THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến:“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có
lời văn theo mô hình trường học mới”
2.Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:Giáo viên dạy lớp 2 và học sinh lớp 2 ở các
trường Tiểu học.
3.Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Hương
Nữ
Ngày tháng/năm sinh: 14/02/1979
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Long Xuyên.
Điện thoại: 0936676527
4.Đơn vị áp dụng sáng kiến : Trường Tiểu học Long Xuyên - huyện Kinh
Môn - tỉnh Hải Dương
5.Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Có phòng học riêng,có
đầy đủ bảng, bàn ghế,trang thiết bị dạy học như: sách giáo khoa, sách giáo
viên,sách tham khảo,… Học sinh phải say mê,chịu khó tìm tòi,sáng tạo,có ý
thức học tập, biết hợp tác trong nhóm ,tổ…
6.Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: .Năm học 2016 - 2017.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG
SÁNG KIẾN
Nguyễn Thị Bích Hương
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Như chúng ta đã biết, môn toán là một trong những môn học quan trọng
trong chương trình tiểu học. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây
hứng thú học tập toán phát triển khả năng tư duy, suy luận biết diễn đạt đúng
bằng lời, góp phần rèn luyện phương pháp học tập. Bởi vậy việc giải toán có
lời văn cần xác định rõ ràng ngay từ đầu cấp. Việc giải toán có lời văn và kĩ
năng giải toán là nền tảng vững chắc cho các em học tốt ở lớp 2 và cả sau này.
Qua thực tế giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường hoc mới tôi nhận thấy
"Giải toán có lời văn" là mạch kiến thức khó nhất với học sinh. Vốn từ, vốn
hiểu biết và kĩ năng đọc hiểu, khả năng tư duy còn kém, chưa đáp ứng được
yêu cầu trình bày, kĩ năng suy luận và phân tích đề còn hạn chế. Với lí do trên
tôi đã chọn đề tài:
" Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn theo Mô
hình trường học mới"
2.Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Về cơ sở vật chất: Có phòng học riêng,rộng rãi ,thoáng mát,đủ ánh sáng,bàn
ghế đúng quy cách, đầy đủ trang thiết bị dạy học...
- Về phía giáo viên: Giáo viên phải nắm vững chương trình,chuẩn kiến thức ,
kĩ năng,mục tiêu bài dạy...
- Về phía học sinh:Học sinh phải có đầy đủ sách vở.Xác định được nhiệm vụ
học tập.
- Về phía phụ huynh: Quan tâm tạo điều kiện tốt nhất cho con em học
tập.Thường xuyên phối hợp với giáo viên trong quá trình giáo dục con em
mình.
- Thời gian: Năm học: 2016 -2017.
- Đối tượng: Giáo viên dạy lớp 2 và học sinh lớp 2 ở các trường Tiểu học.
3. Nội dung sáng kiến
- Điều tra thực trạng kết quả đạt được của học sinh khối 2 về kĩ năng giải
toán có lời văn.
- Tích cực đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với
mỗi tiết dạy trong từng hoạt động với các nội dung cụ thể:
+ Hướng dẫn học sinh hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giải
toán có lời văn. Tăng cường cho học sinh hoạt động thực hành,vận dụng kiến
thức làm tốt các bài tập.
+ Đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy và thực hiện giải pháp này với lớp 2 tôi chủ
nhiệm, tôi thấy các em đã làm quen với phương pháp học mới và đã đi vào nề
nếp học tập. Trong tiết học tôi thấy nhẹ nhàng hơn, tất cả các đối tượng học
sinh trong lớp đã biết trình bày hoàn chỉnh bài toàn có lời văn. Nhiều em học
khá giỏi có câu trả lời sáng tạo phù hợp với yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng.
4. Kết quả đạt được.
- Năm học 2016 -2017 tôi đã và đang thực hiện , áp dụng thành công kinh
nghiệm này tại trường nơi tôi công tác. Tôi cũng đã chia sẻ với các đồng
nghiệp trong khối cùng thực hiện và bước đầu cũng đã gặt hái được những
thành công nhất định.
5. Đề xuất , kiến nghị
- Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình của môn học và chuẩn kiến
thức kĩ năng. Tích cực nghiên cứu đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học phù hợp với đối tượng hoc sinh.
- Các nhà trường, phòng giáo dục đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường chuyên đề
, hội thảo, hội giảng, báo cáo kinh nghiệm hay đẻ giáo viên có điều kiện học
tập nâng cao trình độ,chuyên môn nghiệp vụ.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Mô hình trường tiểu học mới tại Việt Nam (Dự án GPE- VNEN) được áp
dụng từ năm học 2010 - 2011 tại một số địa phương, hiện nay được mở rộng
cả nước. Dự án về trường học kiểu mới nhằm xây dựng mô hình nhà trường
tiên tiến, hiện đại phù hợp với môi trường phát triển và đặc điểm của giáo dục
Việt Nam hiện nay. Năm học 2016 – 2017, trường chúng tôi là 1 trong 6
trường của huyện tham gia dạy thí điểm theo Mô hình trường Tiểu học mới
(VNEN) đối với khối 2, 3 .
Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp
mà quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy - học cả lớp sang dạy - học
theo nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong
các hoạt động dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều
kiện tốt nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Học sinh
được học ở môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không gò bó, gần gũi
bạn bè thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn bè trong nhóm, trong lớp và thầy cô
giáo. Ngoài ra mô hình trường Tiểu học mới còn giúp học sinh rèn phương
pháp: “Tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác” rèn
luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tế, nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện.
Như chúng ta đã biết, môn toán là một trong những môn học quan trọng
trong chương trình tiểu học. Môn toán ở tiểu học bước đầu hình thành phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây
hứng thú học tập toán phát triển khả năng tư duy, suy luận biết diễn đạt đúng
bằng lời, góp phần rèn luyện phương pháp học tập. Bởi vậy việc giải toán có
lời văn cần xác định rõ ràng ngay từ đầu cấp. Việc giải toán có lời văn và kĩ
năng giải toán là nền tảng vững chắc cho các em học tốt ở lớp 2 và cả sau này.
Qua thực tế giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường hoc mới tôi nhận thấy
"Giải toán có lời văn" là mạch kiến thức khó nhất với học sinh. Vốn từ, vốn
hiểu biết và kĩ năng đọc hiểu, khả năng tư duy còn kém, chưa đáp ứng được
yêu cầu trình bày, kĩ năng suy luận và phân tích đề còn hạn chế. Với lí do trên
tôi đã chọn đề tài:
" Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán có lời văn theo Mô
hình trường học mới"
2.Cơ sở lí luận
- Người giáo viên muốn dạy tốt phải nắm vững chương trình, nắm vững
đặc trưng của môn toán, chuấn bị tốt các phương tiện, các đồ dùng cần thiết
cho tiết học. Luôn chọn cho mình phương pháp dạy phù hợp nhất cho từng
bài toán. Và bên cạnh đó người giáo viên phải nắm vững phương pháp dạy
học mới theo mô hình trường học mới Việt Nam.
- Các em học sinh muốn học tốt thì trước hết phải tập trung học tập, phải
suy nghĩ kĩ và đọc đề toán nhiều lần. Tuy nhiên trong thực tế ý thức học tập
ở học sinh lớp 2 còn thấp, không chịu đọc đề vì các em còn nhỏ, đặc điểm
tâm sinh lý chưa ổn định, còn ham chơi. Việc dạy học theo mô hình trường
học mới học sinh phải ngồi học theo nhóm nên các em các em dễ quay cóp
khi làm bài nên từ đó suy tính ỷ lại không chịu tập trung suy nghĩ.
- Những bài toán có lời văn ở lớp 2 là những bài toán thực tế, nội dung bài
toán thông qua những câu nói về những quan hệ tương đương và phụ thuộc,
có liên quan đến cuộc sống hằng ngày. Cái khó ở đây là làm thế nào để lược
bỏ những yếu tố về lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài toán.Hay
nói một cách khác làm sao phải chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố
toán học chứa đựng trong bài văn và tìm ra được những câu lời giải, phép
tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
3. Thực trạng của vấn đề.
Qua một năm giảng dạy lớp 2 theo mô hình trườn học mới, tôi nhận thấy
học sinh khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập
khác. Các em rất lúng túng khi viết câu lời giải tuy rằng các em biết ghi
phép tính đúng. Nhiều em nêu câu lời giải không phù hợp với yêu cầu đề
toán đặt ra. Tất cả các nhóm khi làm đến dạng toán có lời văn đều đưa thẻ
cứu trợ để giáo viên đến hướng dẫn.
- Để giải được các bài toán có lời văn,trước hết các em phải có các kĩ năng
đọc, viết số, kĩ năng đặt tính, kĩ năng vận dụng các tính chất của phép tính,
kĩ năng tự kiểm tra.
- Tập cho học sinh từng bước biết xem xét các đối tượng toán dưới nhiều
hình thức khác nhau và tập diễn đạt theo lời văn của mình.
- Hình thành cho học sinh làm quen với các thao tác tư duy, phân tích, tổng
hợp, so sánh, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa, ...
- Hình thành và phát triển ở các em các năng lực quan sát, ghi nhớ, tưởng
tượng, tư duy qua bài toán.
- Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, lớp 2 đối với học sinh là một khó khăn lớn
với người giáo viên, do đó trong giờ học toán bên cạnh việc tìm tòi và sáng
tạo tìm câu lời giải của học sinh thì mỗi giáo viên cần động viên và giúp đỡ
các em khi các em cần cứu trợ bằng cách dùng những câu hỏi gợi mở như:
Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì? Và dựa vào yêu cầu của đề toán
mỗi em nêu lên lời giải. Trên thực tế chúng ta thấy vẫn còn nhiều em ghi
câu lời giải chưa đúng, chưa hay và cũng có một số em không ghi lời giải.
Nguyên nhân này không thể đổ lỗi cho học sinh mà phấn lớn là do phương
pháp dạy học, cách áp dụng cũng như truyền đạt của người giáo viên chưa
đạt yêu cầu.
- Trong giờ học Toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phưong pháp dạy
phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh, mỗi giáo viên cần phải
giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học . Học sinh có
phương pháp học Toán phù hợp với từng dạng bài Toán thì việc học mới đạt
kết quả cao, Từ đó khuyến khích tinh thần học tập của các em cao hơn.
3.1 Thực trạng ban đầu của lớp 2B:
Đầu năm học 2016- 2017, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2B
Lớp 2B có 28 học sinh, trong đó có 14 em nữ.
Chất lượng đầu năm:
Toán: Giỏi: 10 em =35,7 % ; K: 12 em = 42,9% ;
TB: 5 em = 17,8.%; Y: 3 em = 10,7%
Tuy 100% các em có đầy đủ bố mẹ, có một em thuộc diện gia đình nghèo
và đa số các em là con gia đình nông dân, cha mẹ ít quan tâm đến việc học
hành của con em mình. Thực sự đây là lớp mà GV chủ nhiệm nào khi gặp
cũng cần có sự quan tâm và lo lắng.
.Nhìn chung phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học
Toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng của học sinh nên phụ
huynh chưa có sự đầu tư đúng mức. Đầu năm học, đối với chương trình môn
toán lớp 2. Nhìn chung các em đều thực hiện được các phép tính cộng, trừ
có nhớ trong phạm vi 100, nắm được tên gọi, thành phần và kết quả phép
cộng, trừ, hay tìm x trong bài toán, nhưng ở phần giải toán có lời văn thì lớp
2B có 59,3% học sinh giải và trình bày được, 10% các em biết tóm tắt bài
toán, ghi đúng lời giải nhưng thực hiện phép tính thì sai. 30,7% các em chưa
biết ghi lời giải của bài toán, chưa có em nào có sáng tạo hay có lời giải hay
hơn, gọn hơn. Đặc biệt là những em trung bình, yếu, việc đọc, viết đã chậm
thì giải toán có lời văn lại càng khó khăn hơn rất nhiều .
3.2 Về phía giáo viên:
Trong quá trình dạy học theo mô hình trường học mới người giáo viên chưa
có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để học sinh nắm vững được lượng
kiến thức, đặc biệt là dạng giải toán có lời văn. Nguyên nhân là do giáo viên
mới tiếp cận với chương trình dạy học theo kiểu mới này. Thời gian dành
nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học mới này còn hạn chế. Bên
cạnh đó việc ý thức về tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn của các
em chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh lên lớp 3 vẫn còn nhiều
em chưa ghi được lời giải và phép tính đúng cho một bài toán.
3. 3 Về phía học sinh
Nguyên nhân là do các em không hiểu hết các từ trọng tâm trong đề toán để
phân tích, suy luận tìm ra cách giải. Bên cạnh đó một số em đọc còn chậm
không theo kịp tiến độ. Vì vậy khi gặp bài toán có lời văn, đọc đề bài các em
chưa hiểu hết, chưa tư duy, chưa phân tích được đề bài. Các em còn mơ hồ
lúng túng làm việc còn áp dụng theo mẫu.
4. Phạm vi đề tài.
4.1. Trong đề tài này tôi hướng vào việc hướng dẫn học sinh giải bài toán
có lời văn cho học sinh trong lớp nhất là những em yếu về môn toán. Giúp các
em có tư duy, kĩ năng tính toán và kĩ năng phân tích đề, trình bày đúng bài
toán có lời văn. Học sinh không còn lúng túng khi gặp những bài toán có lời
văn.
* Hoạt động cá nhân: Học sinh tự đọc đề bài, tự phân tích đề và trình bày
được bài toán có lời văn.
* Hoạt động nhóm: Sự hợp tác mỗi cá nhân trong nhóm, nhóm trưởng
điều khiển nhóm làm việc, hỗ trợ các bạn trong nhóm. Kiểm tra đánh giá lẫn
nhau, giúp bạn thi đua hoàn thành nhiệm vụ.
* Hoạt động lớp: Phát huy vai trò tự quản, tự giác làm việc của lớp. Giáo
viên là người tổ chức lớp, hướng dẫn, hỗ trợ khi cần thiết và quan tâm đến tất
cả các đối tượng học sinh.
4.2. Đề tài này được thực hiện ở lớp 2B, trường tiểu học đang vận dụng
Mô hình trường tiểu học mới VN.
5. Thuận lợi - khó khăn
5.1. Thuận lợi
- Trường tôi đang trong giai đoạn thử nghiệm dạy học theo Mô hình
trường học mới VN ở khối 2.
- Được sự quan tâm và giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, tạo mọi
điều kiện tốt để tôi hoàn thành công việc của mình theo Mô hình trường tiểu
học mới VN.
- Cơ sở vật chất tốt, đầy đủ. Trường lớp sạch sẽ, thân thiện.
- Bản thân tôi nhiệt tình, có tay nghề vững vàng và được tham gia đầy đủ
các lớp tập huấn về phương pháp, nội dung dạy học theo Mô hình trường tiểu
học mới VN.
- Tài liệu học tập của học sinh được cấp phát đầy đủ, có màu sắc, tranh ảnh
đẹp thuận tiện cho dạy và học. Hoạt động học tập rõ ràng nên thu hút được sự
hứng thú học tập của học sinh.
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em. Phối hợp tốt giữa
gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục học sinh.
- Các em ngoan, chăm học, lễ phép, vâng lời.
- Ở lớp 1 bước đầu các em đã làm quen với dạng toán có lời văn.
5.2. Khó khăn
- Qua khảo sát đầu năm và quá trình giảng dạy lớp 2 theo Mô hình trường
học mới, tôi thấy học sinh còn hạn chế về kĩ năng giải toán có lời văn như
sau:
- Các em từ lớp 1 lên lớp 2 chưa nắm chắc các bước giải toán có lời văn,
chưa biết lựa chọn phép tính để giải bài toán.
- Một số em chưa biết tóm tắt bài toán.
6 Các giải pháp,biện pháp thực hiện.,
6.1. Giúp các em nắm được các bước giải toán có lời văn, biết lựa chọn
phép tính để giải
6.1.1. Ôn lại các bước giải bài toán có lời văn
Do ở lớp 1các em mới bước đầu làm quen với dạng toán có lời văn, vì vậy
khi học đến lớp 2 và bài đầu tiên của dạng toán có lời văn, tôi đã hướng dẫn
các em ôn lại kiến thức đã học, nêu được các bước giải một bài toán có lời
văn các em đã học.
Tôi cho học sinh thảo luận nhóm, làm vào phiếu bài tập.
Phiếu bài tập.
Câu 1: Để làm tốt bài toán có lời văn bước đầu tiên em phải làm gì?
Câu 2: Muốn đặt lời giải đúng em cần dựa vào phần nào của bài toán?
Câu 3: Một bài toán giải có lời văn đầy đủ gồm có mấy phần?
- Nhóm trưởng đọc từng câu hỏi cho cả nhóm nghe, mỗi em tự suy nghĩ tìm
ra câu trả lời của mình, sau đó nêu ý kiến của mình để nhóm thống nhất.
- Trong quá trình học sinh thảo luận nhóm tôi quan sát các nhóm làm việc.
Nhóm nào gặp khó khăn giơ thẻ cứu trợ tôi đến nhóm đó hỗ trợ cho các em.
Bước 1: Tìm hiểu đề
Trước khi làm bài mỗi em đều phải tự đọc đề toán (những em đọc chậm,
giáo viên hỗ trợ học sinh thêm) để hiểu rõ đề bài.
Sau khi đọc đề, học sinh tìm hiểu đề toán theo hệ thống câu hỏi trong
phiếu bài tập. Nhóm trưởng hỏi, các thành viên trả lời và thống nhất kết quả.
- Bài toán cho biết gì? (Những gì đã cho)
- Bài toán hỏi gì? (Những gì cần phải tìm)
- Bài toán thuộc dạng toán gì?
Bước 2: Tóm tắt bài toán
Tóm tắt bài toán bằng hình vẽ, hoặc ngôn ngữ ngắn gọn, giúp học sinh
minh họa rõ hơn các mối quan hệ, tạo điều kiện thuận lợi để tìm phép tính
giải phù hợp.
Bước 3: Tìm lời giải
Muốn viết được câu lời giải đúng em cần dựa vào phần nào của bài toán?
(Muốn viết được câu lời giải đúng em cần dựa vào phần câu hỏi của bài toán)
Bước 4: Tìm phép tính đúng
Muốn tìm ra được phép tính thích hợp, chúng ta cần chú ý tới các từ nào
trong bài toán? ( ta cần chú ý các từ trọng tâm trong các bài toán như: thêm,
bớt, tất cả, còn lại, nhiều hơn, ít hơn, chia thành ...)
Bước 5: Trình bày bài toán hoàn chỉnh
Tôi đọc câu hỏi cho các em thảo luận và trình bày trong nhóm, thống nhất
kết quả.
Một bài giải của bài toán có lời văn, được trình bày đúng quy định gồm có
mấy phần? (Gồm có 3 phần: Câu lời giải, phép tính (với đơn vị viết trong
ngoặc và ở sau kết quả), đáp số (với đơn vị viết bình thường, không có ngoặc
đơn)).
Sau khi các em được ôn lại các bước giải toán có lời văn, tôi yêu cầu mỗi
nhóm thảo luận và thống nhất viết lại 3 phần trong một bài giải toán có lời
văn, rồi dán lên góc học tập để giúp các em nhớ cách làm bài.
Phần 1: Câu lời giải
Phần 2: Phép tính
Phần 3: Đáp số
6.1.2. Một số dạng toán thường học
6.1.2.1. Dạng toán "nhiều hơn"
Theo tài liệu hướng dẫn học Toán 2, tập 1A, bài 6: "Bài toán về nhiều
hơn", nhiệm vụ 4 trang 28 là: Bạn Hòa có 4 bông hoa, bạn Bình có nhiều hơn
bạn Hòa 2 bông hoa. Hỏi bạn Bình có mấy bông hoa? Khi dạy bài này tôi
thấy học sinh chỉ áp dụng được một phương pháp đó là làm theo mẫu có sẵn
trong tài liệu. Học sinh khó phát triển kĩ năng phân tích đề và tóm tắt bài toán.
Vì vậy tôi đã thay đổi hình thức học tập bằng các bước cụ thể sau:
- Học sinh làm việc trrong nhóm.
Bước 1: Đọc đề và tìm hiểu đề bài toán
- Đây là một bước rất quan trọng tôi đã nhắc nhở học sinh đọc đề bài toán
trong sách tài liệu, hướng dẫn học Toán 2 đọc nhiều lần trong nhóm để hiểu.
Tôi cho các nhóm thảo luận. Trong khi học sinh thảo luận tôi đến từng nhóm
hướng dẫn thêm, tuyên dương khen thưởng cá nhân, nhóm làm tốt bằng hình
thức trao hoa tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Học sinh đọc đề bài, tìm hiểu đề, sau đó tự nêu cho nhau nghe theo hệ
thống câu hỏi sau:
+ Bài toán cho biết những gì? (bạn Hòa có 4 bông hoa, bạn Bình có nhiều
hơn bạn Hòa 2 bông hoa)
+ Bài toán hỏi gì? (Bạn Bình có mấy bông hoa ?)
+ Bài toán thuộc dạng toán nào? (dạng toán nhiều hơn)
+ Tìm từ trọng tâm trong bài? (nhiều hơn)
+ Muốn biết bạn Bình có mấy bông hoa ta phải làm phép tính gì? (phép
tính cộng).
- Khi học sinh làm việc trong nhóm tôi phải quan sát, nếu có nhóm nào giơ
thẻ cứu trợ tôi đến nhóm đó để hướng dẫn các em. Trường hợp có nhiều nhóm
cần cứu trợ thì tôi cho cả lớp cùng quay mặt lên bảng để tôi hướng dẫn.
Bước 2: Hướng dẫn các em tóm tắt bài toán
- Đây là bước diễn đạt đề toán ngắn gọn, tóm tắt đúng giúp các em có
cách giải dễ dàng hơn. Nhìn vào tóm tắt ta có thể định ra được các bước giải
toán.
- Tùy vào dạng toán, bài toán mà tôi hướng dẫn các em tóm tắt một cách
phù hợp như bằng lời, bằng hình vẽ.
- Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh (sẽ làm rõ ở mục 2)
Tóm tắt bằng lời:
Tóm tắt bằng hình vẽ:
Hòa:.... bông hoa
Hòa:
Bình nhiều hơn: ... bông hoa
Bình:
Hỏi Bình: .....bông hoa?
? bông hoa
- Mỗi em tự chọn cách tóm tắt của mình, làm vào giấy nháp và sau đó trình
bày bài của mình cho nhóm nghe. Kết hợp, tôi đi kiểm tra, hướng dẫn thêm
cho các em và nghiệm thu kết quả.
Bước 3: Tìm lời giải đúng và cách ghi
Việc đặt lời giải đúng trong phần bài giải tôi để học sinh tự diễn giải, yêu
cầu viết ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, đúng ý, tôi lưu ý cho học sinh khi viết lời
giải, đầu câu viết hoa cuối câu có dấu hai chấm.
Học sinh tự suy luận từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện đã cho để tìm lời
giải của bài toán, tôi gợi ý cho học sinh căn cứ vào câu hỏi cuối bài (Hỏi bạn
Bình có mấy bông hoa?) hoặc dòng tóm tắt cuối cùng (hỏi Bình:.... Bông
hoa?). Học sinh sẽ sửa lại câu hỏi thành câu lời giải hoàn chỉnh, lấy các từ
"Bạn Bình có ... bông hoa" trong câu hỏi của bài toán. Bỏ từ "mấy" sau đó
thêm chữ "số" vào vị trí chữ "mấy" và bỏ dấu "?" cuối câu hỏi thay vào đó
chữ " là", thêm dấu ":" ở cuối câu. Từ đó ta được lời giải của bài toán, đó là:
"Bạn Bình có số bông hoa là:"
Tôi khuyến khích các em đặt nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp
với yêu cầu đề bài. Qua đó giúp các em tự tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc
suy nghĩ linh hoạt, độc lập.
Chẳng hạn như:
- Bạn Bình có số bông hoa là:
- Số bông hoa của bạn Bình là:
- Số bông hoa bạn Bình có là:
Bước 4: Tìm phép tính đúng và đáp số
Đây là bước suy luận để tìm cách giải bài toán đúng và kết quả. Học sinh
có thể ghi sai phép tính hoặc không ghi tên đơn vị trong ngoặc đơn, viết đáp
số sai. Vì vậy tôi đã định hướng các em tìm từ trọng tâm trong bài, đó là từ
"nhiều hơn". Tôi hỏi các em suy nghĩ trả lời: Theo em "nhiều hơn" là làm
phép tính ? (Trong trường hợp này là phép tính cộng), lấy mấy cộng mấy?
Học sinh phải tự tư duy để tìm kết quả. Tôi đi đến từng nhóm để kiểm tra,
giúp đỡ học sinh. Nếu học sinh nào lúng túng tôi hướng dẫn thêm. Đối với
phần ghi đáp số, học sinh cũng thường nhầm lẫn, tôi hỏi thêm để các em nắm
chắc hơn, như: Bài toán hỏi gì? (Bạn Bình có bao nhiêu bông hoa?). Vậy theo
em "Bạn Bình có bao nhiêu bông hoa?"; (học sinh sẽ nêu "Bạn Bình có 6
bông hoa), vậy "6" chính là kết quả của phép tính, chữ "bông hoa" là tên đơn
vị. Khi viết phép tính, tên đơn vị viết vào trong ngoặc đơn, đáp số là kết quả
của phép tính, tên đơn vị không viết trong ngoặc đơn. Từ suy luận trên học
sinh có thể viết được phép tính và đáp số như sau:
4 + 2 = 6 (bông hoa)
Đáp số: 6 bông hoa
Bước 5: Trình bày bài toán hoàn chỉnh
- Sau khi tôi hướng dẫn các em tìm hiểu kĩ các bước giải toán, cho các em
trình bày bài toán hoàn chỉnh vào vở, rồi trình bày bài làm của mình cho cả
nhóm nghe trao đổi bổ sung, hỗ trợ nhau giữa các đối tượng học sinh trong
nhóm, các em đổi bài vòng tròn để đánh giá lẫn nhau. Tôi đi đến các nhóm
kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm. Kết quả các em có thể làm như sau:
Bài giải
Bạn Bình có số bông hoa là:
4 + 2 = 6 (bông hoa)
Đáp số: 6 bông hoa
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã lưu ý học sinh thêm như: từ "nhiều hơn"
khi dùng trong các văn cảnh khác nhau thường bị thay đổi đi một chút, chẳng
hạn:
- Khi nói về chiều dài (cao) ta dùng từ "dài hơn "hoặc"cao hơn".
- Khi nói về khối lượng, ta dùng từ "nặng hơn".
- Khi nói về tuổi tác, ta dùng từ "hơn".
- Khi nói về thời gian, ta dùng từ "lâu hơn" hoặc "muộn hơn"..
6.1.2.2. Dạng toán " ít hơn"
Bài 15: Bài toán về ít hơn, trong sách tài liệu hướng dẫn học Toán 2
nhiệm vụ 4 trang 54 là: Bạn Bình có 6 bông hoa, bạn Hòa có ít hơn bạn Bình
2 bông hoa. Hỏi bạn Hòa có mấy bông hoa?
Tôi hướng dẫn tương tự các bước như bài toán 1, dạng toán "nhiều hơn" ở
mục 1.2.1
Sau khi hướng dẫn các em tóm tắt bài toán bằng hình vẽ hoặc bằng lời tôi
yêu cầu mỗi học sinh tự suy nghĩ để trả lời câu hỏi. Trong bài toán này nêu "ít
hơn 2 bông hoa" vậy ít hơn ta làm phép tính gì? Vì sao? Các em suy nghĩ rồi
trao đổi theo cặp, nhóm và tôi đi đến các nhóm kiểm tra, nghiệm thu, giúp đỡ.
(yêu cầu học sinh phải nêu được "ít hơn 2 bông hoa tức là có 6 bông hoa bớt
đi 2 bông hoa, ta phải thực hiện phép tính trừ, vậy số bông hoa của Hòa là...")
Tôi yêu cầu học sinh trình bày bài hoàn chỉnh như sau:
Bài giải:
Số bông của Hòa là:
6 - 2 = 4 (bông hoa)
Đáp số: 4 bông hoa
Tôi đã lưu ý thêm cho học sinh: Từ “ít hơn” dùng trong các văn cảnh khác
nhau, thì từ khóa có thay đổi một chút.
Ví dụ:
- Khi nói về khối lượng, ta dùng từ "nhẹ hơn".
- Khi nói về chiều dài (cao), ta dùng từ "ngắn hơn" hoặc "thấp hơn" (như
nhiệm vụ 2 trang 55, hoạt động thực hành tài liệu hướng dẫn học Toán lớp 2
tập 1A)
- Khi nói về tuổi tác và đa số, ta dùng các trường hợp khác, ta có thể dùng
từ "kém" thay cho từ "ít hơn"...
6.1.2.3. Bài toán theo 3 mức độ
Ví dụ: Năm nay anh 20 tuổi, em kém anh 5 tuổi. Hỏi:
a. Năm nay em bao nhiêu tuổi ?
b. Tính số tuổi của hai anh em hiện nay ?
c. Tìm số tuổi của anh sau 5 năm nữa ?
Bài toán này tôi dành cho những em đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ học
tập, trình bày tốt bài toán có lời văn. Nhằm nâng cao chất lượng giải toán có
lời văn, phát huy kĩ năng giải toán cho học sinh khá giỏi.
Để thực hiện, tôi cung cấp phiếu bài tập cho các em bằng cách để các
phiếu bài tập trong hộp thư, học sinh đến nhận nhiệm vụ. Trong phiếu ghi đề
toán, và hướng dẫn gợi ý để học sinh suy nghĩ tự làm:
Câu a: Em hãy tự làm bài để tìm số tuổi của người em.
Câu b: Em dựa vào kết quả câu a, ta biết số tuổi của người em, đã biết tuổi
của em và tuổi của anh, em hãy tính tuổi của 2 anh em.
Câu c: Tuổi của anh hiện nay đã biết. "Tuổi của anh sau 5 năm nữa" có nghĩa
là tìm tuổi anh đã tăng thêm so với hiện nay.
Tương tự như vậy, trong mỗi bài học, tôi đều phải thiết kế thêm để giúp
học sinh nâng cao hơn so với chuẩn kiến thức kĩ năng, đồng thời rèn kỹ năng
giải toán có lời văn tốt hơn.
6.2. Hướng dẫn học sinh cách tóm tắt bài toán có lời văn. (Ở lớp 2 chưa
tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng)
Đây là bước diễn đạt đề toán ngắn gọn, tóm tắt đúng giúp các em có cách
giải dễ dàng hơn. Nhìn vào tóm tắt ta có thể định ra được các bước giải toán.
Vì vậy từ đầu năm học tôi đã tiến hành hướng dẫn các em cách học, chẳng
hạn qua bài: Hùng có 8 hòn bi, Lâm có 7 hòn bi. Hỏi hai bạn có tất cả bao
nhiêu hòn bi? (nhiệm vụ 5 trang 46, sách tài liệu hướng dẫn học Toán lớp 2
tập 1A)
a. Tóm tắt bằng lời.
Chuẩn bị của giáo viên:
- Tôi viết nội dung vào bảng phụ:
Hùng có:.... hòn bi
Lâm có:.....hòn bi
.................hòn bi?
- Phiếu gợi ý: Bài toán cho biết gì?
Bài toán hỏi gì?
Tìm từ trọng tâm trong bài
- Mỗi em trong nhóm tự đọc kĩ bài toán, hiểu đúng từng câu văn, phân tích,
suy luận được. Từ các dữ kiện bài toán đã cho, yêu cầu phải tìm.
- Nhóm trưởng nhận bảng nhóm và phiếu gợi ý ở góc học tập, cho các bạn
thảo luận và điền kết quả vào chỗ chấm.
- Sau khi thảo luận xong các nhóm đổi bảng phụ để giao lưu kết quả với
nhau.
Tóm tắt:
Hùng có:.... 8....hòn bi
Lâm có:....7....hòn bi
Hai bạn có tất cả: .....hòn bi?
b. Tóm tắt bằng hình vẽ. (Tôi chuẩn bị phiếu và bảng phụ như mục a).
- Trong trường hợp này tôi cho học sinh học cả lớp. Tuy nhiên, hệ thống
câu hỏi gợi ý vẫn như phần tóm tắt bằng lời. Học sinh vẫn thảo luận trong
nhóm và nêu kết quả cho nhau nghe.
- Sau đó một nhóm trình bày, tôi thao tác đính lên bảng.
Tôi gắn hình minh họa lên bảng cho học sinh quan sát và hỏi lại để hình
thành:
Hùng:
Hùng có mấy hòn bi? Học sinh đếm và trả lời (Hùng có 8 hòn bi)
Lâm:
Lâm có mấy hòn bi? Học sinh đếm và trả lời (Lâm có 7 hòn bi)
Bài toán hỏi gì? (hai bạn có tất cả bao nhiêu hòn bi)
Kết quả cuối cùng là:
Hùng:
? hòn bi
Lâm:
Tôi yêu cầu học sinh nêu lại bài toán theo hình minh họa (Hùng có 8 hòn bi,
Lâm có 7 hòn bi. Hỏi hai bạn có tất cả bao nhiêu hòn bi?), sau đó hướng dẫn
cho các em tự trình bày bài giải vào vở. Trước khi làm vào vở, học sinh nhắc
lại các bước giải bài có lời văn.
6.3. Tăng cường tiếng Việt cho học sinh.
Để thực hiện tốt việc tự học của các em học sinh lớp 2 theo Mô hình
VNEN, các em cần phải đọc thông viết thạo, do đó tôi đã thực hiện tăng
cường tiếng Việt cho các em. Không chỉ trong môn tiếng Việt mà còn rèn qua
các môn học khác trong đó có môn toán như:
- Tổ chức kèm cặp phụ đạo học sinh vào các tiết toán bổ sung, trong
những tiết này thông qua việc ôn tập, củng cố kiến thức cho các em, tôi xen
kẽ tăng cường tiếng Việt cho các em.
- Tôi thường xuyên rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong tất cả các giờ học
cho các em.
- Luyện kĩ năng hỏi đáp để các em có vốn từ lưu loát hơn, luyện viết đúng
viết nhanh. Trong tiết dạy phải kiên trì giúp đỡ từng em biết cách nâng cao ý
thức tự lực của mỗi cá nhân.
6.4. Thi đua, động viên, khen thưởng.
6.4.1. Các biện pháp khác hỗ trợ việc giải toán có lời văn.
- Dạy học theo Mô hình mới giáo viên phải chia nhóm, phải có đủ các đối
tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu. Khi học tập trong nhóm học sinh
mạnh dạn, tự tin, khuyến khích học sinh tìm tòi sáng tạo, biết trình bày ý kiến
của mình, đánh giá ý kiến của bạn. Chẳng hạn một bài toán khó nếu như
nhiều em cùng bàn bạc, phân tích nhất định sẽ tìm ra cách giải hay.
- Tôi đã thực hiện hình thức tuyên dương, khen thưởng, động viên khi đến
từng nhóm kiểm tra để học sinh có sự hứng thú trong học tập.
- Việc tổ chức hướng dẫn cho học sinh làm bài tập là việc làm rất quan
trọng, nên mỗi câu hỏi của giáo viên đều phải rõ ràng, có nội dung chính xác,
phù hợp với yêu cầu bài học. Qua đó giúp học sinh nắm vững kiến thức và
linh hoạt trong suy nghĩ.
- Tổ chức học sinh khá, giỏi trong nhóm thường xuyên giúp đỡ bạn yếu,
kém nếu các bạn có yêu cầu về phương pháp vận dụng kiến thức.
- Tặng thưởng cho học sinh bằng các phiếu đặt trong hộp thư của lớp.
- Tổ chức một số trò chơi trong giờ học toán tạo hứng thú khi bắt đầu tiết
học.
6.4.2. Vận dụng thang điểm theo dõi, đánh giá.
6.4.2.1. Đánh giá tiến độ cá nhân: Dùng bảng đo tiến độ cá nhân thường
xuyên trong các tiết học.
Chẳng hạn bài: Bài toán về nhiều hơn (bảng này được thiết kế trên giấy A4)
Nhóm2
Hoạt động cơ bản
Hoạt động thực hành
1
2
3
4
5
Nhi
1
2
2
1
1
Uyên
4
3
4
2
3
Anh
3
1
1
3
2
Hiếu
2
4
3
4
4
1
2
Trong các tiết học, bài học đều dùng bảng đo tiến độ để đánh giá mức độ
tiếp thu kĩ năng làm bài của mỗi học sinh trong nhóm.
Bạn nào trong nhóm làm xong trước thì ghi số 1, lần lượt các bạn làm
xong thì ghi thứ tự các số tiếp theo vào bảng đo tiến độ.
Chẳng hạn, trong phiếu trên:
+ Trong dòng 2: các số 1, 2, 3, 4, 5... chỉ thứ tự các nhiệm vụ hoạt động
cơ bản được thiết kế trong sách tài liệu học, các số 1, 2, ... chỉ thứ tự các
nhiệm vụ của hoạt động thực hành được thiết kế trong sách tài liệu hướng dẫn
học toán.
+ Các số 1, 2, 3, 4, ở cột dọc biểu thị thứ tự bài làm xong trước hoặc sau
của các thành viên trong nhóm.
Khi nhìn bảng đo tiến độ giáo viên xác định được mức độ làm bài nhanh,
chậm của các em trong nhóm.
6.4.2.2 Đánh giá tiến độ nhóm: Dùng hoa thi đua theo quy định.
Nhóm nào trong nhiệm vụ 1 mà làm xong thì đưa tín hiệu báo trước. Giáo
viên đến kiểm tra lại các em trong nhóm và ghi nhận các em đã thực hiện đạt
yêu cầu của hoạt động thì lần lượt trao hoa: Nhóm nhất (màu đỏ 5 điểm);
nhóm nhì (màu xanh 4 điểm); nhóm 3 (màu vàng 3 điểm); nhóm 4 (màu tím 2
điểm). Sau mỗi tiết học các nhóm sẽ tổng kết điểm để tìm ra nhóm về nhất,
nhì, ba, tư. Rồi đưa lên bảng thi đua.
6.4.2.3. Tổ chức thi đua, khen thưởng.
Số điểm của các nhóm được ghi lại sau mỗi ngày và cuối tuần trong tiết
sinh hoạt lớp thì kết điểm cả tuần để trao hoa danh dự cho tổ đạt điểm cao
nhất. Khuyến khích động viên các nhóm còn lại. Cuối tháng thì kết điểm thi
đua theo tháng. Các bạn trong nhóm luôn có sự thi đua, cố gắng để cùng nhau
hoàn thành các nhiệm vụ học tập, để cùng nhau tiến bộ.
7. Kết quả đạt được
Trong thời gian chủ nhiệm lớp 2B,thực hiện tốt kế hoạch không ngừng nâng
cao chất lượng học tập trong mỗi giáo viên và học sinh tôi đã áp dụng kinh
nghiệm này vào nội dung giảng dạy Toán trên lớp từng ngày.Qua học kì I vừa
qua tôi nhận thấy kết quả hết sức khả quan như sau:
Đầu năm
Cuối Kì I
GL: 8
K: 12
TB: 5
Y: 43
G: 20
K: 7
TB: 0
Y: 1
28,6%
42,9%
17,8%
10,7%
71.4%
25.0%
0%
3.6%
-Trên đây là bảng kết quả được tính dựa trên kết quả của bài kiểm tra chất
lượng đầu năm và bài kiểm tra chất lượng cuối kì I trong năm học 2016-2017
vừa qua, tôi nhận thấy chất lượng vượt bậc của học sinh.Đó cũng chính là tính
khả quan của sáng kiến kinh nghiệm này mà tôi đã nêu trên đây.100% số học
sinh đạt bài kiểm tra trên trung bình và học sinh giỏi ở môn Toán khá cao đó
cũng nhờ một phần lớn các em nắm bắt được kĩ năng giải Toán có lời văn do
giáo viên khắc sâu được kiến thức bài dạy trên lớp.
Qua quá trình giảng dạy và thực hiện giải pháp này với lớp 2 tôi chủ nhiệm,
tôi thấy các em đã làm quen với phương pháp học mới và đã đi vào nề nếp
học tập. Trong tiết học tôi thấy nhẹ nhàng hơn, tất cả các đối tượng học sinh
trong lớp đã biết trình bày hoàn chỉnh bài toàn có lời văn. Nhiều em học khá
giỏi có câu trả lời sáng tạo phù hợp với yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng.
8. Bài học kinh nghiệm.
- Để thực hiện biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn hiệu
quả, đối với bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm phải luôn tận tâm, nhiệt tình,
yêu thương và luôn giúp đỡ học sinh.
- Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức
như: trò chơi, câu đố, thực hiện tốt phần khởi động tiết học.
- Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng trong
việc giải bài toán có lời văn.
- Xây dựng nề nếp học tập ngay từ ban đầu, phân loại đối tượng học sinh
để có kế hoạch bồi dưỡng, rèn cho học sinh. Thành viên trong mỗi nhóm phải
có sự thay đổi, không cho các em ở mãi trong một nhóm.
- Phối hợp tốt với giáo viên bộ môn, cha mẹ học sinh để giúp đỡ học sinh
phát triển một cách toàn diện.
- Tăng cường việc rèn tiếng Việt cho học sinh lớp 2, nhất là giai đoạn
đầu học kì I.
9. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng.
Đây là kinh nghiệm “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 giải bài toán
có lời văn theo mô hình trường học mới” bản thân tôi sẽ tiếp tục áp dụng giải
pháp này trong năm học tiếp theo.
- Việc thưc hiện đề tài không tốn kém về kinh tế, dễ đầu tư, dễ triển khai
vào các lớp 2. Không chỉ những trường đang dạy theo Mô hình trường học
mới VN mà mà các trường khác ngoài Mô hình vẫn áp dụng được.
- Không tốn kém nhiều về thời gian của các hoạt động khác.Song muốn
đạt được chất lượng cao thì đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình,có trách
nhiệm với học sinh, kiên trì trong công tác giảng dạy…
- Qua cách học này phát huy được tính chủ động của từng cá nhân, sự tự
quản của học sinh khi tham gia vào hoạt động học tậ
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Quá trình giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn thành thạo là một quá
trình rất khó khăn đối với giáo viên và là một đòi hỏi thiết thực trong nhà
trường hiện nay Khi mà dạy học theo mô hình mới đòi hỏi các em tự lập, tự
học, tự sáng tạo khi mà rất nhiều em khi giải toán có lời văn chưa biết cách
giải hoặc giải sai nhiều. Khi mà học sinh còn quá nhỏ tuổi bởi vậy các em
chưa có ý thức cao trong học tập hơn nữa khả năng đọc viết còn chậm nói
riêng khả năng tư duy nói chung của các em còn nhiều hạn chế do đó đòi hỏi
người giáo viên khi dạy phải tận tuỵ với công việc mới tìm ra được những
giải pháp kịp thời giúp các em khắc phục được những khó khăn ấy. Bản thân
tôi cũng rất tâm đắc với việc tìm ra một vài biện pháp để giúp các em giải
toán có lời văn. Chính điều ấy mà tôi đã giúp được học sinh của mình, đặc
biệt là những em yếu bước đầu đã hoàn thành tốt các bài toán có lời văn.
2. Khuyến nghị
Để việc làm trên đạt hiệu quả cao khi áp dụng thì điều cần thiết và không
thể xem nhẹ là giáo viên cho các em trong nhóm thực hiện tốt phần hoạt động
cơ bản từ đó mới phát triển được tư duy suy luận của các em để phần hoạt
động các em mới nắm chắc bài và làm bài tốt hơn. Để rèn kĩ năng giải toán có
lời văn ở lớp ở 2 thì trong quá trình giảng dạy giải toán nên kết hợp và lựa
chọn các phương pháp dạy tốt, cần đặt ra các tình huống để các em suy nghĩ,
tìm tòi cách giải. Một điều không kém phần quan trọng nữa là người giáo
viên khi đứng lớp phải có lòng tận
tình, say mê với nghề nghiệp, làm hết lương tâm, trách nhiệm của người thầy.
Qua một tiết dạy Toán trên lớp phải nắm bắt được những cái gì học sinh làm
được và những điều gì học sinh còn vướng mắc , khó khăn để từ đó người
giáo viên nghiên cứu và tìm ra được hướng giải quyết tốt hơn cho tiết học
Toán sau.
Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải các bài toán có lời
văn. Tôi đã áp dụng vào lớp học nhằm nâng cao chất lượng học toán ở lớp 2
tôi chủ nhiệm. Bước đầu đem lại kết quả tốt rất khả quan. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót.Rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các đồng chí,bạn bè đồng nghiệp. đẻ bản sáng kiến của
tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
Trang 1
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Trang 2
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Trang 4
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trang 4
2.Cơ sở lí luận
Trang 5
3.Thực trạng của vấn đề
Trang 5
4. Phạm vi đề tài
Trang 7
5. Thuận lợi - khó khăn
Trang 8
6. Giải pháp, biện pháp thực hiện
Trang 8
7. Kết quả đạt được
Trang 19
8. Bài học kinh nghiệm
Trang 20
9. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Trang 21
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Trang 22
1. Kết luận
Trang 22
2. Khuyến nghị
Trang 22
PHỤ LỤC
GIÁO ÁN MINH HỌA 1
Bài 8: Bài toán về nhiều hơn (Tiết 2)
(Dạy theo sách Hướng dẫn học Toán 2- Tập 1A - Trang 29, 30)
GIÁO ÁN MINH HỌA 2
Bài 66: Luyện tập
(Dạy theo sách Hướng dẫn học Toán 2- Tập 2A - Trang 52, 53)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1/ 100 câu hỏi và đáp về việc dạy Toán ở Tiểu học ( Phạm Đình Thục- Nhà
xuất bản Giáo Dục)
2/ Phương pháp giải Toán ở Tiểu học
3/ Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học ( Nhà xuất Giáo Dục năm 2000)
4/ Các bài toán có phương pháp giải điển hình tập 1, 2, 3 ( Đỗ Như Thiên
xuất bản năm 2006)
5/ Sách Hướng dẫn học Toán 2 ( Sách thử nghiệm)