Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH về đạo đức CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.5 KB, 20 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng rất quan tâm đến vấn đề đạo đức. Tư tưởng
đạo đức của Người, không những được thể hiện qua các tác phẩm, bài viết, bài nói
ngắn gọn, cô đọng và sâu sắc, mà còn được thể hiện trong chính cuộc đời hoạt động
thực tiễn phong phú và bản thân Người đã nêu một tấm gương sáng, mẫu mực về đạo
đức cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam học tập noi theo.
Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng không
những là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng, mà còn thiết thực góp
phần quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho nhân dân ta
nói chung và cán bộ, đảng viên nói riêng.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG
1. Cơ sở lý luận.
a. Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để
tồn tại, phát triển, ông cha ta đã kiên cường, bất khuất trong đấu chống giặc ngoại
xâm và chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ trong các cuộc đấu tranh gian
khổ đó, nhân dân ta đã sớm có ý thức đoàn kết cộng đồng, tương thân tương ái, yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau, chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ, sống trọng
nghĩa, trọng tình, thuỷ chung, độ lượng... Những đức tính tốt đẹp đó được các thế
hệ người Việt Nam kế thừa và bồi đắp từ đời này qua đời khác, trở thành những giá
trị đạo đức cao đẹp, bền vững của dân tộc ta. Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là nét
đặc sắc, nổi bật nhất của thang giá trị đạo đức truyền thống dân tộc.

1


Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nếp sống, phong cách
sinh hoạt gần gũi với người lao động, trọng tình người, sống có nghĩa khí và trên


quê hương giàu truyền thống yêu nước. Người còn được trực tiếp nhìn thấy những
cảnh đau lòng, bất công, bạo ngược của bọn thực dân, phong kiến đối với nhân dân
lao động. Lòng yêu nước, thương dân đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh cho Hồ Chí
Minh trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện một mục đích cao cả, “nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, quê hương, gia đình đã được Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy, phát triển lên
một tầm cao mới, của thời đại mới và được thể hiện một cách sâu sắc trong tư
tưởng của Người về đạo đức cách mạng.
b. Tinh hoa đạo đức phương Đông, phương Tây
Trước khi đến với chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy và nhận thức được những giá trị nhân bản, hạt nhân hợp lý
trong đạo đức phương Đông, phương Tây. Song sự tiếp thu, kế thừa của Hồ Chí
Minh bao giờ cũng trên cơ sở có chọn lọc và phê phán.
Đối với đạo đức phương Đông, Hồ Chí Minh coi trọng và đánh giá cao những
giá trị tích cực, tiến bộ trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo. Đặc biệt trong học
thuyết của Khổng Tử, Người cho rằng, “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì
chúng ta nên học”1. Đó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, nghiêm khắc với bản thân.
Người cũng tìm thấy những điểm hợp lý trong tư tưởng của Phật giáo, coi trọng và đề
cao “cái thiện”, khuyên con người sống hiền từ, không tham lam, có lòng vị tha, cảm
thông sâu sắc với người nghèo khổ, biết lo cho người hơn lo cho mình.
Đối với đạo đức phương Tây, Hồ Chí Minh rất coi trọng những “ưu điểm”
trong tư tưởng của Thiên chúa giáo, đó là lòng nhân ái cao cả của Chúa Giêsu,
2


khuyên con người sống trong sạch, thuỷ chung, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, biết
hoà đồng và làm bạn với mọi người, kể cả làm bạn với bạn của kẻ hại mình. Mặt
khác, Người cũng chỉ ra những hạn chế lớn của Thiên chúa giáo. Nghiên cứu về

nền văn hoá phương Tây, Người đấnh giá cao tinh thần nhân đạo, dân chủ và nhân
quyền được thể hiện trong các trào lưu triết học, văn học nghệ thuật, nổi bật là tư
tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Người cho rằng, đó là một tư tưởng tiến bộ có
sức hấp dẫn đối với quần chúng nhân dân lao động, nhưng đã bị giai cấp tư sản lợi
dụng để mỵ dân, xúi dục quần chúng đánh đổ giai cấp phong kiến để đoạt lấy
quyền cai trị vào tay mình, rồi quay trở lại đàn áp nhân dân.
Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu được những giá trị đạo đức tốt đẹp của cả
phương Đông và phương Tây để mở rộng sự hiểu biết, làm phong phú, làm giàu
thêm trí tuệ của mình. Đó cũng là điều kiện khách quan, cần thiết để Người đến với
chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp cho Người có được
phương pháp tư duy biện chứng khoa học để không ngừng bổ sung, hoàn thiện các
giá trị về đạo đức bằng những quan niệm mới, cách mạng và tiến bộ, phù hợp với
xu thế phát triển tất yếu của nhân loại.
c. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức cách mạng.
Từ rất sớm, trong đời sống xã hội loài người đã xuất hiện và tồn tại các quan
niệm khác nhau về đạo đức, nhưng đó là những quan niệm đạo đức cũ. Chủ nghĩa
Mác ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về một nền đạo đức mới, đạo đức cộng sản, gạt
bỏ tất cả những quan niệm duy tâm, phi lịch sử về đạo đức. Mác cho rằng, “Xét
cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm
của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ” 1. Đồng thời, Mác còn chỉ rõ, trong xã
hội có sự đối lập về giai cấp, thì “đạo đức cũng là đạo đức của giai cấp, hoặc là nó
biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc là khi giai cấp bị trị
đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống lại sự thống trị nói trên
và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức” 2. Đạo đức tiêu biểu
3


cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức chính là đạo đức mới, đạo đức
cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, nó khác hẳn với bản chất đạo đức cũ
của giai cấp thống trị bóc lột. Bàn về vai trò to lớn của đạo đức mới, Lênin đã

khẳng định: “Đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột
và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản
đang sáng tạo ra một xã hội mới của những người cộng sản”3
Chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm đến vấn đề đạo đức và xây dựng đạo đức
cách mạng cho giai cấp vô sản. Hơn nữa, sức thuyết phục của tư tưởng đạo đức
trong học thuyết đó, không chỉ ở tính cách mạng và khoa học của nó, mà còn ở tấm
gương đạo đức mẫu mực, trong sáng, cao cả của các nhà kinh điển. Chính vì vậy,
tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tác động ảnh hưởng một cách sâu
sắc đến cả nhận thức, tư duy, tình cảm và hành động của Hồ Chí Minh. Đặc biệt
khi nói về tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh viết: “Không phải chỉ thiên
tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy,
đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng
về Người, không gì ngăn cản nổi”[1].
2. Cơ sở thực tiễn.
a. Thực tiễn Việt Nam.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, do chính sách cai trị độc ác của chủ nghĩa
thực dân, đã để lại hậu quả hết sức nặng nề. Quần chúng nhân dân lao động họ không
những bị áp bức, bóc lột nặng nề về thể xác, mà còn bị nô dịch về tinh thần. Đặc biệt, trên
lĩnh vực văn hoá, đạo đức, sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến và sự áp đặt “lối
sống tư sản”, cơ hội, thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao chủ nghĩa cá nhân của chủ
nghĩa thực dân là nguy cơ đe doạ đến những giá trị đạo đức truyền thông tốt đẹp của dân
tộc và là một trở ngại to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nhận thức rõ
4


được điều đó, Hồ Chí Minh cho rằng, đối với cách mạng nước ta, muốn giải phóng triệt
để cho người lao động phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư tưởng, văn hoá, đạo đức
lối sống, thói quen lạc hậu có gốc rễ từ hàng ngàn năm nay.
Mặt khác, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền đã thuộc

về nhân dân, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra những hiện tượng sai lệch của một bộ
phận cán bộ, đảng viên như quan liêu, hách dịch, cậy chức, cậy quyền tham ô, hủ
hoá... Những tệ nạn đó, nếu không sớm được phát hiện, ngăn chặn dễ trở thành
nguy cơ làm tổn hại đến thanh danh của Đảng và toàn bộ sự nghiệp cách mạng,
nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Đòi hỏi khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong quá trình
tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới, nhằm biến nước ta từ một nước nghèo nàn,
lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh, thì việc xây dựng nền đạo đức
mới, đạo đức cách mạng cho nhân dân ta nói chung và cán bộ, đảng viên nói riêng
càng trở nên cấp thiết. Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và trở
thành cơ sở quan trọng, hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng.
b. Thực tiễn tình hình thế giới.
Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, Người đã nhận
thấy chủ nghĩa đế quốc một mặt thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân
dân lao động, mặt khác chúng thực hiện chính sách đầu độc về văn hoá, tuyên
truyền cho lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân, áp đặt các giá trị đạo đức,
luân lý tư sản vào các nước thuộc địa. Do đó, cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc
địa không chỉ nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, mà còn để bảo vệ những giá trị văn
hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Đặc biệt, từ khi Chủ nghĩa Mác - Lênin được xâm nhập vào các nước thuộc
địa đã làm cho cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc càng gắn bó mật thiết với
nhau hơn, quyền tự quyết của các dân tộc được coi trọng và đề cao. Đó là những
5


điều kiện thuận lợi lớn cho việc xây dựng tình đoàn kết quốc tế trong sáng trên lập
trường “hữu ái vô sản” giữa giai cấp vô sản, nhân dân lao động ở các nước chính
quốc với các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa thực dân đế quốc. Trong cuộc đấu tranh đó, các quan điểm về cái gọi “khai
hoá văn minh” của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa lần lượt bị vạch mặt,

lên án; mục tiêu, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đạo đức cộng sản không ngừng
được củng cố, mở rộng trên phạm vi thế giới. Mặt khác, sau thắng lợi của cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và cùng với những thành tựu to lớn trong
công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương đất nước của Lênin,
nhất là trên lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng đạo đức, lối sống mới đã
tác động mạnh mẽ và chiếm được cảm tình của đông đảo quần chúng nhân dân lao
động trên thế giới. Thực tế đó đã được Hồ Chí Minh nhận thức, tiếp thu một cách
đúng đắn và trở thành một động lực quan trọng để hình thành nên tư tưởng của
Người về đạo đức cách mạng.
Tuy nhiên, sự hình thành tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng bên
cạnh những điều kiện khách quan cần thiết, còn do những phẩm chất thuộc
nhân cách của Hồ Chí Minh. Với tư chất thông minh, tư duy độc lập sáng tạo
và luôn gần gũi gắn bó sâu sắc với con người, trước hết là người lao động, Hồ
Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tốt đẹp của
dân tộc, tinh hoa đạo đức của nhân loại, kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với
hiện đại, là những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trực tiếp tác động đến việc
hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng. Chính vì vậy mà tư
tưởng đạo đức của Người không chỉ có sức hấp dẫn, thuyết phục to lớn đối với
các thế hệ người Việt Nam, mà còn cả đối với nhân dân lao động, yêu chuộng
hoà bình và tiến bộ trên thế giới.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.
6


1. Đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh đạo đức có một vai trò rất quan trọng đối với người
cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh

đạo được nhân dân” [2].
Đạo đức là thước đo lòng cao thượng, động lực to lớn giúp người cách mạng
vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hiểm nguy. Bởi theo Hồ Chí Minh, người có
đạo đức là người “có tâm, có đức”, mà người có tâm, có đức mới có bản lĩnh vượt
qua khó khăn, thử thách cám dỗ của đời thường, “giàu sang không quyến rủ, nghèo
khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Người có tâm, có đức thì mới có
điều kiện đi sâu, đi sát, gần gũi và gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân để
giáo dục, thuyết phục và cảm hoá được họ. Đồng thời mới là người có đủ nghị lực,
sức mạnh và khả năng tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm, đường lối
của Đảng và quyết tâm biến nó thành hiện thực nhằm mang lại tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, nền tảng của người cách mạng không có nghĩa
là tuyệt đối hoá vai trò của đạo đức hay hạ thấp, tách rời với tài năng, mà trong tư
tưởng đạo đức của Người: nói “đức” là đức phải có tài, nói “tài” là tài đã đức; “đức tài” được hoà quyện với nhau trong nhân cách của người cách mạng. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức còn là cơ sở, điều kiện để phát huy, phát triển tài năng của người cách
mạng. Người chỉ rõ, “Có tài mà không có đức" chẳng những không làm được gì ích
lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông
Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người”[3].
Nhận thức đúng đắn vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của đạo đức đối với
người cách mạng, cho nên ngay từ đầu cũng như trong suốt toàn bộ sự nghiệp cách
7


mạng của dân tộc, Hồ Chí Minh đã rất quan tâm, coi trọng xây dựng đạo đức mới đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân ta.
2. Những chuẩn mực đạo đức cách mạng.
a. Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân.
Đây là phẩm chất, chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách
mạng, là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá đạo đức của con người, của mỗi chiến sỹ
cách mạng.
“Trung - Hiếu” là những khái niệm phản ánh mối quan hệ rường cột trong đạo

đức Nho giáo phương Đông. Theo quan điểm của Nho giáo “Trung” là trung với
vua, vua là người đứng đầu của một nước, nước được gắn liền với vua. Cho nên,
trung với vua cũng có nghĩa là trung với nước. Còn “Hiếu” là hiếu với ông, bà,
cha, mẹ, là qui định đạo làm con phải có trách nhiệm, bổn phận phụng dưỡng ông,
bà, cha, mẹ; thể hiện đức hiếu thảo, lòng biết ơn, tôn kính những người đã có công
sinh thành và nuôi dưỡng mình. “Trung”, “Hiếu” có mối quan hệ gắn bó mật thiết
với nhau, là tiêu chí hàng đầu của đạo đức Nho giáo.
Hồ Chí Minh bàn đến “trung, hiếu” với nghĩa bổn phận, trách nhiệm của con
người đối với gia đình, xã hội, nhưng gạt bỏ quan niệm cũ và những hạn chế trong
tư tưởng của đạo đức Nho giáo, thay vào đó bằng những nội dung mới, cách mạng
và tiến bộ phù hợp với chế độ mới của thời đại mới, thành “trung với nước, trung
với Đảng, hiếu với dân”. Người chỉ rõ: “Ngày xưa Trung là trung với vua, Hiếu là
hiếu với cha mẹ mình thôi. Ngày nay,"trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với
nhân dân”[4].
“Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của
dân tộc, với phương hướng phát triển tất yếu của đất nước là đi lên chủ nghĩa xã
hội; phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết và quyết

8


tâm đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Do đó, theo Hồ Chí Minh “Trung với nước” cũng là “trung với Đảng”.
“Trung với Đảng” là trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng,
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Vì chỉ có Đảng lãnh đạo mới có đường lối chiến lược, sách lược và
phương pháp cách mạng đúng đắn, khoa học, mới phát huy được sức mạnh to lớn
của cả dân tộc để đưa cách mạng đi đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, “nước” bao
giờ cũng gắn liền với một chế độ xã hội nhất định, mà chế độ ta đang ra sức phấn
đấu xây dựng là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, là công trình tập thể của

nhân dân lao động tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Cho
nên, “trung với nước”, là phải “trung với Đảng” và phải “hiếu với dân”.
“Hiếu với dân” theo Hồ Chí Minh là phải tôn trọng, yêu kính nhân dân, gắn bó
máu thịt với nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân và phải coi dân là
gốc, nền tảng của sự nghiệp cách mạng. Vì “dân” trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, dân phải gắn liền với nước, dân là chủ của đất nước, dân có quyền quyết định
vận mệnh quốc gia, “bao nhiêu quyền hành, lực lượng đều thuộc về dân”. Vì vậy,
hiếu với dân là phải một lòng, một dạ “phụng sự nhân dân. Nghĩa là làm đầy tớ cho
dân”[5]. Người cách mạng có được đức tính ấy, thì nói dân tin, làm dân theo và được
dân hết lòng ủng hộ, cách mạng chắc chắn sẽ giành được thắng lợi.
b. Yêu thương con người.
Yêu thương con người là phẩm chất cơ bản, cao đẹp của người cách mạng.
Yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua nhiều mối
quan hệ, nhiều đối tượng với một tình cảm bao la, rộng lớn, nhưng vô cùng sâu
nặng thắm đượm tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Trước hết, Người giành tình yêu
thương cho “quần chúng cần lao”, những người đang phải chịu cảnh lầm than nô
lệ, bị áp bức, bóc lột. Vốn là người lao động, sinh ra và lớn lên trong cảnh nước
9


mất, nhà tan, Hồ Chí Minh càng thấu hiểu nỗi cay đắng, khổ nhục của quần chúng
cần lao, cảm thông sâu sắc và đứng về phía quần chúng cần lao để đấu tranh bênh
vực, bảo vệ các quyền chính đáng của người lao động. Người chỉ rõ, nguồn gốc
của những đau thương, khổ nhục của quần chúng nhân dân lao động cả ở chính
quốc và các thuộc địa đó là do chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Vượt lên tình cảm cá nhân, đơn thuần, tình yêu thương con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn đối với đồng bào mình, mà còn giành cho
cả giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bởi theo Người, trong
sự nghiệp đấu tranh để giải phóng cho con người, trước hết là người lao động, “dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và

giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản”[6]. Đó là tình đồng chí, tình anh em, trong sáng, thuỷ chung trên lập
trường “hữu ái vô sản”. Tình cảm cách mạng cao cả đó đã khơi dậylương tâm,
lương tri, tính “hướng thiện” ở mỗi con người và làm cho các dân tộc gần gủi để
hiểu biết và cảm thông sâu sắc với nhau, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung để tự giải phóng cho mình.
Nổi bật trong tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là sự bao dung,
độ lượng. Yêu thương con người gắn liền với sự tin tưởng vào những khả năng,
phẩm giá tốt đẹp của con người và tạo mọi điều kiện cho con người vươn lên tự
hoàn thiện. Người từng dạy: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng” [7]. Đối với những người
lầm đường, lạc lối đã tỏ ra ăn năn, hối cải đã được Người đối xử với thái độ nhân
ái, khoan dung, độ lượng. Đặc biệt, Người rất coi trọng và đề cao sự giáo dục
thuyết phục, cảm hoá đối với con người. Người khuyên: “Năm ngón tay cũng có
ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi
10


của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ... Đối với đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ”[8].
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Đây là phẩm chất quan trọng, cần thiết không thể thiếu của người cách mạng,
là nền tảng của đời sống mới, của phong trào “thi đua ái quốc”. Hồ Chí minh coi
các đức tính Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong đạo đức của người cách mạng là một
yêu cầu khách quan, cũng như mùa của trời, phương của đất. Người chỉ rõ:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam,Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”[9].
Người cách mạng có đủ các đức tính đó, thì ắt phải là người chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh, “Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai;
“cần” muốn có năng suất, hiệu quả, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. Nghĩa
là phải tính toán, sắp xếp công việc một cách khoa học, việc gì nên làm trước, việc
gì làm sau. Vì vậy, siêng năng với kế hoạch phải đi đôi với nhau. Nhưng có kế
hoạch rồi, còn phải biết phân công theo khả năng, chuyên trách của từng người,
nếu không như vậy, thì dù siêng năng, chăm chỉ đến mấy, công việc cũng không
mấy có kết quả, thậm chí còn thất bại. Cho nên, “cần” phải đi đôi với “chuyên”.
“Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ”[10]. Do đó, lười biếng, dựa dẫm, làm ẩu, làm xổi
là kẻ địch của chữ “cần”.

11


“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi; tiết kiệm
cả về vật chất, công sức lao động, thời gian, tiền của. Người chỉ rõ: “Khi không
nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích
lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui
lòng. Như thế mới đúng là kiệm” [11]. Như vậy, tiết kiệm không phải là bủn xỉn.
Nhưng muốn tiết kiệm có kết quả tốt, một mặt phải kiên quyết chống xa xỉ, hoang
phí, mặt khác phải khéo tổ chức. Bởi theo Người, “Không biết tổ chức thì không
biết tiết kiệm”[12].
“Liêm” là trong sạch, không tham lam. Người giữ đươc chữ “liêm” là người
không tham tiền của, công danh, địa vị... nếu sa vào những tội lỗi ấy, là người “bất
lương”. Người chỉ rõ: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ

LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân” [13]. Đối với cán bộ các cấp trong quân đội,
Người thường xuyên nhắc nhở: “Các chú không lấy của công làm của tư, không
lấy chiến lợi phẩm về cho gia đình bè bạn mới chỉ là liêm một nửa. Các chú phải
dạy cho bộ đội và khuyến khích nhân dân không lấy của công, không lấy chiến lợi
phẩm làm của riêng mới thật là liêm”[14].
“Chính” nghĩa là không tà, ngay thẳng, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn,
thẳng thắn, tức là tà. Làm việc “Chính” là người “Thiện”, làm việc “Tà” là người
“ác”. Siêng năng, tiết kiệm, sống trong sạch là “Chính”; lười biếng, xa xỉ, tham
lam là “Tà”. Là người cách mạng phải biết phân biệt rõ thiện - ác, chính - tà, cho
nên phải “phò chính trừ tà”. Người giữ được chữ “Chính”, thì dù làm bất cứ việc
gì, ở địa vị nào đều phải giải quyết đúng đắn ba mối quan hệ: đối với mình, đối với
người và đối với việc.

12


Đối với mình: không tự kiêu, tự đại, không tự cho mình là người giỏi nhất,
sống độ lượng và có chí tiến thủ. Đồng thời thường xuyên biết tự phê bình, tự kiểm
điểm để khắc phục sửa chữa và hoan nghênh người khác phê bình mình.
Đối với người: phải thực sự yêu quí, kính trọng nhân dân, sống chân thành,
không “thiên tư, thiên vị”, khiêm tốn học hỏi đồng chí, đồng đội và đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ. Không nghe nịnh hót, cũng như không nịnh hót người trên.
Đối với việc: phải tích cực, chủ động, sáng tạo, giám nghĩ, giám làm, giám
chịu trách nhiệm. Trong mọi công việc, phải luôn luôn biết đặt việc chung, lợi ích
chung của tập thể, của Đảng lên trên hết, trước hết.
Giữ vững và làm đúng ba điều trên, thì mới là người có “Chính”. “Chính”
là đức tính quan trọng đối với người cách mạng, đặc biệt đối với cán bộ, đảng
viên. Vì muốn giáo dục người khác làm việc chính “Tự mình phải chính trước,
mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác
chính là vô lý” [15].

“Chí công vô tư” là đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Tổ quốc và
của nhân dân lên trên lợi ích của bản thân; lo trước cái lo của thiên hạ, vui
sau cái vui của thiên hạ. Nghĩa là đem chí công vô tư mà đối với người, với
việc. Cho nên, thực hành chí công vô tư, cũng có nghĩa là kiên quyết quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa cá nhân là một thứ giặc nội xâm, nó nguy hiểm hơn giặc ngoại
xâm, là bạn đồng minh của thực dân phong kiến. Nó tiếp tay cho giặc ngoại
xâm để chống phá ta từ bên trong. Chủ nghĩa cá nhân là mối nguy hại cho cá
nhân con người, cho một Đảng và cả dân tộc, là một trở ngại lớn cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, “thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách
rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân” [16] . Tuy nhiên, đấu

13


tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là giày xéo lên lợi ích cá nhân,
mà phải nhận thức đúng đắn đâu là chủ nghĩa cá nhân, đâu là lợi ích cá nhân.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết, khăng khít
với nhau, tạo nên sự thống nhất trong phẩm chất đạo đức của người cách mạng.
Trong đó, cần phải đi đôi với kiệm như hai chân của con người; cần mà không
kiệm, thì “như gió vào nhà trống, tay không vẫn hoàn không”, kiệm mà không cần
lấy gì mà kiệm. Kiệm đi đôi với cần cũng như kiệm phải đi đôi với liêm. Có cần,
kiệm mới có liêm. cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, là điều kiện để thực hiện chí
công vô tư. Người có đủ năm đức tính đó mới là người hoàn thiện, mới thực sự là
người một lòng, một dạ vì nước, vì dân. Đó cũng là thước đo sự giàu có về vật
chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh tiến bộ của một con người, cũng như
của một dân tộc.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã luôn quan
tâm, chú trọng và giành nhiều công sức đến việc chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho nhân dân ta, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì, nếu

cán bộ, đảng viên mắc sai lầm khuyết điểm thì sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ chung
của cách mạng, đến uy tín của Đảng. Mặt khác, cán bộ, đảng viên là lực lượng chủ
yếu trong các công sở, đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của nhân dân.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng.
Tinh thần quốc tế trong sáng trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt
nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và tính ưu việt của chế độ xã hội
chủ nghĩa. là một phẩm chất quan trọng trong tư tưởng đạo đức của Người.
Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, cho nên theo Người “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân
An Nam cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có nhau” [17]. Đó là cơ sở bền
14


vững để xây dựng tình cảm cách mạng trong sáng, thuỷ chung giữa các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, vì nền độc
lập của mỗi quốc gia dân tộc và quyền tự do, hạnh phúc của mỗi con người.
Tinh thần quốc tế trong sáng phải được thể hiện trong việc kết hợp chặt chẽ giữa
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, gắn mục tiêu cách mạng
của mỗi nước với mục tiêu chung của thời đại: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Bởi theo Hồ Chí Minh, nếu tinh thần yêu nước không chân chính và
tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt
lập, kỳ thị dân tộc hoặc chủ nghĩa sô vanh, bành trướng bá quyền.
Nhận thức rõ điều đó, cho nên trong quá trình tìm đường cứu nước, cũng như
sau này trở thành lãnh tụ của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc
giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân ta. Người nhắc nhở: “Tinh thần
yêu nước chân chính khác với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó
là một bộ phận của tinh thần quốc tế” [18]. Trong mọi thời kỳ, giai đoạn cách mạng
Người yêu cầu cán bộ, nhân dân phải luôn ý thức và hành động một cách đúng đắn,
coi việc ủng hộ, giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới là nghĩa vụ, bổn phận của

người chiến sỹ cách mạng, “giúp bạn là tự giúp mình”.
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng.
a. Nói đi đôi với làm, nêu gương sáng về đạo đức.
Nói đi đôi với làm là nét đặc sắc trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và là
nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ và nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới
mang lại hiệu quả thiết thực. Nếu nói mà không làm, hoặc nói nhiều làm ít, thậm
chí nói một đường làm một nẻo, không những không có hiệu quả, mà còn nguy hại

15


cho cả bản thân và tập thể. Đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, vì nó sẽ dẫn đến
nguy cơ làm mất uy tín của dân đối với Đảng, với chế độ.
Nói đi đôi với làm là thái độ của người cách mạng, tiêu chí để phân biệt một
cách rạch ròi với đạo đức cũ, đạo đức giả dối của giai cấp bóc lột. Chúng đề ra,
“nhưng không bao giờ làm mà bắt nhân dân ta phải theo”. Còn trong nền đạo đức
mới của ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ, “nói thì phải làm”; trước mọi công việc “óc nghĩ,
mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” [19]. Với bản thân mình, Hồ Chí
Minh không chỉ nêu ra những quan điểm, tư tưởng về một nền đạo đức mới - đạo
đức cách mạng, mà bản thân Người đã nêu một tấm gương sáng tuyệt vời của nền
đạo đức đó và thường thì Người làm nhiều hơn những điều đã nói, kể cả việc làm
mà không nói. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức của Người có một sức thuyết phục,
cảm hoá lớn đối với con người.
Để giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân, Hồ Chí
Minh rất coi trọng và đề cao “đạo làm gương”. Vì theo Người, nêu gương sáng về
đạo đức là phương pháp tốt nhất để xây dựng và củng cố các đoàn thể, tổ chức
cách mạng và xây dựng con người mới, đồng thời là một nét đẹp của văn hoá
truyền thống phương Đông. Người chỉ rõ: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn

một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[20]. Đặc biệt, đối với đảng viên, cán bộ Người
thường xuyên nhắc nhở, muốn lãnh đạo, giáo dục nhân dân, thì trước hết mỗi cán
bộ, đảng viên phải tự mình nêu tấm gương sáng để cho quần chúng học tập, noi
theo. Trong quá trình giáo dục, rèn luyện xây dựng đạo đức cho nhân dân, Người
yêu cầu phải “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một
trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây
dựng con người mới, cuộc sống mới”[21].
Nói đi đôi với làm, nêu gương sáng về đạo đức phải được quán triệt sâu rộng
trong tất cả các tầng lớp nhân dân và phải trở thành phong trào cách mạng của
quần chúng. Bổn phận của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chính trị, là những
16


người trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân
dân, muốn cho công việc đạt hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải làm kiểu mẫu
trong mọi việc, ở mọi lúc, mọi nơi.
b. Xây đi đôi với chống.
Theo Hồ Chí Minh, xây là xây “cái hay”, “cái tốt”, “cái tích cực, tiến bộ”.
Chống là chống “cái sai”, “cái xấu”, “cái tiêu cực, lạc hậu”, trái với đạo đức cách
mạng. Mục đích của chống là để xây, nhưng muốn xây thì phải chống, chống càng
hiệu quả, thì xây càng được vững chắc. Vì vậy, xây và chống phải kết hợp chặt chẽ
với nhau, trong đó xây là nhiệm vụ cơ bản, chủ chốt và lâu dài.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng.
Trong quần chúng nhân dân bao giờ cũng có ba hạng người: “hạng tiên tiến, hạng
vừa vừa và hạng yếu kém”. Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bên cạnh chủ
nghĩa đế quốc là kẻ địch nguy hiểm, thói quen truyền thống lạc hậu là kẻ địch to,
chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch nội xâm, bạn đồng minh của hai kẻ địch kia. Địch nội
xâm tiếp tay cho địch ngoại xâm và “hùa” với địch lạc hậu để chống phá ta cả từ bên
trong ra, bên ngoài vào, cả về tư tưởng và tổ chức. Do đó, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, muốn xây dựng đạo đức cách mạng cho nhân dân, một mặt phải

thường xuyên nêu cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh với mọi kẻ địch,
đặc biệt là địch “nội xâm” ẩn náu trong mỗi con người, mỗi tổ chức. Mặt khác, tích
cực đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng đời sống văn hoá mới trong toàn dân,
thực hiện “người người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện”, để cho “phần thiện”,
“phần tốt” trong mỗi con người, mỗi tổ chức nẩy nở như hoa mùa xuân, “phần ác”,
“phần xấu” mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng. Người chỉ rõ: “Vô luận
trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”[22].

17


Nắm vững nguyên tắc này, cấp uỷ và đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ
chính trị trong quân đội, bên cạnh tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho bộ đội, cần quan tâm và coi trọng hơn nữa việc xây dựng môi trường
văn hoá đạo đức, lối sống lành mạnh, chấp hành nghiêm kỷ luật trong toàn đơn vị.
Đồng thời, duy trì và thực hiện nề nếp thường xuyên chế độ phê bình, tự phê bình
trong tất cả các cấp của quân đội.
c. Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó
cũng là nét đặc sắc của văn hoá phương Đông. Đề cập đến vấn đề đạo đức và xây
dựng đạo đức cách mạng cho nhân dân ta, Hồ Chí Minh rất coi trọng và đề cao “sự
tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Vì Người cho rằng, có “tu thân” thì mới làm được
những việc lớn: giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho nhân loại. Người nói:
“Chúng ta phải nhớ câu “Chính tâm tu thân” để trị quốc bình thiên hạ. Chính tâm
tu thân là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ gian khổ, vì đó là một cuộc cách
mạng trong bản thân của mỗi người”[23].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải tự nhiên sẵn có, mà là kết
quả của quá trình đấu tranh, rèn luyện công phu, kiên trì, bền bỉ của mỗi người, gắn
liền với thực tiễn đấu tranh cách mạng. Cách mạng càng khó khăn, gian khổ đòi

hỏi người cách mạng càng phải có ý chí, nghị lực bền bỉ, dẻo dai. Người chỉ rõ:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”[24]. Hơn nữa, cách mạng luôn luôn vận động và phát triển,
trong mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng đều có các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể khác
nhau, cho nên các tiêu chí, chuẩn mực về đạo đức cũng có sự vận động, phát triển
mới. Do đó, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cách mạng vừa phải tích
cực, thường xuyên, liên tục, đồng thời phải được gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ

18


của cách mạng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người trên cương vị, chức
trách được giao.
Theo Hồ Chí Minh việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, trước hết là do sự tự
nguyện, tự giác của bản thân mỗi người là chính. Nhưng các tổ chức, đoàn thể cách
mạng, nhất là tổ chức đảng có một vai trò quan trọng trong việc giáo dục thuyết
phục và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ rèn luyện, phấn đấu để không ngừng
vươn lên tự hoàn thiện bản thân mình. Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc đấu
tranh dễ dàng “nói ngay là có, nói được là xong” mà là cuộc đấu tranh đầy cam go,
quyết liệt, cũng như “lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Vì đó là cuộc đấu tranh với
chính bản thân mình. Trong cuộc đấu tranh này, đòi hỏi bản thân mỗi người phải có
sự nổ lực cố gắng vượt bậc vượt qua chính mình và phải có lòng kiên trì, thì mới
chiến thắng được lòng tà, kẻ thù ẩn náu trong mình, loại bỏ những căn bệnh của
chủ nghĩa cá nhân, hẹp hòi ích kỷ, tham tiền, hám danh lợi… thay vào đó bằng tư
tưởng đạo đức mới - đạo đức cộng sản. Đồng thời cũng chính từ thực tiễn của cuộc
đấu tranh đó, để tổ chức Đảng và các đoàn thể cách mạng bồi dưỡng, giáo dục
giúp đỡ họ không ngừng tiến bộ, trưởng thành.

1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, Tr.46

1 C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, Tr. 136
2 C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, Tr. 137
3 V. I Lênin, Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, M. 1978. Tr. 369
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 1, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 295
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 252. 253
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 9, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 172
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 640
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 6, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 88
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 1, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 266
19


[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 12, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 558
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 4, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 246
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 631
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 633
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 638
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 637
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 641
[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 6, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 321
[15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 644
[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 9, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 291
[17] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 2, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 301
[18] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 6, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 172
[19] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 5, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 699
[20] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 1, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 263
[21] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 12, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 558
[22] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 9, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 287
[23] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 7, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 148
[24] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tâp 9, Nxb CTQG, H. 2002, Tr. 293


20



×