Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bài viết số 6 Ngữ văn lớp 9: Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.12 MB, 12 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Bài viết số 6 Ngữ văn lớp 9: Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã
hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ.
I. Dàn ý: Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật
Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
1. Mở bài:
- Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các tác phẩm văn
chương, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
- Đến văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thể hiện cụ thể, sâu sắc hơn.
Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và số phận đầy đau khổ của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến.
2. Thân bài:
a. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời lại đầy đau khổ, bất
hạnh:
- Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp hình thức (tư dung tốt đẹp); vẻ đẹp nhân cách (yêu
thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, thương con, hết lòng chăm lo
hạnh phúc gia đình).
- Phải chịu những đau khổ, bất công, ngang trái: bị chồng nghi oan mà không nghe nàng
thanh minh, giãi bày; bị mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi đi, đau khổ tột cùng, nàng phải tìm
đến cái chết.
- Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
b. Suy nghĩ vềthân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
- Sống cam chịu, nhẫn nhục…(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những bất công,
ngang trái đè nặng lên cuộc đời, số phận của họ).
- Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình (Vũ Nương, người phụ nữ
trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của
Nguyễn Du…)
- Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho họ (chế độ đa thê, tư tưởng trọng nam khinh




VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

nữ, chiến tranh…đã gây ra những bất hạnh, oan trái…cho người phụ nữ trong thơ Hồ
Xuân Hương, trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm…).
- Cảm thương cho số phận đau khổ, bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến.
3. Kết bài
- Qua cuộc đời, số phận đầy đau khổ của Vũ Nương, người đọc càng hiểu hơn những bất
hạnh, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội phong kiến.
- Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được bình đẳng, được tôn trọng…từ đó,
thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống hiện tại.
- Mơ ước về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịu những bất công, đau khổ…
Bài văn mẫu 1
Nhà thơ Huy Cận từng viết:
"Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ"
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người
phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc đời và đã để lại nhiều hình ảnh bóng
sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại
phải chịu một số phận đầy bị kịch và đáng thương: Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều
đến kiếp đời của người phụ nữ, mà có lẽ điển hình trong số ấy là nhân vật Vũ Nương
"Chuyện người con gái Nam Xương"
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ
vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau,
mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca
của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh
cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở

Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính
của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là người phụ
nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời - Đó là thú vui nghi


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ
nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của
nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương
Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng
nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà. Khi
tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quí mà là
khao khát ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Những ngày chồng
đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ
chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời
ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên
vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con
cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người
thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng. Trong
suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ
chờ chồng, nuôi con: “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi
lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương
được mọi người yêu mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu
trân trọng của ông, Vũ Nương là con người của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh
của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc
để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc.
Tục ngữ có câu “Hoa thơm ai chẳng nâng niu – Người ngoan ai chẳng thương yêu mọi
bề” hay "Gái có công thì chồng chẳng phụ" thế nhưng công lao của Vũ Nương chẳng
những không được biết đến mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số

phận. Nàng phải một mình một bóng âm thầm nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất
đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc tan, chồng về, gia
đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập đến, bòng đen của cơn ghen đã làm cho
Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời ngây thơ mà anh đã
tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh chẳng những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng
rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Nương phải tìm đến cái chết để kết thúc một kiếp người. Có lẽ bi kịch của Vũ Nương
không phải là trường hợp cá biệt mà khủng khiếp thay là số phận của bao chị em phụ nữ,
là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận
của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bac mệnh ấy Nguyễn dữ đã góp phần khái quát nên
thành lời kiếp đau khổ của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện
trong lời ca dao
‘Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan nghiệt để phê
phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong xã hội đó thật mong
manh. Cái bóng là 1 chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất
hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy các mâu thuẫn đến đỉnh điểm). Cái bóng xuất hiện
trong lời nói đùa của vũ nương khi nói với con. Những ngày xa cách, bé Đản luôn hỏi về
bố, Thương con: thương đứa con ra đời chưa biết mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm đầu
tiên về người cha để nó không cảm thấy thiếu vắng, luôn cảm thấy hình ảnh cha gần gũi
bên mình. Vũ Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong
những ngày tháng xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của
nàmg, chồng luôn ở bên cạnh, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ vì muốn con
vui, muốn bớt buồn, và giải khuây khi sống cô đơn vò võ nuôi con. Chắc hẳn người thiếu
phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ

từ trò chơi này làm tan nát đời nàng, không ngờ 1 lời nói đùa trong thương nhớ lại trở
thành sợi dây vô tình, oan nghiệt thắt chặt cuộc đời nàng. Chính điều này đã gây ra cho
nàng bao nỗi bất hạnh, tủi nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất
mẹ
Nếu truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể
trước khi Trương Sinh chở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa đến như vậy. Đã
ém ngẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở 1 vị trí thích hợp đã gây ra bão
giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay
ghen Trương Sinh nổ bùng. "Thú vui nghi gia nghi thật, hạnh phúc duy nhất, niềm mong


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

ước duy nhất của 1 đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ. Cái bóng
không là một nhân vật nhưng nó lại tham gia đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành 1 chi
tiết nghệ thuật đắt giá khiến câu chuyện hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở nút
câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức và giá
trị tố cáo xã hội nam quyên đầy bất công với phụ nữ càng thêm sâu sắc: Bình đã rơi, trâm
đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh
chỉ còn có thể tìm đễn cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến
thối nát với bộ máy quan lại mục ruỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ.
Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng đau khổ, lại càng phải chịu nhiều sự chén ép, bất
công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ "hồng nhan bạc phận". Đớn đau thay
số phận của nàng. Nàng đã gieo mình xuống sông Hòang Giang tự vẫn. Và người đời sẽ
lưu truyền thêm 1 tấm bi kịch về số phận người phụ nữ. Tấm bi kịch về cái đẹp bị chà nát
phũ phàng Tấm bi kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen
tuông ích kỉ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho
sự độc ác hủ bại ... Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc
đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng

Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,
xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh!
Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình
tượng Vũ nương, khi thì cách xử thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ,
hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu
thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một
cách có văn hoá. Đó là lời nhắn nhủ. Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số
phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại
tổn thương đến hạnh phúc đôi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được
hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận
đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được
lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhận ra


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

được từ: Chuyện người con gái Nam Xương.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội
phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi. Thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ,
đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị ảnh hưởng và phải chịu đựng nhiều nhất chính là
người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng
thương yêu và hết mực quan tâm đến mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình
ảnh của họ qua các tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong một
xã hội phong kiến suy tàn và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ,
long đong lận đận. Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em
đang sống hôm nay.
Bài văn mẫu 2
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong Truyền kỳ mạn lục, một tác
phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện
phản ánh một vấn đề bức thiết của xạ hội, đó là thân phận của người nông dân nói chung

và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiến
khắt khe đã chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng
trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của Vũ Nương – một người con gái nết na, thùy mị.
Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ
thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ
vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, bình đẳng trong cuộc hôn nhân đó.
Mầm mống bi kịch của cuộc đời Vũ Nương bắt đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỉ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang, tháo
vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên
luôn giữ gìn khuôn phép, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn chồng
bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo
được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ
bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn
lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền
trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng chăm sóc
chu đáo mẹ chồng, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi
lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh
con, một mình nuôi dạy con và chăm sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng
thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi ngờ vợ hư hỏng nên chửi
mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ
hàng làng xóm, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. Đau đớn, tủi nhục, Vũ
Nương phải tìm đến cái chết trên bến Hoàng Giang.

Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngoài
phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con
người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày
đến bước đường cùng của cuộc đời, họ chỉ biết tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong
sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc
nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi
gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương.
Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm
phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có nghĩa tình. Khi chết, tuy
được các nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng
nhớ đến quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt
khi nghe người cùng làng gợi nhắc đến quê hương, nhắc đến chồng con của mình. Thế
nhưng, Vu Nương vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng
không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn giải oan và đã ân hận với việc làm
nông nổi của mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi – người
đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn giải oan chỉ là việc
an ủi cho người bạc mệnh chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khuất
được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công
lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn. Dù cái chết là tấn bi kịch của người
phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn cái
chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt ân hận
vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã hội
phong kiến đương thời đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh
phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là

nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ
nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị chà đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao
đẹp. Bởi thế Nguyễn Dữ đã viết:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời ràng bạc mệnh vẫn là lời chung.
"Phận đàn bà” trong xã hội phong kiến cũ đau đớn, bạc mệnh, tủi nhục không kể xiết. Lễ
giáo phong kiến khắt khe như sợi giây oan nghiệt trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ
Nương, người phụ nữ trong xã hội suy tàn ngày ấy luôn tìm đến cái chết để bảo vệ nhân
phẩm của mình.
Bằng bút pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo,
Nguyễn Dữ đã xây đựng hình tượng nhân vật điển hình cho thân phận người phụ nữ ngày
xưa. Họ thật đẹp, thật lí tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông
vừa đề cao giá trị người phụ nữ lại vừa hạ thấp giá trị của xã hội phong kiến đương thời.
Bài văn mẫu 3
Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được hể hiện trong văn học thời trung đại. Viết về
họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành ông với bài thơ “Bánh trôi nước”, đại thi hào Nguyễn
Du với kiệt tác “Truyện Kiều” và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm với
“Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Qua nhân
vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về thân phận của


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
“Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ
Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào
phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì
Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con trai, hết lòng

nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm
đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan,
Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi.
Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy
người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi
dài những khổ đau, bất hạnh.
Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã
phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị
nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin
trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải
là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua
bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con
nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo
đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.
Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ
tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một
cách vũ phu, thô bạo.
Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm
mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách, khi trở về
tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tại họa ập xuống
cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư?
Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia…”, làm cho Trương Sinh ngờ
vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để
chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ
chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội

phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào
huyết quản đã dung túng cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối
xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ.
Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ…
Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền
được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho. Hạnh phúc
gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu
không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả
nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất
vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành
mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình.
Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh
của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,
tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ.
Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ".
Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận nhưng
cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và
ức hiếp con người.
Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức. Vậy mà,
Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay
cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ
thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự, chuyện sinh mệnh của người
phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo
lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài
phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí


người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền
sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi”
có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không
thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia
trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu.
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân
của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà
về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi
vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang
dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải
ứa hai hàm lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e
việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian
lao,rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già
triền miên lo lắng.”
Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người
chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh
rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ
vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé… Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán,
vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của
Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không
có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì
đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến
tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh từ biệt, làm tan nát
bao nhiêu gia đình.
Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ
khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong
“Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức,
phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Viết về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo, chà đạp lên quyền
sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự xót xa thương cảm
của tác giả trước nỗi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ nữ bất
hạnh trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công đã đẩy
người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng niu, trân
trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương dành cho những thân
phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.



×