Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tieu luận tuyệt hay năm 2017 không thể bỏ qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.05 KB, 24 trang )

i

Mục Lục


LỜI NÓI ĐẦU

Khi nói đến các tư tưởng về quản lý xã hội của phương Đông chúng ta sẽ
thiếu sót lớn nếu không đề cập đến Khổng Tử với tư tưởng đức trị và Hàn Phi
Tử với tư tưởng pháp trị. Trong xã hội của chúng ta hiện nay có nhiều công cụ
khác nhau để điều chỉnh hành vi con người, trong đó, pháp luật và đạo đức là
những công cụ chủ đạo. Bên cạnh những ưu thế vốn có, cả pháp luật và đạo
đức đều có những hạn chế nhất định, song giữa chúng luôn có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Do đó, để quản lý xã hội một
cách có hiệu quả, cần phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa đạo đức và pháp
luật.
Tuy nhiên, trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay, vị trí, vai trò của pháp
trị dựa vào pháp luật và đức trị dựa vào đạo đức cũng như mối quan hệ giữa
chúng nhìn chung chưa được nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ cả từ phía
nhà nước, cả từ phía xã hội. Một phần nguyên nhân là do ảnh hưởng của cơ chế
kinh tế cũ, làm cho nhận thức về pháp luật bị chia thành hai khuynh hướng. Đó
là, một mặt quá đề cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ vạn năng có thể xác
lập hay xóa bỏ một quan hệ xã hội nào đó một cách duy ý chí, trong một thời
gian dài trước đây, do nhận thức ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa xã hội, nên đã
không thấy hết được vai trò, giá trị to lớn của truyền thống, đạo đức, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí nhiều quan niệm đạo đức truyền thống của
dân tộc còn bị coi là tàn dư của chế độ cũ cần phải loại bỏ. Mặt khác thì hạ
thấp vai trò của pháp luật, dẫn đến sử dụng mệnh lệnh hành chính, các quan
niệm đạo đức mới như tinh thần làm chủ tập thể, mỗi người vì mọi người... để
thay thế cho pháp luật. Lối suy nghĩ, tư duy và hành động đó còn ảnh hưởng
không nhỏ trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay. Điều này dẫn đến, trong


thực tiễn, việc sử dụng pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội nói chung,
quản lý kinh tế nói riêng còn nhiều hạn chế, những ưu thế vốn có của pháp luật
cũng như đạo đức không được phát huy hết, bên cạnh đó, sự tác động bổ sung
cho nhau giữa chúng cũng không khai thác được. Cho nên, hiệu quả điều chỉnh


các quan hệ xã hội của cả pháp luật và đạo đức đều chưa cao.
Sau hơn hai mươi năm tiến hành công cuộc cải cách, xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống xã hội đã có sự phát triển
vượt bậc. Tuy nhiên, cùng với nó, mặt trái của nền kinh tế thị trường và việc
hợp tác, hội nhập quốc tế cũng gây ra không ít phức tạp, đó là sự coi thường
các giá trị truyền thống, lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ, chạy theo đồng tiền,
đặt vật chất, tiền bạc lên trên hết, tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi cách… Sự
xuống cấp của đạo đức xã hội đã gây ra những hệ lụy to lớn, làm đảo lộn các
giá trị của cuộc sống, cản trở sự phát triển của xã hội, làm xã hội vận động,
phát triển một cách không lành mạnh, thiếu vững chắc.
Tất cả những phân tích trên đây cho thấy, chúng ta cần phải nghiên cứu một
cách sâu sắc, toàn diện mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đặc biệt là mối
quan hệ giữa chúng trong công cuộc đổi mới đất nươc hiện nay. Trong bài viết
này, tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử sẽ được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng.
Qua đó, tác giả sẽ đem đến cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về nguồn gốc
hình thành và phát triển của tư tưởng pháp trị cũng như những nội dung cốt lõi
của nó. Bên cạnh đó, với những hiểu biết về tư tưởng đức trị của Khổng Tử 1, tác
giả sẽ trình bài những kết hợp giữa hai tư tưởng trên trong việc quản lý nhà nước
nói chung và quản lý kinh tế nói riêng.
Trong đề tài này, tác giả đã cố gắng hết sức để trình bày một cách rõ ràng và
đầy đủ nhất về nội dung nghiên cứu. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ của tác
giả có hạn, nên khó tránh khỏi những sai sót, khuyết điểm. Tác giả rất cảm kích
những đóng góp chân thành của người đọc để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.


1

Xem phụ lục


Xin chân thành cảm ơn.
Chương 1: Những nội dung cơ bản của thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử

1.1 Hoàn cảnh lịch sử ra đời của thuyết pháp trị
Lịch sử Trung Hoa cỗ đại có hai thời kì được nói dến nhiều nhất: Xuân thu và
Chiến quốc. Thời Xuân thu (770-403 TCN) là thời kì suy tàn của nhà Chu, đây
chính là thời kì sinh sống của Lão Tử, Khổng Tử (551-479 TCN).
Thời chiến quốc (403-221 TCN) từ gần cuối đời Uy Liệt Vương, tới khi nhà Tần
diệt nhà Tề thống nhất đất nước, đó là thời kì sinh sống của Hàn Phi Tử ( 280-233
TCN).
So với thời Xuân thu thì Chiến quốc loạn lạc và bất ổn định hơn về chính trị,
nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân thu công cụ sản xuất và khí
giới chủ yếu bằng đồng. Sắt bắt đầu được sử dụng vào cuối thời kì này và trở nên
thông dụng vào thời Chiến quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng đất đai nông nghiệp
tăng năng suất lao động. Đây là thời kì đạo đức suy đồi, người ta chỉ tìm mọi cách
để tranh lợi. Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa, trụy lạc; chiến tranh kéo dài liên
miên khiến đời sống của nhân dân càng thêm khổ cực. Trước tình cảnh xã hội như
vậy, tầng lớp quý tộc và tầng lớp tri thức có sự chia rẽ về tư tưởng một cách rất sâu
sắc. Trong các luồng tư tương thời kì đó thì pháp trị của các Pháp gia mà tiêu biểu
là Hàn Phi Tử nổi lên như một tư tưởng tiến bộ và phụ hợp với thực tế quản lí xã
hội lúc bấy giờ nhất.
1.2 Lịch sử hình thành và pháp triển của Pháp gia
Học thuyết pháp trị của phái pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi các tác giả xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử. Để hiểu một cách tương đối có hệ thống về

đường lối trị nước của phái Pháp gia ta cần phải tìm hiểu tư tưởng cơ bản của các
nhà pháp trị đã nêu trên cũng như những luận chứng khá thuyết phục về sự cần thiết
của đường lối pháp trị.
Quản Trọng (thế kỷ VI TCN) là người nước Tề, vốn xuất thân từ giới bình dân
nhưng rất có tài chính trị, được coi là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật


như là phương cách trị nước. Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong
bộ Quản Tử, bao gồm 4 điểm chủ yếu sau: Một là, mục đích trị quốc là làm cho phú
quốc binh cường. Hai là, muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển
nông, công thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội như : tội
nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng
một cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì
tha hẳn; còn hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì bắt nộp
mỗi bên một bó tên rồi xử hòa. Ba là, chủ trương phép trị nước phải đề cao "Luật,
hình, lệnh, chính". Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân
biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để
sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Bốn là, trong khi đề cao luật pháp, cần chú
trọng đến đạo đức, lễ, nghĩa, liêm... trong phép trị nước. Như vậy có thể thấy rằng
Quản Trọng chính là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia
với Pháp gia.
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước Trịnh
chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra chủ
trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước. Thân
Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được lộ ra
cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay ghét
mình... bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà vua.
Một đại biểu nữa của phái Pháp gia thời kỳ này là Thận Đáo (370-290 TCN), ông
là người nước Triệu và chịu ảnh hưởng một số tư tưởng triết học về đạo của Lão
Tử, nhưng về chính trị ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng pháp luật. Thận

Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật "vô vi" và điều đó loại trừ thiên
kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là một tư tưởng khá
tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện. Trong phép trị nước, đặc biệt
Thận Đáo đề cao vai trò của "Thế".
Cùng thời với Thận Đáo, có một người cũng nêu cao tư tưởng Pháp trị, đó là
Thương Ưởng. Ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật hành chính và kinh


tế làm cho nước Tần trở nên hùng mạnh. Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao
"pháp" theo nguyên tắc "Dĩ hình khử hình" (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạm).
Theo ông pháp luật phải nghiêm và ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới
đều phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt cho thật nặng. Trong chính sách thực
tiễn, Thương Ưởng chủ trương: Tổ chức liên gia và cáo gian lẫn nhau, khuyến
khích khai hoang, cày cấy, nuôi tằm, dệt lụa, thưởng người có công, phạt người
phạm tội. Đối với quý tộc mà không có công thì sẽ hạ xuống làm người thường dân.
Ông cũng là người đã thực hiện cải cách luật pháp, thi hành một thứ thuế thống
nhất, dụng cụ đo lường thống nhất... nhờ đó chỉ sau một thời gian ngắn, nước Tần
đã mạnh hẳn lên và lần lượt thôn tính được nhiều nước khác.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi Tử, người có công tổng kết và hoàn thiện tư
tưởng trị nước của Pháp gia. Trước hết Hàn Phi Tử đề cao vai trò của pháp trị. Theo
ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo
đức" của Nho gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa
mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi Tử đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông
cho rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì
mỗi xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai
trị vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống
chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng
pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc
bấy giờ.
1.3 Nội dung tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử

Thuyết pháp Hàn Phi Tử hình thành trên ba cơ sở, đó là:
-

Một là, thừa nhận sự tồn tại của Lý- tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông
yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biên hóa mà hành
động cho phù hợp.

-

Hai là thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do không có xã hội nào bất
di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, người


thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào các đặc
điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước
sao cho thích hợp. Ông cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn
đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên
hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
-

Ba là, thừa nhận bản tính của con người là ác: Do bản tính của con người là
ác và do trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên
muốn xã hội bình yên, không nên trông chở vào số ít, mong họ làm việc
thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác (thực hiện pháp trị).

Nếu như Thận Đáo đề cao "Thế", Thân Bất Hại đề cao "Thuật", Thương
Ưởng đề cao "Pháp" trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi
trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố

thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong
sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng
luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương
pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ
của bậc đế vương. Trước hết nói về "Pháp", trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại,
"Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp"
là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp "Pháp"
là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Nội
dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi Tử là thưởng và phạt và ông gọi đó là
hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê Thương Ưởng chỉ
biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực hiện toàn diện
cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt.
Điều đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn
đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự
trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh
giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" để cứu


loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu,
đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ
côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo
vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù. Với nội dung và mục đích như trên
"Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt,
xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy
pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi
hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" không chỉ là địa vị, quyền
hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch

sử). Để nâng cao thế của nhà vua, Pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi
thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng.
Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn... trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật
được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của
"Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những
quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai
lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và
chế độ chuyên chế. "Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa
ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh",
"Thực danh". Chẳng hạn một người hứa đến thăm ta thì lời hứa đó là "Danh" còn
hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì
chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và "thực") hợp nhau, "danh" và "thực" hợp
nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực" không hợp nhau là trái, là không
"chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một cách nghiêm minh. "Thuật"
phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch


thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh
giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội đều nhất nhất phải làm
tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay làm quá danh phận
đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết dùng "Thuật".
Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở trên, tư tưởng Pháp gia còn
hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính
các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ
lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát

triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi Tử đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp
gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị
thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc
bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần
ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc
cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm
dài chiến tranh khốc liệt. Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh đến biện pháp
trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục… là đi
ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, do thực hành
triệt để pháp trị mà nhà Tần đã thống nhất được đất nước và cũng do thực hành triệt
để pháp trị mà nhà Tần mất nước. Từ thời Hán về sau, dù Pháp gia không được
chính thức công nhận, nhưng những tư tưởng có giá trị của phái này đã được các
học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh quan điểm của mình.


Chương 2: Kết hợp giữa pháp trị và đức trị trong công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay
2.1 Kết hợp pháp trị và đức trị trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay
Thực tế đã cho thấy sự cần thiết, tất yếu phải kết hợp giữa pháp luật với đạo
đức trong điều chỉnh hành vi con người, quản lý xã hội, đặc biệt trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Để đạt được mục tiêu này,
chúng ta cần quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản sau đây:
Một là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải được quán triệt cả trong hoạt
động xây dựng, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật2.
Trước hết, mỗi chúng ta phải có nhận thức đúng đắn, phải thực sự thấy được ý
nghĩa to lớn của đạo đức trong quản lý xã hội. Xuất phát từ nhận thức đó, cơ quan
xây dựng pháp luật phải chú trọng quán triệt các quan niệm, quan điểm, quy tắc
đạo đức trong quá trình xây dựng các qui định của pháp luật: xây dựng pháp luật

phải trên nền tảng đạo đức; không được ban hành những qui định trái đạo đức; ghi
nhận, thể chế hóa những quan điểm, chuẩn mực đạo đức thành pháp luật; qui
định các biện pháp pháp lý nhằm bảo đảm cho những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp
được thực hiện cũng như loại trừ những quan niệm, chuẩn mực đạo đức lạc hậu
khỏi đời sống xã hội...
Thứ hai, cơ quan thực thi pháp luật, trong quá trình thực thi pháp luật, phải
luôn chú trọng kết hợp yếu tố đạo đức: phải chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục để toàn xã hội có sự nhận thức đúng đắn về vai trò của pháp luật và
đạo đức trong quản lý xã hội; tiến hành đồng bộ các biện pháp nhằm giáo dục pháp
luật, đạo đức một cách sâu rộng trong nhân dân nhằm trang bị cho họ tri thức
pháp luật, đạo đức, khơi dậy ở họ thái độ tôn trọng pháp luật, tình cảm đạo đức
trong sáng; làm hình thành ở họ thói quen xử sự theo pháp luật đồng thời vẫn
luôn coi trọng các chuẩn mực đạo đức… Trong hoạt động áp dụng pháp luật cần
hết sức coi trọng việc giáo dục, thuyết phục, kể cả trong khi áp dụng các biện
2

TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận án
tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 156.


pháp cưỡng chế nhà nước vẫn phải hết sức chú trọng công tác giáo dục ý thức
pháp luật, đạo đức cho đối tượng bị áp dụng pháp luật.
Trong ứng xử hàng ngày của mình, mọi thành viên trong xã hội luôn phải đề
cao vấn đề kết hợp pháp luật với đạo đức. Phải làm cho các giá trị đạo đức thẩm
thấu vào mọi hành vi pháp luật của chủ thể. Tuy nhiên, cần hết sức phân biệt sự
kết hợp với sự thay thế lẫn nhau giữa pháp luật với đạo đức. Đối với những quan
hệ xã hội đã được pháp luật điều chỉnh, tuyệt đối không thể dùng đạo đức để thay
thế, không thể để yếu tố tình cảm lấn át yếu tố ý chí, không thể vì nể nang, vì sợ
mất tình cảm mà dùng chữ “tín” của đạo đức để thay thế cho các qui định của
pháp luật. Ở đây, cần thực hiện đúng phương châm “mất lòng trước, được lòng

sau”, có lý trước, có tình sau, tình cảm cũng phải đặt trong giới hạn của luật pháp.
Hai là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân3.
Công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã và đang thu được
những thành tựu khá quan trọng. Một trong những mục tiêu của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm, bảo vệ
các quyền, các giá trị con người; xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức chính là nhằm xây dựng một hệ
thống pháp luật dân chủ, phù hợp với các giá trị chân, thiện, mỹ, bảo đảm, bảo
vệ các quyền, các giá trị con người. Đồng thời, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo
đức cũng là làm cho các giá trị đạo đức thẩm thấu vào trong các qui định của pháp
luật, làm cho lương tâm, tình cảm con người trở thành động lực thúc đẩy việc
thực hiện pháp luật. Nói cách khác, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức
chính là nhằm làm cho pháp luật và đạo đức trở nên thống nhất với nhau, hòa
quyện vào nhau, trở thành tiền để của nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Như vậy,
việc kết hợp giữa pháp luật trở thành động lực thúc đẩy việc xây dựng nhà nước
pháp quyền, làm cho quá trình này diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn, về đích sớm
3

TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận án
tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 154.


hơn.
Ba là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm xây dựng nền tảng pháp lý
vững chắc cho việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của
dân tộc4.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường, hợp tác và hội nhập quốc tế,
các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam đang đứng trước những thách thức

vô cùng gay gắt. Bởi vậy, việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức phải đảm bảo
một mặt nhằm giữ gìn, bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, mặt khác nhằm
loại trừ những quan niệm, qui tắc đạo đức lạc hậu, phản tiến bộ, trái thuần phong,
mỹ tục của dân tộc, ngăn chặn sự thoái hóa, xuống cấp của đạo đức. Tuy nhiên,
cần lưu ý là việc giữ gìn các giá trị truyền thống là nhằm tạo điều kiện cho kinh
tế xã hội phát triển. Nói cách khác, giữ gìn các giá trị truyền thống là để phục vụ
phát triển chứ không được cản trở phát triển. Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo
đức nhằm xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến nhưng đậm đà bản sắc
dân tộc; xây dựng bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn người Việt, nhất là đối với thế hệ
trẻ, những người ít chịu ảnh hưởng bởi truyền thống, đang có xu hướng xa dần
truyền thống.
Bốn là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải phục vụ quá trình hợp tác,
hội nhập quốc tế5.
Việc kết hợp giữa pháp luật với đạo đức nhằm tạo lập nền tảng văn hóa vững
chắc cho hợp tác, hội nhập quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, khi công cuộc hợp
tác, hội nhập quốc tế càng được mở rộng và đẩy mạnh thì cùng với những yếu tố có
ích du nhập vào trong nước, những yếu tố bất lợi cũng tràn vào. Có thể nói, cùng
với nhịp độ tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học kĩ
thuật…, các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức, tôn giáo, văn hóa, nghệ
thuật, lối sống… bên ngoài cũng đồng loạt tràn vào nước ta một cách mạnh mẽ,
trong đó có cả những yếu tố tích cực, cả những yếu tố tiêu cực, trái thuần phong mỹ
41,

2
TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận
án tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 155.
5


tục, trái đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Do vậy, việc kết hợp giữa pháp

luật với đạo đức chính là nhằm tạo ra một màng lọc tốt nhất cho việc tiếp thu những
cái mới, có lợi, có ích cho sự phát triển đất nước, ngăn chặn có có hiệu quả sự tác
động của những yếu tố tiêu cực, độc hại bên ngoài ảnh hưởng đến truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tạo lập nền tảng văn hóa vững chắc đảm bảo cho quá trình hợp tác,
hội nhập thành công.
Năm là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức cần đặt trong việc đổi mới hệ thống
công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội6.
Trong thực tế xã hội, để điều chỉnh hành vi con người, chúng ta có nhiều công
cụ khác nhau, bao gồm đạo đức, pháp luật, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo
(giáo lý, giáo luật), nội qui, kỷ luật của các cơ quan, tổ chức, lệ làng, hương ước…
(gọi chung là hệ thống thể chế xã hội). Giữa các loại thể chế xã hội vừa có sự
thống nhất, vừa có sự khác biệt và vừa có sự tác động qua lại lẫn nhau. Chính vì
vậy, việc kết hợp giữa pháp luật và đạo đức không thể tiến hành một cách riêng rẽ,
mà cần đặt trong bối cảnh chung đổi mới toàn bộ hệ thống thể chế xã hội. Như
phần trên đã chỉ rõ, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo có ảnh hưởng khá
mạnh mẽ đến bản pháp luật, đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng. Do vậy,
cùng với việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức không thể
không tính đến những yếu tố này. Một mặt cần có giải pháp loại bỏ những tập
quán cổ hủ, lạc hậu còn tồn tại ở nhiều địa phương, mặt khác cần chú trọng duy trì
và phát huy những giá trị của luật tục, nhất là đối với cộng đồng các dân tộc
thiểu số. Tìm hiểu những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc để lồng ghép
chúng vào nội dung của các quy định pháp luật.
Sáu là, việc kết hợp pháp luật và đạo đức phải nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu
có hiệu quả vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức7.
Có thể nói, tình hình vi phạm pháp luật gia tăng trong xã hội là một trong
những cản trở to lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta
61,

TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận án
tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 156.

7
TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận án
tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2012, trang 157.


hiện nay. Như đã đề cập, một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này
là sự suy thoái, xuống cấp của đạo đức xã hội. Chính vì vậy, trong công cuộc
đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật phải hết sức coi trọng kết hợp pháp
luật và đạo đức. Một mặt, nhà nước và toàn xã hội phải thực sự thấm nhuần sâu
sắc vai trò của pháp luật và đạo đức trong xã hội, các qui định của pháp luật về vi
phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo
đức, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Mặt khác, phải luôn coi trọng công tác
giáo dục nâng cao đạo đức cho các thành viên trong xã hội, giáo dục trách nhiệm
của con người trước đồng loại trong việc khuyến thiện, trừ ác.
2.2 Kết hợp pháp trị và đức trị trong quản lý doanh nghiệp
Đường lối đức trị trong quản lý, chủ yếu là dựa vào xây dựng quan niệm giá
trị chung của mọi người, dựa vào quyền lực phi chính thức của bản thân người
lãnh đạo như phẩm chất đạo đức, tài năng, tình cảm..., dẫn dắt mọi người hoàn
thiện cuộc sống tinh thần và tu dưỡng đạo đức, trên cơ sở đó, thực hiện khống
chế bên trong của hành vi, khiến cho hành vi của mọi người tự giác đảm bảo
nhất trí với mục tiêu tổ chức.
Những mặt hại và mặt lợi của quản lý đức trị, hầu như ngược lại với quản lý
pháp trị, ưu điểm, khuyết điểm trái ngược nhau. Pháp trị dựa vào sức răn đe,
luôn luôn có hiệu quả ngay. Đức trị dựa vào giáo hoá, dựa vào tư tưởng để giải
quyết vấn đề. Như vậy, hiệu quả sẽ nhìn thấy chậm. Nhất là hình thành đạo
đức nếp sống lí tưởng, xây dựng quan niệm giá trị chung thì mất thời gian,
quyết không thể một sớm một chiều. Do vậy, dùng nó để ngăn cấm ác, giảm lan
truyền cái xấu thì tỏ ra lực bất tòng tâm. Nhất là trong khi quản lý xuất hiện
hỗn loạn, đòi hỏi dẹp loạn để xây dựng lại trật tự, làm cho tổ chức nhanh chóng
từ không nề nếp chuyển biến thành có nề nếp thì đức trị tỏ ra mềm yếu đuối

sức. Nhưng sau khi một loại tư tưởng, một loại quan niệm giá trị được mọi
người tiếp nhận, thì thời gian phát huy tác dụng của nó tương đối dài, thậm chí
là rất sâu xa. Điểm này quản lý pháp trị không sao bì kịp. Do vậy, có thể nói
pháp trị theo đuổi là hiệu quả thời gian ngắn, đức trị theo đổi là hiệu quả thời


gian dài. Pháp trị là quản lý tính chiến thuật, đức trị là quản lý tính chiến lược.
Như vậy, chức năng của quản lý đức trị dựa vào giáo hoá để hình thành sự
khống chế bên trong của mọi người. Cũng tức là biến mục tiêu, tôn chỉ, quan
niệm giá trị của doanh nghiệp thành mục tiêu, tôn chỉ quan niệm giá trị của bản
thân toàn thể thành viên. Còn chức năng của pháp trị là dựa vào các quy định cụ
thể để điều chỉnh các hành vi trong ngắn hạn, góp phần giúp cho tổ chức kiểm soát
được hầu hết những vấn đề phát sinh.
Những phân tích ở trên cho thấy rằng, trong thực tiễn quản lý, hai đường lối
quản lý đức trị và pháp trị phải có đủ cả và đư ợc kết hợp sử dụng một cách
khôn khéo và phù hợp nhất. Nhà doanh nghiệp phải phát huy vai trò của đức
trị trong dài hạn thông qua việc giáo dục, định hướng cho tất cả thành
viên của doanh nghiệp, xây dựng một đội ngũ mạnh mẽ về chuyên môn,
và thấm nhuần giá trị cốt lõi của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nhà doanh
nghiệp phải xây dựng một hệ thống các quy tắc, quy định cụ thể chi phối,
điều chỉnh mọi hoạt động của doanh nghiệp. Điều này góp phần làm cho
hoạt động trong ngắn hạn của doanh nghiệp luôn được kiểm soát một cách
chủ động, tạo tiền đề để hướng tổ chức đến mục tiêu lâu dài. Tuy nhiên,
những quy tắc, quy định này phải phù hợp với truyền thống của công ty,
tập quán của địa phương, mang tính logic và tính nhân văn sâu sắc. Người
quản lý phải làm cho cấp dưới phục tùng bằng đức hạnh của mình, chứ
không phải bằng cách đưa ra những quy định cứng nhắc để chế tài, buộc
cấp dưới phải tuân theo. Khi xử lý những sai phạm phát sinh, ngoài những
quy định, nhà quản lý còn phải căn cứ vào hoàn cảnh khách quan và chủ
quan cụ thể của sự việc để đưa ra hướng giải quyết hợp với lòng người và

đúng với quy định. Có làm được những điều trên thì doanh nghiệp mới có
thể tồn tại và phát triển một cách bền vững được.

KẾT LUẬN


Qua những gì vừa phân tích chúng ta thấy rằng, việc kết hợp pháp trị và đức trị
để quản lý xã hội là một sự tất yếu. Để sử dụng pháp luật cũng như đạo đức một
cách có hiệu quả nhất trong quản lý xã hội nói chung, quản lý kinh tế nói riêng
trước hết đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về bản chất, vị trí, vai trò
cũng như những ưu điểm và hạn chế của mỗi yếu tố; chỉ rõ những điểm tương
đồng, khác biệt của chúng, đồng thời phải nhận thức được một cách sâu sắc sự tác
động qua lại, bổ sung cho nhau giữa chúng.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, pháp luật
giữ vị trí chủ đạo trong đời sống nhà nước và xã hội nhưng đạo đức vẫn không bị
coi nhẹ, giữa pháp luật với đạo đức có sự thống nhất hơn bao giờ hết, tuy nhiên,
ranh giới điều chỉnh giữa chúng càng được phân định rõ. Hai yếu tố này luôn
được kết hợp một cách chặt chẽ, hài hòa trong quản lý xã hội.
Để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất những khiếm
khuyết, tồn tại trong mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức ở nước ta, đảm bảo
kết hợp một cách chặt chẽ giữa pháp luật với đạo đức trong quản lý xã hội, đòi hỏi
chúng ta phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Trước hết, cần có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tác dụng của pháp luật,
đạo đức và mối quan hệ giữa chúng.
- Không ngừng củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chuẩn mực đạo
đức. Pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở của đạo đức, nhằm giữ gìn và
phát huy các giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
- Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, pháp luật trong gia đình, nhà trường, xã hội.
- Tổ chức tốt việc thực hiện pháp luật, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật,
chú trọng hơn nữa công tác hoà giải ở cơ sở.

- Nghiên cứu tiếp thu những kinh nghiệm trong lịch sử dân tộc cũng như của các
nước trên thế giới về xử lý mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nhằm phát
huy hiệu quả sử dụng từng công cụ cũng như sử dụng kết hợp hai công cụ đó
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội.
Phụ Lục


TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG TỬ
1. Khổng Tử - Nhà quản lý xuất sắc
Khổng Tử là một nhân vật lớn có ảnh hưởng tới diện mạo và sự phát triển của
một số dân tộc. Ở tổ quốc ông, Khổng học có lúc bị đánh giá là hệ tư tưởng bảo
thủ của (những người chịu trách nhiệm rất nhiều về sự trì trệ về mặt xã hội của
Trung Quốc”. Ở những nước khác trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapor... Khổng Giáo lại được xem xét như một nền tảng văn hoá tinh thần
tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá các quốc gia theo mô
hình xã hội “ổn định, kỷ cương và phát triển”.
Sự đánh giá về Khổng Tử rất khác nhau, trước hết là vì những mập mờ của lịch
sử. Ông sống cách chúng ta hơn 2 nghìn năm trăm năm và sau ông có rất nhiều
học trò, môn phái phát triển hệ tư tưởng nho giáo theo nhiều hướng khác nhau.
Có khi trái ngược với tư tưởng của thầy. Ở Trung Quốc vai trò của ông đã nhiều
lần thăng giáng theo quan điểm và xu hướng chính trị, song đến nay, ông vẫn lại
được đánh giá cao, UNESCO đã thừa nhận ông là một “danh nhân văn hoá thế
giới”.
Việc tách riêng từng khía cạnh trong cái tài năng đa dạng và thống nhất của ông
đã tìm ra một Khổng Tử là nhà tư tưởng lớn về Triết học, chính trị học, đạo
đức học và giáo dục học. Trong các lĩnh vực đó thật khó xác định đâu là đóng
góp lớn nhất của ông. Có thể nhận định rằng, tầm vóc của Khổng Tử lớn hơn
khía cạnh đó cộng lại, và sẽ là khiếm khuyết nếu không nghiên cứu ông như
một nhà quản lý.
Nếu thống nhất với quan niệm nhà quản lý là nhà lãnh đạo của một tổ chức, là

người “thực hiện công việc của mình thông qua những người khác thì Khổng Tử
đúng là người như vậy.
2. Khổng Tử - nhà tư tưởng quản lý của thuyết đức trị
Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối đời Xuân
Thu, đầy cảnh “đại loạn” và “vô đạo”, bản thân đã từng làm nhiều nghề “bỉ lậu”
rồi làm quan cai trị, Khổng Tử nhận thức được nhu cầu về hoà bình, ổn định, trật


tự và thịnh vượng của xã hội và mọi thành viên.
Khác với Trang Tử coi đời như mộng, kiếp người phù du chỉ cốt “toàn sinh”
cho bản thân, Khổng Tử là một người “nhập thể” và luôn trăn trở với chuyện
quản lý của xã hội theo cách tốt nhất. Song, ông không phải là một nhà cách
mạng từ dưới lên, ông chỉ muốn thực hiện những cải cách xã hội từ trên xuống,
bằng con đường “đức trị”.
Xã hội lý tưởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến có tôn
ti, trật tự. Từ Thiên Tử tới các chư hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình dân, ai có
phận nấy, đều có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau, giúp đỡ nhau,
nhất là hạng vua chúa, họ phải có bổn phận dưỡng dân- lo cho dân đủ ăn đủ
mặc, và bổn phận giáo dân bằng cách nêu gương và dậy lễ, nhạc, văn, đức, bất
đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở và hình mẫu, trọng
hiếu đễ, yêu trẻ, kính giá. Mọi người đều trọng tình cảm và công bằng, không có
người quá nghèo hoặc quá giàu; người giàu thì khiêm tốn, giữ lễ, người nghèo thì
“lạc đạo”.
Dù sao thì ý tưởng trên cũng được cả hai giai cấp bóc lột và bị bóc lột thời đó
dễ chấp nhận hơn, dễ thực hiện hơn so với hình mẫu xã hội vô chính phủ “ngu
si hưởng thái bình” của Lão Tử và mẫu “quốc cường quân tôn” bằng hình phạt
hà khắc và lạm dụng bạo lực của phái pháp gia.
Cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho các nhà cai trì lập lại trật tự
từ xã hội vô đạo chính là đạo Nho - đạo Nhân của Khổng Tử. Cho nên, dù có nói
về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề nhân sự

và mục đích của ông chính là xaay dựng một xã hội nhân bản.
2.1. Đạo nhân về quản lý
Với vũ trụ quan “thiên, địa, nhân - vạn vật nhất thể”, trời và người tương hợp,
Khổng Tử nhận thấy các sự vật của vạn vật tuân theo một quy luật khách quan mà
ông gọi là trời “mệnh trời”. Con người theo Nho học “là cái đức của trời, sự giao
hợp âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”. Con


người sinh ra đều có bản chất Người (đức - nhân) nhưng do trời phú khác nhau
về năng lực, tài năng và hoàn cảnh sống (môi trường) khác nhau cho nên đã trở
thành những nhân cách không giống nhau. Bằng sự học tập, tu dưỡng không
ngừng, con người dần dần hoàn thiện bản chất người của mình - trở thành người
Nhân. Và những người hiền này có xứ mệnh giáo hoá xã hội, thực hiện nhân
hoá mọi tầng lớp. Nhờ vậy, xã hội trở nên có nhân nghĩa và thịnh trị. Học
thuyết Nhân trị của Khổng Tử cũng là một học thuyết quản lý xã hội nhằm phát
triển những phẩm chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo - cai trị họ theo nguyên
tắc đức trị: người trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo.
- Về đạo Nhân: “Nhân là yêu người” (Nhân là ái nhân). Nhân là giúp đỡ người
khác thành công “Người thân, mình muốn thành công thì cũng giúp người khác
thành công, đó là phương pháp thực hành của người nhân”. Nhưng Khổng Tử
không nói đến tính nhân chung chung ông coi nó như đức tính cơ bản của nhà
quản lý. Nói cách khác, người có nhân luôn tìm mọi cách đủ thu lợi về mình,
nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý (trong quan hệ nhà quản lý với
đối tượng bị quản lý) vưà là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý. Khổng
Tử nâng tư tưởng nhân lên thành đạo (nguyên tắc sống chung cho xã hội) vì là
một nhà tư tưởng quản lý sâu sắc, ông thấy đó là nguyên tắc chung gắn kết giữa
chủ thể và khách thể quản lý đạt hiệu quả xã hội cao: “người quân tử học đạo thì
yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến” (Dương hoá).
- Nhân và lễ: Nhân có thể đạt được qua Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân,
thiếu Nhân thì Lễ chỉ là hình thức giả dối: “Người không có đức Nhân thì Lễ

mà làm chi”.
- Nhân và Nghĩa: Đúng lễ cũng là làm đúng nghĩa rồi. Nhân gắn liền với Nghĩa
vì theo Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không mưu tính lợi của cá
nhân mình. “Cách xử sự của người quân tử, không nhất định phải như vậy mới
được, không nhất định như kia là được, cứ hợp nghĩa thì làm”, làm hết mình
không thành thì thôi.


Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của chúa Giê su
và Đức phật. Nhưng ông khác 2 vị kia ở chỗ, trong tình cảm, có sự phân biệt
tuỳ theo các mối quan hệ: trước hết là ruột thịt, sau đến thân, quen và xa hơn là
người ngoài.
- Nhân và Trí: Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách
giúp người mà không làm hại cho người, cho mình: “Trí giả lợi Nhân”. Rõ ràng là
người Nhân không phải là người ngu, không được để cho kẻ xấu lạm dụng lòng
tốt của mình. Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới khả năng hiểu người, dùng người của họ.
Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét.
- Nhân và Dũng: Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hy sinh cả bản thân
mình vì nghĩa lớn. Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tê, thà chết đói chứ không thèm
cộng tác với kẻ bất nhân, là người Nhân. Khổng Tử rất ghét những kẻ hữu
Dũng bất Nhân, vì họ là nguyên nhân của loạn.
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời. Nhân - Trí - Dũng là những
phẩm chất cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà quản lý- cai trị.
Tư tưởng đó của Khổng Tử được Hồ Chsi Minh kế thừa có chọn lọc và nó vẫn
còn ảnh hưởng đối với sụ phát triển của xã hội hiện nay. Khổng Tử cũng mong
phú quý, nhưng ông chỉ thừa nhận nó trở thành ích lợi cho xã hội khi nó “không
trái với đạo lý” và phải đạt được bằng những phương tiện thích đáng. Khổng Tử
khuyên các nhà cai trị không nên chỉ dựa vào lợi để ra quyết định quản lý:
“nương tựa vào điều lợi mà làm hay là sinh ra nhiều điều oán” (Lý nhân, IV).
Ông biết họ có nhiều ưu thế để tranh lợi với cấp dưới và những người lao động

luôn phải chịu mức sống thấp hơn, cho nên, điều quan trọng đối với nhà quản
lý là phải nghiêm khắc với mình, rộng lượng với người và lo trước nỗi lo của
thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ như vậy xã hội mới có cái lợi dài lâu
là môi trường chính trị - xã hội ổn định, các giai cấp hợp tác cùng làm ăn vì mục
tiêu chung: kinh tế thịnh vượng, tinh thần tốt đẹp.


Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc phục được tư dục”, không nên cầu
lộc cho cá nhân mình, cứ chuyên tâm làm tốt công việc thì “bổng lộc tự khắc
đến”. Làm cho dân giàu là mục tiêu đầu tiên, cơ bản của nhà quản lý”: đối với
những người nông dân nghèo khổ đương thời, Khổng Tử biết lợi ích kinh tế là
nhu cầu thiết yếu của họ, nên ông biết đạo Nhân sẽ khó thực hiện được khi
quần chúng còn nghèo khổ: “Nghèo mà không oán là khó, giàu mà không kiêu
là dễ” (Hiếu Vấn). Khổng Tử sang nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe, Khổng Tử nói:
“Dân đông thay”, Nhiễm Hữu hỏi: “Đã đông rồi làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử
nói: “ Làm cho dân giàu”, Nhiễm Hữu hỏi: “ Đã giàu rồi, lại làm gì hơn nữa?”,
Khổng Tử nói: “Giáo dục họ”. Tư tưởng “làm cho dân giàu”, “tiên phú, hậu
giáo” là tư tưởng duy vật của Khổng Tử, được các học giả của Nho gia và Mắc
gia sau này phát triển thêm. Nhưng những giá trị tư tưởng của Khổng Tử để
lại cho hậu thế đã không bị mai một theo thời gian. Ngày nay, hệ thống học
thuyết của Khổng Tử đã trở nên lạc hậu, trước hết là phần nội dung liên quan tới
vấn đề thế giới quan, song nhiều triết lý của ông về đạo đức - đạo lý, giáo dục,
cai trị - quản lý con người và xã hội... vẫn là những nguyên tắc và triết học chỉ
đạo một số hoạt động. Ví dụ như:
Khổng Tử nhấn mạnh tới quá trình tự tu dưỡng trong hoạt động quản lý:
“tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ” (Đại học).
Người Nhân thì phải hết lòng vì người, biết từ bụng ta suy ra bụng người:
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Luận ngữ).
Trong hoạt động kinh tế, không chỉ căn cứ vào lợi nhuận đơn thuần “Giàu
sang là điều ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái với đạo lý thì

người quân tử không thèm”. Cứ làm việc tốt, phục vụ người tốt thì “bổng lộc
tự khắc đến”.
Ở đây có một điểm cần nói rõ hơn: “Chính” mà Khổng Tử nói ở đây là chính
trị, chính sự. Và chính trị là chỉ mọi biện pháp được thi hành để quản lý đất nước,
làm cho chính sự được quản lý chặt chẽ; chính sự là chỉ việc làm hành chính.
Khổng Tử chủ trương tham gia chính trị nuôi dưỡng nhân tài “Tòng chính” có


nghĩa là chấp chính. Lúc bấy giờ, chưa thể có quản lý xí nghiệp cũng như khái
niệm về quản lý xí nghiệp. Thời bấy giờ, việc quản lý quốc gia là việc mọi
người quan tâm nhất, đó cũng là chính sự. Do đó, Khổng Tử quan tâm đến
“Chính”. Quan tâm và nghiên cứu việc quản lý quốc gia là rất tự nhiên. Nhưng
quản lý quốc gia là quản lý. Còn về điểm quản lý con người, nó cũng có nét
chung như bất cứ việc quản lý nào. Do đấy, tư tưởng quản lý của Khổng Tử có
ý nghĩa phổ biến. Quản lý học phương Tây truyền thống cho rằng quản lý là
quản lý, luân lý đạo đức là luân lý đạo đức, hai phạm trù đó không có liên quan
với nhau. Nhưng quản lý là cái gì? Suy cho cùng, quản lý là quản lý con người.
Trong quản lý, đối với con người thì quản lý là cái gì? Quản lý mọi quan hệ
giữa người với người. Còn luân lý đạo đức, là quy phạm chuẩn mực hành vi
giữa con người với con người. Do đấy giữa luân lý đạo đức và quản lý là có
quan hệ mật thiết.
Quản lý có nghĩa là xử lý tốt mọi quan hệ giữa con người với nhau. Ví dụ trong
quản lý xí nghiệp là cần xử lý tốt hai quan hệ lớn của con người với nội bộ xí
nghiệp bên ngoài. Quan hệ giữa xí nghiệp với bên ngoài là: Quan hệ giữa xí
nghiệp với khách hàng, giữa xí nghiệp với tiền tệ, tiêu thụ, cung ứng... Do đấy
cũng tự nhiên rút ra kết luận là Khổng Tử không có tư tưởng quản lý. Nhưng
qua phân tích ở trên, chúng ta có thể nhìn thấy rõ nhận thức ấy là phiến diện.
So với cách quản lý truyền thống của phương Tây và pháp gia cổ đại của Trung
Quốc, cách quản lý của Khổng Tử đi một con đường khác. Ông nhấn mạnh đức
trị, nhấn mạnh lấy luân lý đạo đức để giáo hoá nhân dân. Đương nhiên ở thời

Khổng Tử, nội dung của luân lý khác với ngày nay. Trong khi Khổng Tử nhấn
mạnh nghiên cứu “vị chính” quản lý, thì nội dung luân lý và nội dung quản lý
có sự khác biệt. Nhưng đó chỉ là sự cá biệt của vấn đề, không thể thay đổi
được kết luận chung về mối quan hệ khăng khít giữa quản lý và luân lý đạo đức.
Quản lý là thể thống nhất hữu cơ của tư tưởng quản lý và thuận quản lý. Tư
tưởng quản lý là cái bản chất, thuật quản lý chỉ là cái phát sinh mà thôi. Nhân


tố cơ bản quyết định tính chất quản lý và thành bại của nó là tư tưởng quản lý
chứ không phải là thuật quản lý. Từ ý nghĩa ấy, lấy “thuật” để thay thế quản lý
phiến diện. Cũng vì lý do ấy, quyết không nêu vì Khổng học không có “thuật”
mà phủ định Khổng Tử từng bàn đến quản lý, phủ định tư tưởng quản lý của
Khổng Tử. Vậy, tư tưởng học thuyết lễ trị (Vị Đức) của Khổng Tử là: Làm gì
muốn thành công cũng phải có chính danh (lẽ phải), phải biết chọn người hiền
tài giúp việc, phải thu phục lòng người, phải đúng đạo và phải tiết kiệm. Các ông
cho rằng con người phải chia thành 2 loại: quân tử thì có nghĩa, còn tiểu nhân thì
chỉ chăm lo điều lợi.


Tài liệu tham khảo
1. TS. Bùi Văn Mưa, Đại Cương Về Lịch Sử Triết Học, lưu hành nội bộ Khoa Lý
luận chính trị- Đại học Kinh Tế Tp. HCM, Hồ Chí Minh 2010, trang 52-63;71-73.
2. TS. Nguyễn Văn Năm, Quan Hệ Giữa Pháp Luật Và Đạo Đức Trong Điều Kiện Xây
Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Hiện Nay, luận án tiến sĩ Luật học- Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội, 2012, trang 154-157.

3. TS. Hoàng Văn Luân, Lịch Sử Tư Tưởng Quản Lý, Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn Hà Nội, Hà Nội, 2008, trang 20-33.
4. TS. Nguyễn Thị Kim Bình, Đường Lối Đức Trị Của Nho Giáo- Từ Khổng Tử
Đến Mạnh Tử, Số (4) Tạp Chí Khoa Học và Công Nghệ- Đại học Đà Nẵng, Đà

Nẵng, 2008, 79-83.



×