho sự ổn định của cả đất nước, góp phần thúc đẩy nâng cao
mức sống và cải thiện nền kinh tế.


11

2. CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


2.1.

Thực trạng nguồn lao động

Vấn đề nguồn lao động (nhân lực) thực chất là vấn đề con người. Xây dựng
nguồn nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố
chất, tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) công bố dân số Việt Nam tính đến hết 10/2012
đạt xấp xỉ 87 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ
Dân số Liên hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng
100 triệu người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam đến năm 2012 đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12
nước ở châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam đến
năm 2012 đạt 3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp
thứ 73/133 nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tạm tính
đến hết năm 2012 là 75.
Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61 triệu
433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có khoảng
113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217 làng nghề,
40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến hơn 100 nước.
Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác,
chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa. Họ đều
tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là
nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát
triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ
về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông,
lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này
phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém

này đã dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình
trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất
thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp)
hiện đang còn là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động
ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà
nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây
dựng đô thị.


12

Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho
nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp,
công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ
có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều;
chất lượng lao động rất thấp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch
lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông
thôn chưa đồng bộ, chưa mang tính khuyến khích và tính cạnh tranh.
Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công nhân đang làm việc ở
nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề ở nước
ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh doanh cá thể). Số công nhân có trình độ cao đẳng,
đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung, công nhân có tay nghề
cao chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói chung. Cả nước, tính đến năm
2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy nghề. Trường trung cấp công
nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới thống kê được, tính đến cuối năm
2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810
trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ

trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu cầu
đào tạo. Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường
trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy
nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người. Trong
các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nhân làm việc trong
các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp, khoảng 20% trong tổng số
công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp nhẹ,
chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%.Vì đồng lương còn thấp, công
nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi
làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên
đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công
nhân.Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến tích
cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên từng
bước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời sống của
giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phát triển của giai
cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề
nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề; tác phong công
nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ
nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra
một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên
cạnh đó, những hạn chế, yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng không


13

nhỏ đến việc làm, đời sống, tâm tư, tình cảm của công nhân; những chính sách về
giai cấp công nhân tuy đã ban hành, nhưng chưa sát hợp với tình hình thực tế của
giai cấp công nhân. Trong các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, không ít

trường hợp còn vi phạm chính sách đối với công nhân và người lao động.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại học
và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong những
năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển nhanh: năm
2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003:
1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn
người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước có
khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16
nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa học và công nghệ;
52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47.700 có trình độ
thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo viên
dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì
có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn. Đội ngũ trí
thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3
triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số
trường đại học trên thế giới.Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007,
Việt Nam có 143 trường đại học, đại học, học viện2; 178 trường cao đẳng; 285
trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74
trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại
63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học
sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn
chiếm rất thấp so với thế giới.Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát
triển. Vào năm học 2007-2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95
trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ
sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là
các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục
ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài
công lập là 15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%,
học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng,
đại học là 11,8%.Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh

giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2007-2008.Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục
và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20
nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước.Nhà nước đã
dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm
20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007.Bên cạnh
nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công chức, viên chức (cũng
xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh:Tổng số
công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc tại


14

54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12).Tổng số nhà báo của
cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ
sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục nghìn người khác là
cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo,
phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài
phát thanh, truyền hình.Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam
hiện có gần 39 nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành
kho bạc là 13.536 người.Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch
định chính sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43
tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm
10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại
học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên
môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24
nghìn người dân). Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của
các cơ quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.Tổng nhân lực các hội, liên
hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có 52,893 người
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã
dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí

thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên chức làm
việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một công
chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng
nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa
có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại.
Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không đáp ứng được công việc. Bằng
cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế thừa nhận. Năm
2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411 người. Theo ước tính, mỗi tấm
bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu
đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh
phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất
thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà
nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số này có
thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có
công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập này
đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm đổi mới,
kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới thì còn
kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài chính quốc tế
(IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo
sát.


15

Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng
cấp, còn đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào

tạo.
• Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
giữa lượng và chất.
• Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông,
chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp,
chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa có những
chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có những nhà
thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi. Báo chí nước ngoài
bình luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và
tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,
điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. [1]
2.2.

Vấn đề việc làm

Năm 2012, kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải phá
sản hoặc thu hẹp sản xuất (năm 2012 cả nước có khoảng 55.000 doanh nghiệp bị
giải thể, phá sản), người lao động bị mất việc làm và thiếu việc làm tăng,... Tuy
nhiên, số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản nhiều song chủ yếu là các doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ (trung bình khoảng 2,5 lao động/doanh nghiệp), nên số lao
động bị tác động do doanh nghiệp phá sản, giải thể không nhiều, đó là chưa kể đến
số lượng doanh nghiệp đã đăng ký nhưng chưa đi vào hoạt động tự động giải thể
chiếm một tỷ lệ lớn. Ngoài ra, ở nước ta hiện nay tại nhiều doanh nghiệp trong khu
công nghiệp, khu chế xuất nhất là các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu
chế xuất khu vực phía nam như tại Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí

Minh,... nhu cầu tuyển dụng lao động vẫn ở mức cao, chủ yếu là lao động phổ thông
nên khi bị mất việc làm người lao động có thể dể dàng tìm được công việc phù hợp
tại các doanh nghiệp khác. Hơn nữa, với việc các doanh nghiệp được thành lập mới
trong năm 2012 (tính đến ngày 30/11/2012, cả nước đã có 65.091 doanh nghiệp
thành lập mới) cũng góp phần thu hút thêm số lượng đáng kể lao động vào làm việc.
Do đó, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước năm 2012 chỉ đạt ở mức thấp
5,03% nhưng số lao động được giải quyết việc làm thông qua các Chương trình
phát triển kinh tế xã hội năm 2012 vẫn đạt tương đối cao, khoảng 1,3 triệu lượt lao
động.


16

Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề giải quyết việc làm vẫn là một vấn
đề bức xúc, còn nhiều hạn chế như:chất lượng việc làm chưa cao, tính ổn định, bền
vững trong việc làm và hiệu quả tạo việc làm còn thấp, khả năng tạo việc làm của
nền kinh tế chưa cao, chuyển dịch cơ cấu lao động chậm, lao động chủ yếu làm việc
trong nông nghiệp (47,5%), lao động ở khu vực nông thôn chiếm chủ yếu (khoảng
69,4%), chất lượng lao động, năng suất lao động còn nhiều hạn chế (năng suất lao
động của Việt Nam chỉ đạt khoảng 61,4% mức bình quân của ASEAN, bằng 12% so
với Singapo, 14% của Hàn Quốc, 22% của Malaysia và 45% của Trung
Quốc)... Trong giai đoạn tới, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở
thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và
quan hệ quốc tế, sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, thế
giới sẽ bước vào một giai đoạn phát triển mới với việc tái cấu trúc và điều chỉnh các
nền kinh tế với sự phát triển của kinh tế tri thức, sử dụng nhiều lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao…Trong bối cảnh đó, Việt Nam sẽ đối mặt với những
thách thức về hỗ trợ phát triển thị trường lao động cũng như việc cân bằng giữa tạo
việc làm và phát triển, ổn định kinh tế vĩ mô, những khó khăn, tồn tại trong giai
đoạn trước cùng với những thách thức mới trong lĩnh vực việc làm.[2]



17

3. CHƯƠNG 3.
XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHỈ TIÊU QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM

3.1.

Thiết kế nghiên cứu

Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và nội dung nghiên cứu đã được xác định,
tác giả tiến hành thiết kế nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên cứu về vấn đề
lao động – việc làm; xác định tầm quan trọng của các yếu tố tác động đến việc quản
lý lao động – việc làm; xây dựng thang đo, từ đó đưa ra hệ thống chỉ tiêu quản lý
lao động và việc làm.
Phương pháp chuyên gia được vận dụng để thu thập ý kiến về những chỉ tiêu
dùng trong việc quản lý lao động và việc làm. Dữ liệu thu thập sẽ được tổng hợp,
xử lý; từ đó đề xuất bộ tiêu chí vể quản lý lao động – việc làm.
3.2.

Mô hình nghiên cứu

Dựa trên việc trình bày các yếu tố tác động đến lao động và việc làm cùng với
việc tham khảo, xin ý kiến chuyên gia, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu hệ thống
chỉ tiêu quản lý lao động – việc làm gồm 3 nhân tố: số lượng lao động, chất lượng
lao động và chất lượng việc làm.


Chất lượng nguồn lao động (nguồn nhân lực) là trạng thái nhất định của

nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên
bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là
chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế và đời sống của người dân
trong một xã hội nhất định. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện
thông qua một hệ thống các chỉ tiêu, trong đó có các chỉ tiêu chủ yếu
sau:
o Chỉ tiêu biểu hiên trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực: Sức
khỏe là trạng thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con
người, và được biểu hiện thông qua nhiều chuẩn mực đo lường về
chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa…ngoài ra
người ta còn sử dụng các chỉ tiêu như tỷ lệ sinh – tử, tỷ lệ tử vong
của trẻ em, tỷ lệ thấp cân trẻ sơ sinh, tuổi thọ trung bình, cơ cấu
giới, cơ cấu tuổi, mức GDP/đầu người…
o Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của nguồn nhân lực: Chỉ tiêu
này được đo lường thông qua các chỉ tiêu như số lượng và tỷ lệ biết
chữ, số lượng và tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học, phổ
thông cơ sở, trung học phổ thông, cao đẳng, đại học, trên đại học…
Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân
lực và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.


18

Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách
nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
o Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực:
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết, khả năng thực
hành về một chuyên môn nghề nghiệp nào đó. Có thể phân làm hai
loại: lao động đã qua đào tạo và lao động chưa qua đào tạo. Về cơ
cấu lao động được đào tạo có: cấp đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao

cấp), công nhân kỹ thuật và cán bộ chuyên môn, trình độ đào tạo
(cơ cấu bậc thợ, cơ cấu ngành nghề…). Thông qua chỉ tiêu trình độ
chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực cho thấy năng lực sản
xuất của con người trong ngành, trong một quốc gia, khả năng sử
dụng khoa học hiện đại vào sản xuất.
• Số lượng lao động: nguồn nhân lực được đo thông qua chỉ tiêu quy mô
và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số càng lớn thì quy
mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Tuy nhiên tác
động của nó phải sau một khoảng thời gian nhất định mới có biểu hiện
rõ vì con người phải phát triển đến một mức độ nhất định mới trở thành
người có sức lao động, có khả năng lao động.
• Chất lượng việc làm: được đo lường thông qua chỉ tiêu thời hạn làm
việc và loại công việc người lao động đang làm. Thời hạn việc làm
phản ánh tình trạng công việc của người lao động, nếu thời hạn chỉ là
tạm thời thì người lao động có khả năng gặp khó khăn về công việc
trong tương lai, nghĩa là không đảm bảo về chất lượng việc làm. Loại
công việc phản ánh giá trị mà người lao động có thể nhận được sau
khoảng thời gian làm việc của mình. Các công việc đem lại thu nhập
cao như giám đốc, bác sĩ, luật sư,… thể hiện đó là việc làm có chất
lượng cao. Tỉ lệ việc làm có thu nhập cao tăng lên chứng tỏ chất lượng
công việc với người lao động được cải thiện.
Mô hình nghiên cứu cụ thể được thể hiện trong hình dưới đây:
Số lượng lao động:
-

Quy mô dân số
Tốc độ tăng dân số

Chất lượng lao động:
- Sức khỏe

- Trình độ văn hóa
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Chất lượng việc làm:
- Thời hạn làm việc
- Loại công việc


19

Quản lý lao động và việc làm
3.3.

Thiết kế thang đo

Thang đo hệ thống chỉ tiêu quản lý lao động và việc làm được thiết kế theo các
tiêu chí để đo lường chất lượng lao động, số lượng lao động và chất lượng việc làm.
Sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia về lĩnh vực quản lý lao động, các nhà quản lý
về lao động – việc làm, hệ thống tiêu chí quản lý lao động – việc làm được đề xuất
dưới đây:
Tiêu chí
Sức
Tỷ lệ sinh/tử
Theo quý
khỏe
Tỷ lệ trẻ em tử
Theo quý
vong
Tuổi thọ trung
bình (năm)
Cơ cấu giới tính

Nam
Cơ cấu tuổi
GDP/người
Trình độ Tỷ lệ biết chữ
văn hóa Tỷ lệ người qua Tiểu
THCS
các cấp
học

Phân loại
Theo năm
Theo năm

Nữ

THPT

Trình độ chuyên môn kỹ CN kỹ Chứng Sơ cấp
thuật
thuật
chỉ
từ 3 –
không nghề
12

ngắn
tháng
chứng hạn
chỉ
dưới 3

nghề
tháng
Quy mô dân số (người)
Theo quý
Tốc độ tăng dân số
Theo quý
Thời hạn làm việc (người)
Không xác Đủ
12
định
tháng đến
dưới
36
tháng

Cao
đẳng

Đại
học

Trung
cấp

Cao
đằng

Theo năm
Theo năm
Đủ

3 Dưới
tháng
tháng
đến dưới
12 tháng

Tiêu chí về loại công việc (tính theo người)
Nhà lãnh đạo cơ quan Đảng Cộng sản Việt nam cấp Trung ương
Nhà lãnh đạo cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam cấp tỉnh
Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cấp huyện

Sau
đại
học
ĐH
trở
lên

3


20

Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cấp xã
Nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tại doanh nghiệp và các tổ chức sự
nghiệp
Nhà lãnh đạo Quốc hội (chuyên trách)
Văn phòng Chủ tịch nước
Nhà lãnh đạo Chính phủ
Nhà lãnh đạo Bộ, ngành và tương đương thuộc Chính phủ

Nhà lãnh đạo Tổng cục thuộc Bộ
Nhà lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân ở địa phương
Tòa án khác (trừ Tòa án quân sự) do luật định
Nhà lãnh đạo Hội đồng nhân dân (chuyên trách)
Ủy ban nhân dân (kể cả các cơ quan chuyên môn)
Khối đoàn thể (trừ Liên đoàn Lao động) (chuyên trách)
Liên đoàn Lao động (chuyên trách)
Tổ chức nghiệp chủ (chuyên trách)
Tổ chức nhân đạo và vì quyền lợi đặc thù khác (chuyên trách)
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó tổng giám
đốc, Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng trường đại học lớn
Giám đốc, Phó Giám đốc của các đơn vị sản xuất và triển khai thuộc cơ quan
Tập đoàn, Tổng công ty, trường đại học lớn và tương đương
Giám đốc, Phó Giám đốc các đơn vị quản lý thuộc cơ quan Liên hiệp,
Tổng công ty, trường đại học lớn và tương đương
Giám đốc, Phó Giám đốc công ty, doanh nghiệp, xí nghiệp; Hiệu trưởng, Phó
Hiệu trưởng trường nhỏ
Nhà chuyên môn về khoa học trái đất và vật lý
Nhà toán học, nhà thống kê
Nhà chuyên môn về khoa học sự sống
Nhà chuyên môn về kỹ thuật (trừ kỹ thuật điện)
Kỹ sư kỹ thuật điện
Kiến trúc sư, nhà lập quy hoạch, kiểm soát viên và nhà thiết kế
Bác sỹ y khoa
Y tá và hộ sinh
Nhà chuyên môn về thuốc cổ truyền và thuốc bổ trợ
Bác sỹ phụ tá
Bác sỹ thú y
Nhà chuyên môn về sức khỏe khác



21

Giáo viên cao đẳng, đại học và cao học
Giáo viên dạy nghề
Giáo viên trung học
Giáo viên tiểu học và mầm non
Nhà chuyên môn giáo dục khác chưa được phân loại
Nhà chuyên môn về tài chính
Nhà chuyên môn về quản trị
Nhà chuyên môn về bán hàng, marketing và quan hệ công chúng
Nhà chuyên môn điều tiết của Chính phủ
Nhà chuyên môn về phân tích và phát triển phần mềm và các ứng dụng
Nhà chuyên môn về cơ sở dữ liệu và mạng
Nhà chuyên môn về luật
Thủ thư, chuyên viên lưu trữ văn thư và người quản lý
Nhà chuyên môn về xã hội và tôn giáo
Nhà văn, nhà báo và nhà ngôn ngữ học
Nghệ sỹ sáng tạo và trình diễn
Kỹ thuật viên khoa học vật lý và kỹ thuật
Giám sát viên khai thác mỏ, chế biến và xây dựng
Kỹ thuật viên kiểm soát, vận hành và điều khiển quy trình
Kỹ thuật viên khoa học đời sống và kỹ thuật viên hỗ trợ liên quan
Kỹ thuật viên và kiểm soát viên tàu thuỷ và phương tiện bay
Kỹ thuật viên y tế và dược
Y tá, kỹ thuật viên chăm sóc bệnh nhân và hộ sinh
Kỹ thuật viên y học cổ truyền và bổ trợ
Kỹ thuật viên thú y và phụ tá
Kỹ thuật viên sức khỏe khác

Nhà chuyên môn về toán ứng dụng và tài chính
Nhà đại lý và môi giới bán hàng và mua, bán
Nhân viên/đại lý dịch vụ kinh doanh
Thư ký hành chính và nhân viên chuyên môn khác
Nhà chuyên môn điều tiết của Chính phủ
Nhà chuyên môn về luật pháp, xã hội và tôn giáo
Người làm trong lĩnh vực thể thao và tập luyện
Nhà chuyên môn về mỹ thuật, văn hóa và nấu ăn
Kỹ thuật viên hỗ trợ người sử dụng và vận hành công nghệ thông tin và
truyền thông


22

Kỹ thuật viên viễn thông và truyền hình
Giáo viên tiểu học
Giáo viên mầm non
Giáo viên dạy các đối tượng bị khuyết tật
Giáo viên khác
Nhân viên tổng hợp
Thư ký (tổng hợp)
Nhân viên làm công việc bàn giấy
Nhân viên thu ngân, thu tiền và các nghề liên quan
Nhân viên thông tin khách hàng
Nhân viên làm công việc liên quan đến số liệu
Nhân viên ghi chép nguyên vật liệu và phương tiện
Nhân viên hỗ trợ văn phòng khác
Nhân viên hướng dẫn, tổ chức khách du lịch
Nhân viên đầu bếp
Người bồi bàn, người phục vụ ở các quầy rượu

Thợ làm đầu, nhân viên làm đẹp
Người giám sát tòa nhà, quản gia
Nhân viên dịch vụ cá nhân khác
Người bán hàng trên đường phố và tại chợ
Nhân viên bán hàng trong cửa hàng
Thủ quỹ và nhân viên thu tiền và bán vé
Nhân viên bán hàng khác
Nhân viên chăm sóc trẻ em và người phụ tá cho giáo viên
Hộ lý và nhân viên chăm sóc cá nhân trong các dịch vụ về sức khỏe
Nhân viên dịch vụ bảo vệ
Lao động trồng trọt và làm vườn thị trường
Lao động chăn nuôi động vật
Lao động trồng trọt và chăn nuôi hỗn hợp
Lao động trong lâm nghiệp và trong lĩnh vực có liên quan
Lao động thủy sản, săn bắn
Lao động trồng trọt tự cung tự cấp
Lao động chăn nuôi gia súc tự cung tự cấp
Nuôi trồng và chăn nuôi tự cung tự cấp hỗn hợp
Lao động đánh cá, săn bắn, đánh bẫy và thu hái tự cung tự cấp


23

Thợ xây dựng khung nhà và các lao động có liên quan
Thợ hoàn thiện và thợ có liên quan
Thợ sơn, người lau dọn tòa nhà và lao động có liên quan
Thợ dát kim loại, thợ đúc và thợ hàn và thợ có liên quan
Thợ rèn, thợ chế tạo các dụng cụ và thợ có liên quan
Thợ cơ khí và sửa chữa máy móc
Thợ thủ công

Thợ liên quan đến in
Thợ lắp đặt và sửa chữa thiết bị điện
Thợ lắp đặt và thợ sửa chữa điện tử viễn thông
Thợ chế biến thực phẩm và các thợ khác có liên quan
Thợ xử lý gỗ, thợ sản xuất đồ gỗ và các thợ có liên quan
Thợ may mặc và các thợ có liên quan
Thợ thủ công khác và các thợ có liên quan
Thợ vận hành thiết bị xử lý mỏ và khoáng
Thợ vận hành thiết bị xử lý và hoàn thiện kim loại
Thợ vận hành máy móc, thiết bị sản xuất hóa học và sản xuất sản phẩm phim
ảnh
Thợ vận hành máy sản xuất sản phẩm giấy, nhựa và cao su
Thợ vận hành máy sản xuất nguyên liệu dệt, da lông thú và da thuộc
Thợ vận hành máy sản xuất thực phẩm và các thợ có liên quan
Thợ vận hành thiết bị chế biến gỗ và chế tạo giấy
Thợ vận hành máy móc thiết bị khác
Thợ lắp ráp
Lái các phương tiện vận chuyển trên đường ray và các công nhân có liên
quan
Lái xe khách, xe tải và xe máy
Lái xe tải hạng vừa, hạng nặng và xe buýt
Thợ vận hành thiết bị chuyển động
Thủy thủ trên tàu và những thợ có liên quan
Người quét dọn và giúp việc gia đình, khách sạn và văn phòng
Thợ lau chùi xe cộ, cửa sổ, giặt là và những người làm công việc dọn dẹp
bằng tay khác
Lao động giản đơn trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Lao động trong khai thác mỏ và xây dựng
Lao động trong công nghiệp
Lao động giao thông vận tải và kho hàng



24

Người phụ giúp chuẩn bị thực phẩm
Lao động trên đường phố và lao động có liên quan
Người bán hàng vặt trên đường phố (trừ đồ ăn)
Người thu dọn vật thải
Lao động giản đơn khác
Sĩ quan
Người không phải là sĩ quan
Lực lượng quân đội khác

KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về lao động và việc làm, đề tài đã trình bày
khung lý thuyết về lao động – việc làm trong đó nêu ra các yếu tố ảnh hưởng đến
lao động – việc làm. Đề tài cũng trình bày thực trạng về tình hình lao động hiện nay
và thực trạng về vấn đề việc làm ở Việt Nam. Quá trình nghiên cứu đã chỉ ra vấn đề
quản lý lao động ở nước ta chưa chặt chẽ dẫn tới việc các chính sách về việc làm
chứ được đưa ra kịp thời. Tuy Nhà nước và các cơ quan quản lý đã thực hiện các
biện pháp nhằm hỗ trợ tình trạng thiếu việc làm của người lao động nhưng một bộ
phận không nhỏ vẫn đang trong tình trạng thất nghiệp. Và nổi bật hơn cả là tình
trạng làm trái ngành, trái nghề. Đây là một tổn thất lớn với nền kinh tế khi số lượng
lao động lại không tương xứng với chất lượng lao động và chất lượng việc làm.
Đề tài đã nghiên cứu dựa trên việc khảo sát ý kiến chuyên gia về những chỉ
tiêu quản lý lao động – việc làm và đã đưa ra được hệ thống chỉ tiêu quản lý gồm 3
biến lớn: số lượng lao động, chất lượng lao động và chất lượng việc làm. Với thời
gian và nguồn lực có hạn, việc đưa ra hệ thống mới chỉ dừng ở đề xuất, chưa có cơ



25

hội kiểm định lại các tiêu chí đo lường. Vì vậy, những người thực hiện đề tài mong
muốn các nghiên cứu sau sẽ tiến hành kiểm định lại các tiêu chí này nhằm đảm bảo
tính khoa học của mô hình nghiên cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />
2.
3.
4.
5.
6.

option=com_content&view=article&id=1251:thc-trng-va-gii-phap-v-phattrin-nhan-lc-vit-nam&catid=250:vit-nam&Itemid=532
/>David Begg, Giáo trình Kinh tế học vĩ mô(2012), NXB Thống kê
Damian Ward-David Begg, Giáo trình Kinh tế học vi mô(2012), NXB Thống

PGS.TS.Hoàng Văn Hải – ThS.Vũ Thùy Dương, Giáo trình Quản trị nhân
lực (2011), NXB Thống kê
Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13.


×