Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.32 KB, 28 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chỉ đạo xây dựng nền văn hoá mới văn hoá cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là di sản có giá
trị to lớn cả phương diện lý luận và thực tiễn. Hiện nay việc nghiên cứu, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá vào xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc ở nước ta là một nhiệm vụ to lớn và cấp thiết
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ.
1. Cơ sở lý luận.
a. Những giá trị truyền thống tốt đẹp trong tinh hoa văn hoá dân tộc.
Trước khi rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Hồ
Chí Minh đã hấp thụ một vốn văn hoá gia đình, quê hương, dân tộc. Từ vùng quê
làng Chùa, làng Sen, mở rộng ra là quê hương Xứ Nghệ, qua kinh đô Huế, đến
Phan Thiết, Sài Gòn... Mỗi vùng vốn có sắc thái văn hoá khác nhau, nhưng điểm
tương đồng là tất cả đều sáng ngời truyền thống yêu nước, đoàn kết; xu hướng cố
kết cộng đồng dân tộc; tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực,tự cường; lạc quan, yêu đời
và truyền thống nhân ái, nhân văn Việt Nam. Hồ Chí Minh có được những yếu tố
văn hoá có tính chất cội rễ đó cùng với quá trình tiếp nhận và nâng cao các giá trị
văn hoá phương Đông. Nói cách khác, trên nền tảng văn hoá dân tộc, Người đã dân
tộc hoá những tinh hoa văn hoá được tiếp nhận từ bên ngoài và không bị hoà tan
trong bất cứ một nền văn hoá nào khác.
b. Tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây.
Văn hoá ấn Độ tiêu biểu là Phật giáo, ngoài mặt tiêu cực còn mang nhưng nội
dung nhân đạo lớn như: Đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn... Khổng giáo, với những
tư tưởng coi trọng đạo đức, luân lý, người hiền tài và kẻ sĩ... tức là đề cao văn hoá.
Sống trong môi trường văn gia đình, quê hương, Hồ Chí Minh không những nắm
1


được những quan điểm cơ bản của Phật giáo, Nho giáo mà Người còn am hiểu Lão
giáo với những yếu tố văn hoá sống giản dị, thanh bạch, chan hoà với thiên nhiên.
Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc tới các danh ngôn của


Khổng Tử, của Đức phật Thích Ca. Và ở Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về
một cuộc sống thanh bạch, trong sáng, giản dị, khiêm tốn, luôn luôn chăm lo cho
lợi ích của nhân dân, của cả cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh sớm có điều kiện tiếp xúc với
nền văn hoá phương Tây khi người còn học ở Huế. Trên hành trình tìm đường cứu
nước, Hồ Chí Minh đã từng đến Pháp - Mỹ - Anh là trung tâm văn minh của nhân
loại lúc đó. Với nhận thức và tầm hiểu biết của mình, Người đã sớm ghi nhận
những gì mà cuộc cách mạng Pháp (1789) đã làm được như xoá bỏ chế độ phong
kiến, giải phóng nông nô, đấu tranh cho tự do của con người, lập hiến pháp... Đó là
"một sự nghiệp rất nhân đạo”, một trong những cội nguồn của “Tự do, Bình đẳng,
Bác ái”. Người cũng nhấn mạnh đến “quyền con người” “quyền tự do và bình đẳng
về quyền lợi” trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776). Tuy nhiên bằng sự
nhạy cảm về chính trị và nhãn quan văn hoá qua chứng kiến cuộc sống của nhân
loại đau khổ, Người đã thấy sự thật đằng sau khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác
ái” là sự áp bức, bóc lột, đàn áp nhân dân lao động, phản bội lại lý tưởng cách
mạng, tức là phản văn hoá. Đến với phương Tây, Người được tiếp xúc trực tiếp các
tác phẩm của những nhà tư tưởng khai sáng: Vonte, Rútxô, Môngtétxkiơ... tư tưởng
dân chủ của họ đã có ảnh hưởng đến tư tưởng của Người.
Dù là văn hoá phương Đông hay văn hoá phương Tây, Hồ Chí Minh đều dày
công chắt lọc một cách kỹ lưỡng với một thái độ khách quan, khoa học, trân trọng
với một tầm nhìn văn hoá rộng mở.
c. Lý luận Mác - Lênin về văn hoá.

2


Kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp trong văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá phương Đông và phương Tây là bước khởi đầu quan trọng và cần thiết để
Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đỉnh cao của nền văn hoá nhân loại.
Sự kiện Hồ Chí Minh gặp Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về những vấn đề

dân tộc và thuộc địa của Lênin và tìm ra con đường cứu nước là một tất yếu lịch sử
đã được Người chuẩn bị từ nhiều năm trước nhờ hoạt động văn hoá và biết phát
huy sức mạnh của văn hoá trong việc tìm chân lý và phương pháp cách mạng, việc
tổ chức đấu tranh với kẻ thù bằng các phương tiện văn hoá.
Hồ Chí Minh tiếp nhận ánh sáng văn hoá mới và ra sức phát huy sức mạnh
của ánh sáng văn hoá ấy cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước. Đặc biệt Người đã nghiên cứu kỹ tư tưởng của Lênin về văn hoá, cách
mạng văn hoá trong nhiều tác phẩm quan trọng và cả qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo xây dựng nền văn hoá mới ở nước Nga của Lênin. Trong tác phẩm “ Bàn về
chế độ hợp tác”, Lênin đã viết: "Sau khi người ta đã hoàn thành cuộc cách mạng
chính trị lớn nhất chưa từng thấy trên thế giới, thì những nhiệm vụ khác lại đặt ra
cho chúng ta, những nhiệm vụ về văn hoá” [1] và “nâng cao trình độ văn hoá là một
trong những nhiệm vụ bức thiết nhất”[2]. Đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa thay
thế nền văn hoá tư bản chủ nghĩa. Cách mạng văn hoá theo Lênin, bao gồm: Việc
xây dựng và pháp triển nền giáo dục phổ thông; hình thành đội ngũ tri thức mới xã
hội chủ nghĩa, những chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, phát triển văn
hoá nghệ thuật; hình thành con người mới , đạo đức mới và hệ tư tưởng mới.
2. Cơ sở thực tiễn.
a. Thực tiễn thế giới.
Quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt chân lên hầu khắp các
châu lục, hoà mình vào phong trào công nhân các nước tư bản phát triển nhất thế
giới, sống, sinh hoạt với những người da đen ở châu Phi và ở cả Mỹ, Hồ Chí Minh
3


mới hiểu ra nhiều điều về bản chất của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đề quốc cũng
như bản chất giai cấp công nhân, những người cùng khổ trên thế giới và nhất là
hiểu rõ sự thật ẩn dấu đằng sau cái gọi là "Khai hoá văn minh" mà giai cấp tư sản
phương Tây đã rêu rao để khai hoá các dân tộc mà chúng cho là dã man. Trong các
hoạt động đấu tranh của mình, Hồ Chí Minh không quên tố cáo chủ nghĩa thực dân

tìm mọi cách đầu độc văn hoá, đàn áp nền văn hoá các dân tộc thuộc địa.
Không chỉ hoà mình vào thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân và các
dân tộc bị áp bức mà Hồ Chí Minh còn hoà mình vào thế giới văn hoá vô cùng
phong phú và đa dạng của các dân tộc, nhờ đó Người hiểu biết nhiều sự kiện văn
hoá và các phương pháp đấu tranh bằng văn hoá. Người viết sách, ra báo, tham gia
nhiều hoạt động văn hoá, tổ chức nhiều hội liện hiệp đều nhằm giác ngộ cách mạng
cho nhân dân các dân tộc trong đó có đồng bào của mình. Người muốn đem ánh
sáng văn hoá đến cho mọi người cùng khổ để soi đường cho họ tự giải phóng, tự
đứng lên đấu tranh với các thế lực áp bức, bóc lột.
Hồ Chí Minh cũng tập trung nghiên cứu thực tiễn xây dựng phát triển văn hoá
của các nước xã hội chủ nghĩa như cách mạng văn hoá ở Liên Xô, Trung Quốc...
b. Thực tiễn Việt Nam.
Đây là cơ sở quan trọng dẫn tới sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hoá. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam vốn là một quốc gia phong kiến
độc lập, kinh tế chậm phát triển, văn hoá lạc hậu. Khi thực dân pháp xâm lược với
thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc nhân danh "khai hoá văn minh” chúng đã
thực hiện những chính sách cực kỳ phi văn hoá như: Chính sách ngu dân, chia để
trị, đầu độc nhân dân ta, nhất là thanh niên bằng rượu và thuốc phiện... làm cho đời
sống vật chất của nhân dân ta vốn đã đói nghèo càng đói nghèo, đời sống tinh thần
vốn lạc hậu ngày càng tăm tối, dốt nát. Năm 1920 tại Đại hội XVIII Đảng xã hội
Pháp, Người đã nói: "Chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã,
4


mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... Nhà tù nhiều hơn trường học...
Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt và tăm tối, và chúng tôi không có quyền tự do
học tập”[3]. Như vậy, khi đất nước bị nô lệ thì văn hoá cũng cùng chung số phận nô lệ.
Thực tiễn đó là cơ sở để Hồ Chí Minh vạch ra một đường lối mới: ở Việt Nam
phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền, để giải phóng
chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng cho văn hoá mở đường cho văn hoá

phát triển.
Nhờ nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phát triển văn hoá,
Hồ Chí Minh đã có được cách xem xét đúng đắn và kế thừa những giá trị truyền
thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, tinh hoá văn hoá nhân loại và từ thực tiễn để
hình thành nên tư tưởng văn hoá của mình.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VĂN HÓA
1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hoá
a. Khái niệm "văn hoá".
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943) lần đầu
tiên Hồ Chí Minh có nêu một định nghĩa về văn hoá: "Vì lẽ sinh tồn cũng như vì
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn"[4].
Người còn ghi thêm: "Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc
Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
5


Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội
Xây dựng chính trị: dân quyền
Xây dựng kinh tế"[5]
Như vậy văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá
trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng lẽ
sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Và muốn xây dựng

nền văn hoá dân tộc, thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo
đức, tâm lý con người.
b. Quan điểm về vị trí vai trò của văn hoá
Trước hết Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá là động lực, là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng. Theo Người, văn hoá nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói
riêng đóng vai trò quan trọng tạo bước nhảy vọt trong tư duy, hành động của con
người và của các dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của con người phát
triển tự do, toàn diện. Ngay từ năm 1921, Người đã nói đến "luồng gió mới từ nước
Nga thợ thuyền... đang thổi đến giải độc cho người Đông Dương"; rằng "Nếu
những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và
bản xứ... cứ phụ trách việc giáo dục bằng phương pháp của chúng... Sự tàn bạo của
chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" [6]. Hồ Chí Minh từng nói đến
"văn hoá soi đường cho quốc dân đi"; "Phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để
thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ". Phải "Xúc tiến văn hoá để tạo con người mới
và cán bộ mới cho cuộc kháng chiến kiến quốc"[7].

6


Văn hoá có tác dụng sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa
xã hội cũ xây xã hội mới. Văn hoá tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại
xâm theo tinh thần "Văn minh thắng tàn bạo". Kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, văn hoá có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Văn hoá
như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau.
Văn hoá còn được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là
thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hoá được đặt ngang hàng với chính
trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội. Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là một bộ phận kiến trúc

thượng tầng.
Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động
lẫn nhau.
- Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính
trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển.
Khi đất nước còn bị nô lệ thì văn hoá cũng chung số phận nô lệ, tuyệt đại bộ
phận nhân dân bị đoạ đầy trong cảnh tối tăm, dốt nát. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã vạch
ra một đường lối mới: phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị trước mà cụ thể là
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành lấy chính quyền, nhân dân làm chủ
đất nước, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở
đường cho văn hoá phát triển. Người chỉ ra rằng, "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền
văn hoá của ta vì thế không thể nảy sinh được","dân tộc bị nô lệ thì văn nghệ cũng
mất tự do".
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá.
Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá, xây
dựng kiến trúc thượng tầng. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây dựng kinh tế, xây
7


dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá là một bộ
phận kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá
mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh
tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước"[8].
- Văn hoá không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phục vụ
cho nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không
thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"[9]. Điều này cũng có nghĩa là văn
hoá có quan hệ chặt chẽ với kinh tế và chính trị, văn hoá phải phục vụ cho nhiệm vụ
chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, tác động trở lại với kinh tế và chính

trị như một động lực hết sức quan trọng, Người nói: "Trình độ văn hoá của nhân dân
nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ...
cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh"[10]. Như vậy, cũng phải thấy rằng văn hoá đứng ở trong kinh tế và chính
trị cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị phải có tính văn hoá.
c. Quan điểm về chức năng của văn hoá
Văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể quy tụ ở ba chức năng chủ yếu sau:
Chức năng thứ nhất là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho
nhân dân. Tư tưởng và tình cảm là những vấn đề chủ yếu của đời sống tinh thần
con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm cũng có thể cao đẹp
hoặc thấp hèn. Theo Hồ Chí Minh, văn hoá có chức năng là bồi dưỡng tư tưởng
đúng đắn và những tình cảm cao đẹp cho nhân dân. Chức năng này phải được tiến
hành thường xuyên, liên tục, vì tư tưởng và tình cảm con người luôn luôn biến đổi
theo hoạt động thực tiễn của xã hội. Việc bồi dưỡng ấy phải đặc biệt quan tâm đến

8


những tư tưởng và tình cảm có ý nghĩa chi phối đến đời sống tinh thần của mỗi con
người và của cả dân tộc.
Tư tưởng đúng theo Hồ Chí Minh, đó là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người chỉ ra rằng:
"Nước độc lập, dân phải được tự do, hạnh phúc", để nền độc lập đó là nền độc lập
thực sự, độc lập bền vững để sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người được thực hiện một cách trọn vẹn. Lý tưởng đó là điểm hội tụ
những tư tưởng lớn của cả một dân tộc. Nếu ai xa rời lý tưởng đó đều có thể dẫn
tới sai lầm.
Hồ Chí Minh còn chỉ ra, phải làm thế nào để cho "văn hoá đi sâu vào tâm lý
quốc dân" để xây dựng những tình cảm cao đẹp cho nhân dân như lòng yêu nước,
tình thương yêu con người, yêu sự chân thành, thuỷ chung; căm ghét, lên án, phê

phán những cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, những xa đoạ biến chất trong đời sống tinh
thần của xã hội.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng nền văn hoá cách mạng ở nước ta, Hồ Chí
Minh và Đảng thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng và tình cảm cho các
tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và đặt chức năng cao quý đó
cho văn hoá.
Chức năng thứ hai là, nâng cao trình độ dân trí. Lênin đã từng chỉ ra rằng:
"Người mù chữ là người đứng ngoài chính trị". Thấm nhuần tư tưởng của Lênin và
từ thực tiễn nước ta, Hồ Chí Minh nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", "Dốt
thì dại, dại thì hèn"[11] và trong bài "Chống nạn thất học" (4.10.1945), Người viết:
"Số người Việt Nam thất học so với số người trong nước là 95%, nghĩa là hầu hết
người Việt Nam mù chữ". Như thế thì làm sao tiến bộ được.
Nay chúng ta đã giành được độc lập. Một trong những công việc phải thực
hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí.
9


"Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ"[12]. Do đó, theo Hồ Chí Minh nói tới văn hoá là nói
đến vấn đề dân trí. Dân trí ở đây không chỉ hạn hẹp ở biết đọc, biết chữ, mà Người
còn chỉ ra rằng, đó là trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của người dân, của mỗi
công dân. Từ trình độ biết chữ đến chỗ hiểu biết và tiếp thu kiến thức trên các lĩnh
vực cần thiết cho hoạt động của mỗi người nhằm thực hiện được nhiệm vụ của
mình, của cách mạng. Những hiểu biết đó bao gồm lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, chuyên môn kỹ thuật, khoa học kỹ thuật - công nghệ, lịch sử, tình hình
trong nước, quốc tế... Theo Hồ Chí Minh, việc nâng cao trình độ dân trí chỉ có thể
thực hiện được khi chúng ta hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành

được chính quyền về tay nhân dân.
Chức năng thứ ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách
lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không
ngừng hoàn thiện bản thân mình.
Con người không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi
trường xã hội, môi trường văn hoá. Con người phải tiếp nhận môi trường đó mới
tồn tại và phát triển được. Mặt khác các giá trị văn hoá tác động đến con người
những định hướng giá trị và xác định những chuẩn mực trong đời sống xã hội. Với
cá nhân giá trị văn hoá là thành tố cốt lõi để hình thành nên nhân cách con người.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm
chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện, trước hết là đối với
cán bộ, đảng viên. Đó là những phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị, những phong
cách trong lao động, sinh hoạt và trong mọi quan hệ xã hội.
10


Phẩm chất và phong cách được hình thành trong đạo đức, nếp sống, lối sống
của con người và xã hội, trong thói quen của cá nhân và trong phong tục, tập quán
của cả cộng đồng dân tộc. Văn hoá giúp con người phân biệt được cái tốt đẹp lành
mạnh với cái xấu xa, hư hỏng; cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển xã hội, cái lạc hậu
cản trở con người, cản trở dân tộc tiến lên phía trước. Từ đó con người phấn đấu
làm cho cái đẹp, cái lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ, cái mới ngày càng phát
triển, làm cho cái lạc hậu ngày càng bớt đi, cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại
khỏi đời sống con người và xã hội.
Với đặc trưng không giống với kinh tế và chính trị, văn hoá hướng con người
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý tưởng, từ cái
chưa hoàn thiện vươn tới cái hoàn thiện luôn luôn ở phía trước, đặc biệt là việc
hoàn thiện bản thân mỗi người.
d. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá mới
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, việc xây dựng một nền

văn hoá mới được Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của cách mạng. Ngay sáng 3.9.1945, Người đã đặt ra hàng loạt các
vấn đề về văn hoá cần giải quyết, như diệt "giặc dốt", giáo dục nhân dân tinh
thần cần, kiệm, liêm, chính, cấm hút thuốc phiện... Cũng trong những ngày đầu
tháng 9.1945, Người đã cho thành lập Uỷ ban văn hoá lâm thời Bắc Bộ và chỉ rõ
nhiệm vụ cho Uỷ ban là: gây dựng cho đất nước một nền văn hoá mới.
Nền văn hoá trong thời kỳ đó là nền văn hoá dân chủ mới, đồng thời là một nền
văn hoá kháng chiến. Khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hoá được xây dựng là nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, tính chất của nền văn hoá cũng được điều chỉnh cho phù hợp.
Nền văn hoá trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định có ba tính chất: dân tộc, khoa học và
11


đại chúng. Điều này thể hiện khá sớm trong Đề cương văn hoá Việt Nam của Đảng
năm 1943, đó là: Để tiến tới một nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, cuộc giải phóng
dân tộc sẽ cơ cấu lại nền văn hoá truyền thống theo ba nguyên tắc lớn "dân tộc hoá,
đại chúng hoá, khoa học hoá".
Khi đặt vấn đề xây dựng nền văn hoá mới của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí
Minh nói: "Cái nền văn hoá mới này cần phải có tính khoa học, tính đại chúng, thì
mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại. Nay nước ta có được độc
lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá hợp với khoa học và
hợp với cả nguyện vọng của nhân dân"[13]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính dân
tộc, khoa học và đại chúng"[14].
Theo Hồ Chí Minh, ba tính chất đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là một
nền văn hoá phải làm cho mỗi người dân Việt Nam hiểu biết được cội nguồn lịch
sử hình thành phát triển dân tộc; biết giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống
tốt đẹp của văn hoá dân tộc trong dựng nước và giữ nước. Nền văn hoá mới phải

phản ánh được đời sống hiện thực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo đúng
quy luật khách quan, đảm bảo tính chân thực; tiếp thu văn hoá nhân loại để làm
phong phú thêm văn hoá dân tộc, đưa văn hoá Việt Nam, ngày càng vươn tới đỉnh
cao văn hoá nhân loại. Nền văn hoá mới phải lấy việc phục vụ đông đảo quần
chúng nhân dân lao động làm mục đích hoạt động nhằm góp phần nâng cao đời
sống tinh thần vui tươi lành mạnh cho nhân dân.
Tính chất của nền văn hoá mới trong giai đoạn miền Bắc bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội đã được Hồ Chí Minh đề cập ở nhiều bài viết, bài nói và ở nhiều
hội nghị quan trọng, Hồ Chí Minh xác định "... để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì văn hoá phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức"[15]. Như vậy, Người chỉ ra tính chất của nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
12


Nội dung xã hội chủ nghĩa có nghĩa là tiên tiến, khoa học, hiện đại. Tính dân
tộc không chỉ là ở hình thức thể hiện mà còn biết kế thừa, phát huy những giá trị
tốt đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc cho phù hợp với những điều kiện
lịch sử của đất nước. Hơn thế nữa theo Hồ Chí Minh, chúng ta còn phải biết giới
thiệu những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc ra thế giới để thế giới hiểu biết
thêm về đất nước, con người Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hai tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa.
Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy, phát triển những giá trị tốt đẹp của
văn hoá dân tộc trong điều kiện mới. Đây chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí
Minh về sự phát triển biện chứng của văn hoá.
e. Quan điểm về thái độ với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển văn hoá
truyền thống của dân tộc.
Đối với Hồ Chí Minh, dân tộc là cái trường tồn trong phát triển và văn hoá là

tinh hoa của dân tộc. Người ý thức rõ giá trị văn hoá dân tộc - văn hoá tinh thần và
văn hoá vật chất. Bắt đầu vào con đường hoạt động cách mạng, Người đã rất chú ý
tới vấn đề "càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin càng phải coi trọng các giá trị
truyền thống tốt đẹp của cha ông". Hồ Chí Minh ca ngợi truyền thống yêu nước,
thương người, tinh thần độc lập, tự chủ, đoàn kết, yêu đời, lạc quan đến việc ngợi
ca các anh hùng và danh nhân Việt Nam. Người giáo dục nhân dân ta rằng: "Dân ta
phải biến sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam", văn hoá là vốn quý của
dân tộc, là niềm tự hào dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển những
giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã được xây dựng từ ngàn đời bằng mồ hôi
và xương máu của nhân dân, của cả dân tộc. Vì thế, ngay từ ngày đầu trên cương vị
13


Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người đã ký sắc lệnh về bảo tồn tất cả
các di sản văn hoá như đình chùa, đền miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ, bia
ký, chiếu sắc, văn bằng... kể cả những cái có tính cách tôn giáo nhưng có ích cho
lịch sử. Hồ Chí Minh đánh giá cao và tự hào về truyền thống văn hoá dân tộc,
Người nói rằng "nghệ thuật của ông cha ta hay lắm, tốt lắm", "tiếng nói là thứ của
cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý
trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp" [16]. Người chú ý đến bản sắc
dân tộc của văn hoá, nói chuyện với hoạ sĩ người Thuỵ Điển Êrích Giôhanxơn,
Người nhấn mạnh: mỗi dân tộc cần chăm lo đến đặc tính dân tộc mình trong nghệ
thuật. Người cũng căn dặn "chú ý phát huy cốt cách dân tộc","lột tả cho hết cái tinh
thần dân tộc".
Hồ Chí Minh rất chú ý đến "việc phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc (nhưng
tránh phục cổ một cách máy móc) và học tập văn hoá tiên tiến của các nước". Học
tập vốn cũ của dân tộc với tinh thần cách mạng chân chính để thâu thái những cái
hay của các đời trước. Học tập văn hoá tiên tiến của các nước thì phải tránh nguy cơ
trở thành kẻ bắt trước không còn bản sắc, theo Người mình có thể bắt trước cái hay

của bất kỳ nước nào, nhưng điều cốt yếu là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của
người thì cũng phải có cái hay để cho người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà
không trả "phát triển cái hay cái đẹp của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại".
Giữ gìn, bảo vệ và phát triển văn hoá dân tộc không phải là đóng cửa, khép
kín mà phải mở rộng giao lưu văn hoá với thế giới để văn hoá dân tộc ngày càng
phát triển. Vì vậy, dân tộc và quốc tế theo Hồ Chí Minh là thống nhất và làm phong
phú lẫn nhau. Sự tác động qua lại giữa các nền văn hoá của các dân tộc là sự tác
động tích cực trên cơ sở bình đẳng, tự chủ, giữ gìn và phát huy được bản sắc dân
tộc của mình.
Hồ Chí Minh - Người là hình ảnh của dân tộc Việt Nam trong tính cách,
tâm hồn, phong độ, lời ăn tiếng nói, Người tiêu biểu cho đạo lý làm người Việt
14


Nam, trí tuệ Việt Nam, tinh thần và sức mạnh Việt Nam, Người hết sức nhạy
cảm với tất cả những gì liên quan đến truyền thống, đến vận mệnh của dân tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hoá.
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú, nên ở đâu có con người, có hoạt
động của con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực của
đời sống con người, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần. Từ sự am hiểu sâu
sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hoá, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rõ
ràng, sinh động đặc thù và sức mạnh của từng lĩnh vực của văn hoá. ở đây tập
trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về ba lĩnh vực chính như sau:
a. Văn hoá giáo dục.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều công sức phân
tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và nhất là nền giáo dục thực dân, đó là một
nền giáo dục "ngu dân", "nhồi sọ". Mục đích của nền giáo dục thực dân là đào tạo
ra những người phục vụ cho chính quyền thực dân, thông ngôn, viên chức... Người
đặt vấn đề: "Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư
sản thực dân và bản xứ - bọn quan lại - cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp

của chúng"[17], từ đó Người đã suy nghĩ về việc xây dựng một nền giáo dục mới
của nước Việt Nam độc lập sau này.
Do vậy, sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng một nền giáo dục mới
được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài, đồng thời
là một nhiệm vụ cấp bách phải làm ngay, không thể để chậm trễ, Người chỉ rõ:
"Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta
phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"[18].
Để xây dựng nền văn hoá giáo dục của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh
nêu ra nhiều quan điểm rất quan trọng, được tập trung ở những quan điểm cơ bản sau:
15


Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hoá, có
nghĩa là bằng dạy và học.
Dạy và học là để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành
mạnh cho nhân dân.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "trường học của chúng ta là trường học của chế
độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo ra những công dân và cán bộ tốt,
những người chủ trương lai tốt của nước nhà" [19]. Như vậy, việc học không phải để
chạy theo bằng cấp, không phải học để làm quan của xã hội cũ, mà theo Người:
"học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân". Người đặt việc học để làm cán bộ sau học để làm việc, làm người hàm chứa
một ý nghĩa hết sức sâu sắc, bởi "chính khách có thể ra đi, công việc vẫn còn đó".
Mục tiêu giáo dục còn được thể hiện trong quan điểm "trồng người" của Hồ
Chí Minh. Năm 1958 nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III
toàn miền Bắc, Người đã nhắc lại câu nói nổi tiếng của Quản Trọng, như một
cương lĩnh hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta: "Vì lợi ích mười năm thì phải
trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" [20]. Như vậy, Người đã đặt vấn

đề "trồng người" cho chúng ta như một chân lý tất yếu của cách mạng, khái niệm
"trồng người" của Hồ Chí Minh với ý nghĩa như khái niệm văn hoá là "trồng trọt"
"vun trồng" cây cối.
Chương trình, nội dung giáo dục phải khoa học, hợp lý phù hợp với những
bước phát triển của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh nội dung giáo dục phải toàn diện, bao gồm cả văn hoá,
chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ. Nói chuyện với thanh niên,
Người nhắc nhở: Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị... Nếu
không học văn hóa, không có trình độ văn hoá thì không học tập được kỹ thuật,
16


không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được yêu cầu phát triển của cách
mạng; nhưng phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật mà không
có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. Kiến thức toàn diện đó là điều kiện để
phát huy và nâng cao năng lực làm chủ cho nhân dân.
Về xây dựng chương trình giáo dục, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, nhà trường
không phải là nơi nhồi nhét quá thừa kiến thức vô bổ, nhưng lại không quá thiếu
những kiến thức cần thiết cho xây dựng kinh tế, quản lý xã hội và hình thành con
người mới xã hội chủ nghĩa.
Phải luôn gắn chương trình, nội dung giáo dục với thực tiễn. Phải từ yêu cầu, đòi
hỏi của thực tiễn mà bổ sung, phát triển, hoàn thiện nội dung, chương trình giáo dục.
Học đi đôi với hành; giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, với cuộc đấu
tranh xã hội; nhà trường gắn liền với xã hội; coi trọng tự học, tự đào tạo.
Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ " trồng người" của Hồ
Chí Minh, một đặc trưng rất cơ bản để phân biệt nền giáo dục mới với nền giáo
phong kiến, thực dân.
Việc giáo dục theo Hồ Chí Minh phải đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa học
và hành, nói rộng ra là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Không chỉ gắn học với hành, lý luận với thực tiễn mà còn phải kết hợp giáo

dục với lao động sản xuất, với cuộc đấu tranh xã hội. Hồ Chí Minh đã có những
chỉ dẫn hết sức sâu sắc về vấn đề này, Người viết: "Một người học xong đại học, có
thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không
biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y
không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức sách
vở, chưa phải trí thức hoàn toàn"[21].

17


Nhà trường gắn với xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục còn là sự
phối hợp thống nhất ở cả ba khâu gia đình, nhà trường và xã hội, Người chỉ rõ: "
Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài
xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn"[22].
Học tập là quá trình hoạt động tiếp thu tri thức của mỗi cá nhân, là tiền đề
quan trọng để dẫn tới sự phát triển ở mỗi người. Quá trình học tập đó bao gồm: học
tập ở trường lớp trong những giai đoạn nhất định và tự học trong cả cuộc đời của
mỗi người. Hồ Chí Minh cho rằng còn sống thì còn phải học tập. Đây là biện pháp
tốt nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng: "Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ.
Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không
chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình" [23]. Để tự học
đạt kết quả, Người cho rằng mỗi người phải xác định được mục đích, động cơ học
tập đúng đắn. Phải học với thái độ nghiêm túc, khiêm tốn, thật thà, không dấu dốt,
không được tự cho mình là đủ rồi, biết hết rồi. Người nhắc nhở: Kiêu ngạo, tự phụ,
tự mãn là kẻ thù số một của học tập. Người còn cho rằng mỗi người trong tự học là
phải biết cách học: học ở thư viện, ở sách báo, học bạn bè, đồng nghiệp. Đồng thời
thực hiện phương châm: Học ở mọi lúc, mọi nơi... Người chỉ rõ: "Học ở đâu? Học
ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một
thiếu sót rất lớn"[24].

Những quan đểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục là một hệ thống quan
điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Những quan điểm ấy của Người đã được thực hiện
và đem lại những thành tựu và niềm tự hào cho nền giáo dục mới Việt Nam trong
những thập niên cách mạng và kháng chiến, thì những thiếu sót, khuyết điểm của nền
giáo dục nước ta hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, quán triệt hơn nữa những
quan điểm ấy, nhằm đưa cuộc cải cách giáo dục tiếp tục tiến lên phía trước.
b. Văn hoá văn nghệ.
18


Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống
tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Văn nghệ trở thành một
nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn nghệ là cả một kho tàng, ở tầm chiến lược và
ngày càng ngời sáng qua thực tiễn. Có thể tìm thấy ở đây những vấn đề lý luận văn
nghệ rất cơ bản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin được diễn đạt rất dung dị
và thiết thực. Dưới đây sẽ trình bày những quan điểm chủ yếu nhất:
Trước hết, "Văn hoá văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ".
Tư tưởng này trước khi phát biểu thành lời đã thể hiện trong truyện và ký của
Người từ những năm 20 của thế kỷ XX như: Con Rồng tre; Bản án chế độ thực dân
Pháp... Những tác phẩm ấy đã thể hiện tinh thần chiến đấu không thoả hiệp, chống
chủ nghĩa thực dân và phong kiến, thức tỉnh nhân dân Việt Nam và các dân tộc
thuộc địa đứng lên tự giải phóng, đồng thời xây dựng niềm tin sắt đá vào lý tưởng
và thắng lợi của cách mạng . Trong dòng tư tưởng ấy, Đề cương văn hoá Việt Nam
1943 xác định: Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn
hoá). Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh coi văn hoá cũng như mặt trận
chính trị, quân sự, Người viết: " Như thế thì về mặt trận văn hoá, chúng ta cũng sẽ
thắng lợi như các mặt trận khác trong cuộc trường kỳ kháng chiến "[25].
Theo Người, mặt trận văn nghệ không gươm súng nhưng thường là mặt trận
tiền tiêu, tác động to lớn, lâu dài "Văn chương có sức mạnh của nghìn quân", " Văn

chương làm đẹp cho nước", "Văn chương có đủ sức để sửa sang việc đời". Văn
nghệ cổ vũ tinh thần và lực lượng trong kháng chiến kiến quốc. Văn nghệ không
thể không vì một mục tiêu chính trị-xã hội nhất định. Nó không thể đứng ở trên, ở
ngoài mà" phải ở trong kinh tế và chính trị". Nó phải đấu tranh cho cái Chân, cái
Thiện, cái Mỹ thì nó cũng phải chống lại cái Giả, các ác, cái Xấu, ngòi bút trở
thành " vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà"[26].
19


"Nhà văn - chiến sỹ", " Nghệ sĩ - chiến sĩ" là danh hiệu cao quý mà Hồ Chí
Minh tặng cho những người làm văn nghệ. Chiến sĩ nghệ thuật có kiểu"xung
phong" riêng của mình, nhưng theo Người, đã là chiến sĩ thì phải biết "xung
phong", dám "xung phong", đó là sứ mạng, là trách nhiệm không thể thoái thác của
những người làm văn nghệ. Đại diện cho đời sống tinh thần, lý tưởng của xã hội,
chiến sĩ nghệ thuật phải biết trả lời những câu hỏi bức bách, khó khăn nhất của đời
sống xã hội bằng nghệ thuật một cách hấp dẫn, say mê, thắp sáng những khát vọng
cao đẹp của quần chúng nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, để biết "xung phong", làm tròn trách nhiệm văn nghệ sĩ chiến sĩ, thì văn nghệ sĩ phải học tập chính trị, trau dồi đạo đức, nghệ thuật, nghiệp
vụ, đi sâu vào quần chúng, đi sát sự thật, nhưng trước hết cần phải có "lập trường
vững , tư tưởng đúng"[27].
Hai là, văn nghệ phải gắn với đời sống thực tiễn của nhân dân, phục vụ nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động.
Với Hồ Chí Minh, văn nghệ phải luôn luôn gắn với thực tiễn, phục vụ nhân
dân, vì nhân dân " là gốc của nước nhà", "công nông là người chủ của cách mạng".
Quần chúng là những người sáng tạo, văn nghệ "lấy hạnh phúc của đồng bào, của
dân tộc làm cơ sở" thì nó phải phản ánh đời sống thực tiễn của nhân dân, vì nhân
dân, "không thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật, mà cần phải nói rõ văn nghệ phục vụ
công nông binh", tức là phục vụ đa số nhân dân, Người nói: "Về sáng tác, thì cần
hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. Như thế mới bày tỏ được
tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển

và nâng cao tinh thần ấy"[28]. Người cũng không quên căn dặn, nhắc nhở các nhà
văn, các nhà làm công tác nghệ thuật rằng: "...chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng
sáng tác của các nhà văn bằng những nguồn nhựa sống, còn nếu nhà văn quên điều
đó - nhân dân cũng sẽ quên anh ta" [29]. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: "Chúng ta phải ghi
tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt... bất kỳ việc gì cũng từ lợi ích của nhân dân
20


mà làm... Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo. v.v. của chúng ta đều phải
lấy câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần
chúng"[30].
Ba là, văn nghệ phải phản ánh cho hay, cho chân thật và hùng hồn, phải hấp
dẫn và bổ ích.
Hồ Chí Minh đã nói với văn nghệ sĩ: "Quần chúng mong muốn những tác phẩm
có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa
xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích" [31] và "Miêu tả cho hay, cho chân thật và
cho hùng hồn những người, những việc ấy, bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng các
nghệ thuật khác.v.v.". "Để cổ vũ đồng bào ta và để giáo dục con cháu ta"[32]. Theo
Người, những tác phẩm đó phải phục vụ quần chúng nhân dân đông đảo, được họ yêu
thích, đem lại chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của họ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh văn nghệ phải có ý nghĩa giáo dục, đồng thời cũng
nhấn mạnh phải hay, thật hay, nghĩa là văn nghệ phải có tính nghệ thuật cao. Người
nói: "...một tác phẩm văn chương không phải cứ dài mới hay. Khi nào tác phẩm ấy
chỉ diễn đạt vừa phải những điều đáng nói, khi nó được trình bày sao cho mọi
người ai cũng hiểu được, và khi đọc xong độc giả phải suy ngẫm, thì tác phẩm ấy
mới xem như là một tác phẩm hay và biên soạn tốt" [33]. Tính nghệ thuật cao còn
phụ thuộc vào nội dung, tính chân thật, tính phong phú và hình thức của tác phẩm.
Theo Người, nội dung của mỗi tác phẩm nghệ thuật cụ thể là sự thống nhất giữa
thế giới hiện thực và thái độ của chủ thể sáng tạo đối với nó. Chẳng hạn cùng viết
về cái ác nhưng có tác phẩm đọc "chỉ thấy tối sầm lại", có tác phẩm cho thấy được

ánh sáng để nhảy qua bóng tối. Nhấn mạnh sự phong phú của thực tế khách quan,
coi đó là "kho tài nguyên vô tận" cho những tác phẩm mà nhân dân đang mong
đợi, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu nghệ thuật không phải là sao chép hiện thực mà
phải phản ánh được bản chất, xu thế phát triển tất yếu của cuộc sống trong tất cả
tính phong phú, phức tạp của nó; viết về mọi cái "đừng bỏ qua ngóc ngách gay cấn
21


nào hết, đừng làm ngơ im lặng chuyện gì hết", "có khen, cũng phải có chê". Mặt
khác, theo Hồ Chí Minh các tác phẩm nghệ thuật phải phong phú, đa dạng,
không thể đơn điệu, nghèo nàn. Có như vậy văn nghệ mới đáp ứng được nhu
cầu rất đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Người nhắc nhở: "Cần làm cho món
ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món
thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại
hoa đẹp"[34].
Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là một nhà văn nghệ, nhưng thực
tế Người là một cây bút bậc thầy. Những tư tưởng, chỉ dẫn của Người về văn nghệ
không chỉ có tầm chiến lược của một lãnh tụ chính trị vĩ đại mà còn có cả uy tín bề
dày kinh nghiệm sáng tác phong phú, đa dạng của một nhà văn, nhà thơ, nhà báo
lớn. Những chỉ dẫn ấy của Người luôn nhắc nhở trách nhiệm của chúng ta rằng:
"Nhân dân ta rất anh hùng", "Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ
xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta"[35].
c. Văn hoá đời sống
Việc xây dựng đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra từ rất sớm: Tháng
1.1946, Người phát động phong trào xây dựng đời sống mới; tháng 4.946, Người
ký sắc lệnh thành lập Uỷ ban Trung ương vận động đời sống mới; tháng 3.1947
Người viết tác phẩm "Đời sống mới" để hướng dẫn việc xây dựng đời sống mới
trong các tầng lớp nhân dân và trong toàn xã hội.
Xây dựng đời sống mới là một quan điểm, tư tưởng rất độc đáo của Hồ Chí Minh
về văn hoá. Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt ấy không phải là

những gì cao xa, trìu trượng mà được biểu hiện rất cụ thể trong cuộc sống thường
ngày của mỗi con người, của mỗi tập thể, của xã hội, rất dễ hiểu, rất dễ thấy.
Đời sống mới theo Hồ Chí Minh bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và
nếp sống mới. Ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức
22


đóng vai trò chủ yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và nếp sống và nói chung nó
lại được thể hiện, biểu hiện cụ thể trong lối sống, nếp sống. Vì vậy chúng phải
được xây dựng, tiến hành đồng bộ với nhau.
Đạo đức mới
Đời sống mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết bao gồm đạo đức mới.
Đó là: "Thực hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính" [36] và "Nêu cao và
thực hành cần, kiệm, liêm chính tức là nhen lửa cho đời sống mới"[37]. Đạo đức mới
được Hồ Chí Minh coi là "gốc" là "nền tảng" của mỗi con người và đặc biệt với
người cán bộ.
Lối sống mới
Lối sống mới theo Hồ Chí Minh, trước hết là lối sống có lý tưởng, có đạo đức.
Đó là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà giữa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc với tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Việc xây dựng lối sống mới đòi hỏi phải "sửa đổi những việc rất cần thiết, rất
phổ thông, trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở,
cách đi lại, cách làm việc"[38]. Đó là năm cái phải sửa đổi đối với mỗi con người
cũng như với một tập thể, một cộng đồng. Theo ngôn ngữ thường dùng hiện nay
thì đây là phong cách sống (sinh hoạt và ứng xử), phong cách làm việc, gọi chung
là lối sống mới.
Hồ Chí Minh viết: "Bất kỳ ai, muốn sống thì có bốn điểm ăn, mặc, ở, đi lại" [39].
Đó là những nhu cầu cần thiết trước hết để tồn tại của con người, song ăn, mặc, ở
thế nào cho đúng với đời sống mới mà chúng ta xây dựng, có nghĩa là nói về mặt
văn hoá của nó. Mặt văn hoá của ăn, mặc, ở không phụ thuộc vào những thứ dùng

để ăn, mặc, ở nhiều hay ít, sang trọng hay giản đơn, mà theo Hồ Chí Minh lại phụ
thuộc vào lối sống có văn hoá hay không có văn hoá của con người, Người viết:
"Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt" [40].
23


Không phủ nhận nhu cầu chính đáng của mỗi con người ngày càng nâng cao điều
kiện sinh hoạt ăn, mặc, ở, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: Người ta ai cũng muốn ăn ngon,
mặc đẹp. Mong muốn đó là chính đáng, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh mới
là con người có đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống mới là phải xây dựng một phong cách sống khiên
tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, ít lòng ham
muốn về vật chất, chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân dân, đồng chí,
bạn bè, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng yêu thương qúy
trọng con người, đối với mình thì nghiêm khắc, đối với người thì khoan dung, độ
lượng, sẵn lòng giúp đỡ.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phong cách làm việc: "Phải siêng năng, có ngăn nắp,
có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì, thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn.
Chớ làm dối"[41].
Nếp sống mới.
Quá trình xây dựng lối sống mới cũng là quá trình làm cho lối sống đó trở
thành thói quen ở mỗi con người, trở thành phong tục, tập quán tốt đẹp của cả một
cộng đồng, trong phạm vi một địa phương rồi mở rộng ra trong cả nước và bây giờ
chúng ta gọi là nếp sống văn minh.
Hồ Chí Minh chỉ rõ nếp sống mới mà chúng ta xây dựng chẳng những phải kế
thừa và phát triển những giá trị truyền thống tinh thần, những thuần phong mỹ tục,
tập quán tốt đẹp lâu đời của dân tộc; đồng thời phải biết cải tạo những phong tục
tập quán lạc hậu, bổ sung những cái mới, cái tiến bộ mà trước đó chưa có. Người
viết: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì mà không xấu, nhưng phiền phức thì

phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới
mà hay, thì ta phải làm"[42].
24


Việc sửa đổi những thói quen, phong tục, tập quán không còn phù hợp, loại bỏ
cái xấu, cái lạc hậu; xây dựng cái tốt, cái tiến bộ là một công việc rất khó khăn,
phức tạp, Người viết: " Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là
xấu. Cái xấu mà quen người ta cho là thường"[43]. Vì vậy, để xây dựng nếp sống
mới Hồ Chí Minh chỉ rõ các vấn đề cơ bản sau:
Trước hết, Người chỉ rõ đối tượng, của việc xây dựng đời sống mới có hai thứ:
đời sống mới riêng với từng người - trẻ em hay người lớn, người giàu hay người
nghèo, người chủ hay người thợ, thầy giáo hay học trò, cán bộ đảng viên với người
dân, Chủ tịch Chính phủ với người chạy giấy, quét dọn trong một cơ quan nhỏ. Đời
sống mới chung với một nhà, một làng, một trường học, một đơn vị bộ đội, một
công sở, một xưởng máy. Đối với mỗi người hay từng nhóm người Hồ Chí Minh
đều có những chỉ dẫn rất cụ thể.
Hai là, việc thay đổi những thói quen, cải tạo những phong tục, tập quán cũ lạc
hậu không thể một sớm, một chiều, tuỳ tiện, giản đơn, thô bạo. Bởi lẽ theo Người,
thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm cản trở cách
mạng, nhưng chúng ta không thể xoá bỏ bằng bạo lực trấn áp, mà phải cải tạo nó một
cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài. Vì vậy, Người chỉ rõ, trước hết phải tuyên
truyền, giải thích để mội người hiểu được cái lợi của việc xây dựng những thói quen,
phong tục, tập quán mới, hướng dẫn cách làm cụ thể để mọi người, mọi nhà, mọi
làng, mọi cơ quan, đơn vị, xí nghiệp hiểu để làm, để thực hiện cho được đời sống mới,
Người viết: "Phải chịu khó nói rõ cho mọi người hiểu đời sống mới có ích như thế
nào, cách thi hành đời sống mới thế nào"[44]. Người nhắc nhở "Tuyên truyền đời sống
mới cũng như tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời
phải cẩn thận, khôn khéo, mềm mỏng"[45] và tránh nôn nóng, ép buộc, trấn áp thô bạo
sẽ làm hỏng việc. Một biện pháp rất quan trọng khác theo Hồ Chí Minh là phải làm

gương, Người viết: "Tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt
trước”[46]; Trước hết là những người quản lý, lãnh đạo; cán bộ, đảng viên; những
25


×