Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

thực trạng về công tác tổ chức, quản lý đào tạo các ngành khoa học kỹ thuật – công nghệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.79 KB, 21 trang )

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
KHOA GIÁO DỤC
Bộ môn: QUẢN LÝ GIÁO DỤC

BÀI TẬP NHÓM
ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC, QUẢN
LÝ ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KHOA HỌC KỸ
THUẬT – CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM

Nhóm thực hiện
Phạm Nguyễn Thanh Thảo
Cao Quốc Thi
Hoàng Thanh Thảo
Nguyễn Thị Thanh Thúy
Trần Thị Thanh Thùy
Phan Nguyên Châu
Nguyễn Phan Hải Âu
Lê Phú Thịnh

Tp. HCM, tháng 9 năm 2014


CHƯƠNG 1
NHỮNG ĐIỂM TÍCH CỰC CỦA HOẠT ĐỘNG
TỔ CHỨC, QUẢN LÝ ĐÀO TẠO
1.1 TỔNG QUAN VỀ CÁC THÀNH TỰU, KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Nhìn tổng quát, trong thời kỳ đổi mới đất nước, giáo dục đã cung cấp nguồn nhân lực
cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đóng góp rất quan trọng vào
thành tựu của đất nước: vượt qua khủng hoảng kinh tế, thoát khỏi tình trạng nước


nghèo, chủ động hội nhập quốc tế ngày càng hiệu quả.
Thật vậy, đầu thế kỷ 21, toàn ngành giáo dục Việt Nam còn hoàn toàn xa lạ với đảm
bảo chất lượng và kiểm định.Nhưng chỉ vài năm sau, yêu cầu kiểm định chất lượng
bắt buộc đối với tất cả các trường đại học và cao đẳng đã được thể chế hóa. Năm
2004, Bộ GD - ÐT đã thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục. Ðến
nay, 138 trường ÐH, CÐ thực hiện tự đánh giá về chất lượng (chiếm 37% số
trường ÐH, CÐ), trong đó 20 trường ÐH (chiếm 5%) đã được đánh giá từ bên ngoài.
Bộ giáo dục đã thành lập cơ quan đảm bảo chất lượng cấp quốc gia (Cục Khảo thí và
Kiểm định chất lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Ðào tạo), xây dựng các quy
ðịnh về kiểm ðịnh chất lýợng trýờng ðại học, býớc ðầu thiết lập và tiếp tục hoàn thiện
hệ thống dọc cho hoạt ðộng ðảm bảo chất lýợng quốc gia nhý Cục Khảo thí và
Kiểm ðịnh chất lýợng giáo dục, các trung tâm ðảm bảo chất lýợng của hai ðại học
quốc gia và các ðại học vùng, và bộ phận ðảm bảo chất lýợng của các trýờng.
Một số biện pháp thực hiện kiểm định chất lượng đào tạo đại học đã được Bộ GD-ĐT
đã ban hành quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường Đại học ngày
02/12/2004: “Kiểm định chất lượng giáo dục là biện pháp chủ yếu nhằm xác định
mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường.Việc
kiểm định chất lượng giáo dục được thực hiện định kỳ và đối với từng cơ sở giáo dục”
(Điều 17, Luật Giáo dục 2005).
Ngoài ra Bộ GD- ÐT còn xây dựng và bước đầu triển khai kế hoạch kiểm định chất
lượng trường đại học cho toàn hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam đến nãm
2010, phát triển năng lực cho đội ngũ chuyên gia và các nhân sự chủ chốt của hệ thống
đảm bảo chất lượng quốc gia, tham gia vào các mạng lưới đảm bảo chất lượng khu
vực: AUN (Mạng đại học Ðông Nam Á), APQN (Mạng đảm bảo chất lượng châu ÁThái Bình Dương), và INQAAHE (Hiệp hội các cơ quan đảm bảo chất lượng quốc tế.
Trong hơn 20 năm đổi mới, quản lý GDÐH nước ta đang trong quá trình đổi mới
cơ bản và toàn diện giai đoạn 2006 - 2020. Trong việc quản lý chất lượng đào tạo đại
1


học, ngành GD và ÐT đang triển khai cuộc vận động "Hai không" với nội dung là

"Nói không với đào tạo không đạt chuẩn, không đáp ứng nhu cầu xã hội".Và việc
quản lý chất lượng đào tạo đại học đã và đang được đặt ra thành tiêu chuẩn với các
trường để thực hiện việc quản lý tốt hơn với các trường và nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học ở đại học Việt Nam hiện nay, đặc biệt là đào tạo đại học đang hướng tới
việc lấy phương châm đào tạo theo nhu cầu xã hội, đào tạo cái mà xã hội cần chứ
không phải nhà trường có, để đánh giá chất lượng đào tạo,nhà nước đang áp dụng cho
các trường đại học tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc giảng dạy, tự xác định nhu cầu
để đề ra biện pháp và việc tuyển sinh đáp ứng nhu cầu xã hội.
Từ năm 2007 đến nay, Bộ GD - ÐT đã cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp tổ
chức nhiều hội thảo quốc gia về đào tạo theo nhu cầu xã hội. Mỗi hội thảo ngành
GD và ÐT phối hợp cùng một bộ chuyên ngành tổ chức và mời các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực đó để cùng các trường ÐH, CÐ ngồi lại với nhau xem doanh nghiệp
cần gì, nhà trường đáp ứng được gì, để đổi mới chương trình, phương pháp và tăng
cường lực lượng giảng viên cho đào tạo.
Việc đầu tư ngân sách cho giáo dục và quản lý chất lượng đào tạo đại học hiện nay
ngày càng được quan tâm và đầu tư đáng kể. Nhà nước đặc biệt quan tâm đến chất
lượng đào tạo sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ, lực lượng lao động chất lượng cao nhằm áp
dụng hơn nữa khoa học kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu lao động hiện nay nhằm đưa
đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý chất lượng đào tạo đại học đang được
chú trọng, cung cấp kiến thức, kỹ năng, cử cán bộ đi học ở nước ngoài, áp dụng
những phương pháp quản lý tiên tiến,có hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo đại
học ở Việt Nam hiện nay.
Nhà nước ngày càng chú trọng tới việc nâng cao chất lượng quản lý đào tạo đại học,
giúp các trường đại học hiện nay tự chủ về mọi mặt, phát huy hơn nữa tính độc lập
của các trường nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy cho giáo viên và chất lượng học
cho sinh viên qua việc tự hoạch định con đường phát triển cho trường mình, nâng
cao tính chủ động, giúp sinh viên có thể vừa học vừa thực hành, được trực tiếp tiếp
xúc với tình huống thực tế để nâng cao kinh nghiệm và không bỡ ngỡ khi ra trường.
Nhờ việc thực hiện quản lý chất lượng đào tạo đại học trong thời gian vừa qua,ngành

giáo dục đã cung cấp cho đất nước hàng triệu lao động có trình độ đại học, cao đẳng
(ÐH, CÐ). Ðây là lực lượng quan trọng tiếp thu và ứng dụng các tri thức, công nghệ
mới ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, góp phần làm nên thành tựu phát triển kinh
tế - xã hội đáng tự hào của đất nước.
Những thành tựu, kết quả chính của giáo dục là:

2


 Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục
toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng cao được
trình độ đào tạo, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người lao động.
 Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân
tộc thiểu số, người nghèo, lao động nông thôn, đối tượng chính sách và người có
hoàn cảnh khó khăn. Bình đẳng giới trong giáo dục được bảo đảm.
 Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu nhân lực
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học sinh, sinh
viên Việt Nam đạt kết quả cao trong các kỳ thi quốc tế và khu vực. Nhân lực nước
ta đã làm chủ được một số công nghệ hiện đại.
 Công tác quản lý giáo dục có bước chuyển biến tích cực.
 Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình độ đào
tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
 Cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng cường và từng
bước hiện đại hóa.
 Xã hội hóa giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan
trọng.
Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu, kết quả
Những thành tựu, kết quả quan trọng của giáo dục bắt nguồn từ truyền thống hiếu học
của dân tộc; sự ưu tiên đầu tư của các gia đình cho việc học tập của con em mình; ý
thức ham học hỏi và tinh thần vượt khó của các thế hệ học sinh, sinh viên; sự lãnh đạo

thường xuyên, trực tiếp của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của toàn xã hội đối với sự
nghiệp giáo dục; ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng đổi mới trong chỉ đạo, quản lý và
tổ chức thực hiện nhiệm vụ, bước đầu đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp phát triển
giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; sự tận tụy của đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
1.2 NHỮNG MẶT TÍCH CỰC TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO
Hệ thống quản lý đào tạo của nhà trường được thực hiện chủ yếu thông qua GV, SV,
đội ngũ cán bộ phục vụ và hệ thống thông tin của trường. Chất lượng đào tạo và việc
thực hiện mục tiêu của chương trình đào tạo được hình thành từ hoạt động dạy của GV
và hoạt động học của SV. Thông tin về chương trình, tài liệu giảng dạy có sẵn trên
trang web của nhà trường. GV, SV có tài khoản thông tin trên hệ thống của trường.

3


Hoạt động dạy học của GV và SV có thể thực hiện trên lớp học chung, lớp nhỏ làm bài
tập theo các chủ đề ở trường, qua mạng (kể cả các bài kiểm tra định kỳ và những câu
hỏi liên quan đến nội dung môn học). Đặc biệt sự gian lận trong học tập, thi cử là điều
tối kị, đây là lỗi rất nặng. Nếu GV vi phạm, lỗi sẽ ghi vào hồ sơ cá nhân và bị từ chối
không tiếp nhận làm việc ở trường (đuổi việc), và rất khó để xin vào dạy ở một trường
khác.
SV vi phạm sẽ bị kỷ luật nặng, ghi vào hồ sơ cá nhân. Vì vậy, hoạt động dạy và học
chủ yếu là sự tự giác của GV và SV. Tuy nhiên, việc kiểm soát quá trình đào tạo này
được làm gián tiếp thông qua hệ thống đăng ký phòng học của GV, SV, qua đội ngũ
cán bộ phục vụ, nhà trường có thể truy cập và biết.
Có nhiều cơ sở đào tạo sử dụng đội ngũ CB phòng thanh tra, thực hiện kiểm soát theo
từng tiết giảng. Điều này phù hợp với chức năng quản lý, tuy nhiên gặp phải sự phản
đối từ phía GV, vì làm như vậy được coi là thiếu tin tưởng và chưa thực sự tôn trọng
GV. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nếu không làm như vậy thì chất lượng đào tạo

là rất khó kiểm soát, phần lớn chỉ thể hiện trên các văn bản.
Thành lập đơn vị quản lý, đánh giá xếp hạng các trường đại học Việt Nam. Xây dựng
bộ tiêu chí xếp hạng trường đại học trong đó chú trọng chất lượng đào tạo thông qua
bộ chương trình và công tác tổ chức thực hiện. Định kỳ 2 năm một lần, các trường đại
học được đánh giá, xếp hạng dựa trên kết quả kiểm soát quá trình và đánh giá cuối đợt,
kết quả xếp hạng được công bố rộng rãi trên các kênh thông tin đại chúng.
Xây dựng có chương trình hành động dựa trên bộ tiêu chí đánh giá trường đại học, đặc
biệt là các tiêu chí về đảm bảo chất lượng. Bộ GD-ĐT có thể quản lý việc cho phép
cấp bằng tốt nghiệp hay không thông qua việc kết quả kiểm tra các điều kiện đảm bảo.
Chỉ cấp bằng đối với những sinh viên tốt nghiệp đạt chuẩn đầu ra.
Xây dựng chính sách ưu đãi đối với giảng viên đại học, cơ chế quản lý tốt để phát huy
năng lực của cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, thực sự tạo ra
động lực để họ vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ, quán triệt tư tưởng đến tất cả đội ngũ
CB, GV hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, công việc, ý nghĩa và cùng quyết tâm thực hiện.
Xây dựng và thực hiện hệ thống các văn bản pháp quy đào tạo theo các chương trình
quốc tế đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo tiếp cận chuẩn quốc tế.
Áp dụng các phương pháp quản lý đào tạo đại học tiên tiến của nước ngoài được điều
chỉnh cho phù hợp với điều kiện của ĐHQGHN trên cơ sở tin học hóacao độ, đảm bảo
chất lượng, hiệu quả đào tạo.
Các chương trình đào tạo được thực hiện và quản lý theo quy định của các trường đại
học tiên tiến được kiểm tra, kiểm định chất lượng theo chuẩn quốc tế. Đơn vị đào tạo

4


chịu trách nhiệm tổ chức và quản lý chương trình đào tạo theo sự phân công của
ĐHQGHN.
Ở giai đoạn đầu, mời một sốnhà quản lý đại học trình độ quốc tế làm cố vấn về quản lý
và tổ chức đào tạo các chương trình quốc tế.
Sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh theo học các chương trình đào tạo được quản lý

theo quy định của ĐHQGHN.
Chính sách đối với sinh viên
 Được học tập trong điều kiện từng bước tiếp cận chuẩn quốc tế.
 Được các giảng viên giỏi trong và ngoài nước giảng dạy, hướng dẫn.
 Cóchế độ học bổng đối với các sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh có kết quả học
tập, nghiên cứu xuất sắc.
 Được giới thiệu đi thực tập làm nghiên cứu sớm tại các trung tâm khoa học, viện
nghiên cứu đầu ngành của cả nước.
Điểm mạnh và nguyên nhân
 Lập kế hoạch đào tạo: Đáp ứng công tác giảng dạy và học tập hiện tại.
 Tổ chức hệ thống quản lí đào tạo: Thống nhất từ trên xuống, do cơ chế chính trị
trong nhà trường rất thống nhất và không có chống đối.
Điểm yếu và nguyên nhân
 Lập kế hoạch đào tạo
o Chưa có chuẩn đầu ra cho kết quản đào tạo của từng ngành học, từng khóa học.
o Thiếu các thông tin về chuẩn nhân lực trong thị trường lao động trình độ đại học.
 Tổ chức hệ thống quản lí đào tạo.
o Mô hình tổ chức còn nặng về mặt hành chính mang tính chỉ huy, các đơn vị đào
tạo cấp khoa, cấp bộ môn chưa được phân cấp do vậy các hoạt động nâng
cao nghề nghiệp chuyên môn chưa được chú trọng.
 Lãnh đạo và điều phối đào tạo
o Hầu hết các trường đại học đã chuyển qua đào tạo theo tín chỉ nhưng vẫn sử dụng
giáo trình cũ của thời đào tạo theo niên chế.
 Đánh giá chất lượng và hiệu quả đào tạo
o Nhu cầu đổi mới công tác quản lí đào tạo trong các trường đại học Việt Nam hiện
nay. Đổi mới công tác quản lí đào tạo là nhu cầu cấp thiết phù hợp với chủ

5



trương của Đảng và Chính phủ, phù hợp với yêu cầu của xã hội và là nhu cầu cấp
thiết trong quá trình phát triển của các trường đại học Việt Nam hiện nay.
Mục tiêu chung
Mục tiêu chung của việc đổi mới công tác quản lí đào tạo là: Khắc phục những yếu
kém, tạo ra động lực mới cho cán bộ giảng viên sinh viên nhà trường, xây dựng môi
trường giảng dạy và học tập phù hợp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo,
đáp ứng nhu cầu xã hội.
Các mục tiêu cụ thể
 Đổi mới mục tiêu đào tạo hướng về nhu cầu xã hội, dạy cái mà xã hội cần không
phải cái mình có.
 Đổi mới chương trình đào tạo, cập nhật với yêu cầu xã hội và hội nhập các chuẩn
quốc tế. Xây dựng nguồn tư liệu khoa học phục vụ đào tạo theo các chuẩn quốc tế.
Sau khi tốt nghiệp, được ưu tiên chuyển tiếp làm thạc sỹ, tiến sỹ hoặc gửi đi đào tạo
tại nước ngoài theo định hướng khoa học của chương trình.
1.3 VÍ DỤ TỪ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ MIỀN ĐÔNG
Tất cả các chương trình đào tạo của trường đều được Hội đồng Khoa học và Đào tạo
thông qua trước khi đưa vào giảng dạy. Các chương trình đào tạo được Hiệu trưởng
ký ban hành chi tiết để thực hiện và công bố cho sinh viên biết trên trang web của
trường. Đồng thời, trường cũng quy định cán bộ giảng dạy phải soạn bài giảng có đề
cương chi tiết trước khi lên lớp và thực hiện giáo trình điện tử lưu tại thư viện để thuận
lợi cho việc tiếp cận và tham khảo của cán bộ, giảng viên và sinh viên, học sinh. Tất cả
các giảng viên cơ hữu của Trường đều có tập bài giảng môn học để giảng dạy và cung
cấp tài liệu cho các đối tượng học. Mỗi năm giảng viên phải sửa chữa, bổ sung, nhằm
hoàn thiện và cập nhật tập bài giảng của mình. Đối với các môn khoa học chính trị,
giảng viên sử dụng giáo trình hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các cán bộ,
giảng viên có học hàm, học vị đang bắt tay vào việc soạn thảo giáo trình để phục vụ
cho công tác nghiên cứu, đào tạo tại Trường. Công tác này sẽ được tiếp tục hoàn chỉnh
bằng cách cử cán bộ chủ biên giáo trình, tổ chức thông qua Hội đồng khoa học và Đào
tạo Trường xét duyệt toàn bộ khung giáo trình, tránh trùng lắp nhưng cũng không thiếu
phần kiến thức cơ bản, làm thế nào để sinh viên học theo trình tự cơ sở rồi mới đến

chuyên ngành một cách vững chắc.
Ngày 21 tháng 05 năm 2014, Đoàn kiểm tra của Bộ Y tế đã đến trường kiểm tra thực
tế các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo ngành Dược học bậc Đại học và Cao
đẳng. Đoàn đã đánh giá rất cao sự nỗ lực đầu tư các phòng thí nghiệm thực hành và
đội ngũ giảng viên đảm bảo chất lượng đào tạo ngành Dược học. Tiếp theo đó, ngày

6


29 tháng 05 năm 2014, Bộ Y tế đã có công văn số 3195/BYT-K2DT ủng hộ Trường
Đại học Công nghệ Miền Đông mở ngành đào tạo ngành Dược học trình độ đại học.
Năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép Trường Đại học Công nghệ Miền
Đông (MUT) tuyển sinh đào tạo 04 mã ngành trình độ đại học và 04 mã ngành trình độ
cao đẳng như sau:
04 mã ngành tuyển sinh đào tạo trình độ đại học:
1. Ngành Dược học (Dược sĩ đại học)
2. Ngành Quản lý Công nghiệp
3. Ngành Kỹ thuật công trình xây dựng
4. Ngành Ngôn ngữ Anh
04 mã ngành tuyển sinh đào tạo trình độ cao đẳng:
1. Ngành Dược học
2. Ngành Quản lý Công nghiệp
3. Ngành Công nghệ kỹ thuật công trình xây dựng
4. Ngành Tiếng Anh
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, Trường Đại học Công nghệ Miền Đông (MUT) sẽ tổ
chức kiểm tra việc đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên theo kế hoạch 2
lần/năm. Triển khai thực hiện kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao năng lực của giảng viên
đã được trường phê duyệt kế hoạch bồi dưỡng hàng năm và tổ chức thực hiện công tác
nhận xét giảng viên, đánh giá lãnh đạo và cán bộ quản lý các cấp trong trường. Giảng
viên cơ hữu của Trường Đại học Công nghệ Miền Đông và giảng viên thỉnh giảng đều

có trình độ chuyên môn từ thạc sĩ trở lên, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và
nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, tất cả các giảng viên đều có nghiệp vụ sư phạm,
phương pháp giảng dạy và khả năng truyền đạt của họ có thể mang đến cho người học
những kiến thức dồi dào, giúp người học phát huy tố chất tiềm năng trong sự háo hức
và phấn khích. Ngoài ra, các giảng viên còn kết hợp sử dụng giáo trình điện tử, liên tục
đổi mới phương pháp giảng dạy trong từng môn học khác nhau, kết hợp sử dụng các
trang thiết bị hiện đại trong giờ giảng như máy chiếu, máy vi tính, hệ thống âm thanh,
phương pháp trực quan sinh động...
Trường đang làm đề án hợp tác đào tạo cao học với các Trường Đại học trong và
ngoài nước có bề dày đào tạo thạc sĩ ngành Quản lý Kinh tế và Dược học tại Trường,
xin phép Bộ Giáo dục& Đào tạo và tổ chức tuyển sinh vào năm 2015 để phục vụ nhu
cầu đào tạo nhân lực trình độ sau đại học tại tỉnh Đồng Nai và Vùng Đông Nam Bộ.
Về hợp tác quốc tế, Trường Đại học Công nghệ Miền Đông (MUT) đang trao đổi với

7


các Trường Đại học Hoa Kỳ, Úc, Malaysia, Thái Lan… để hợp tác đào tạo và nghiên
cứu khoa học
Cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp
 Ngành Dược học: làm việc tại các công ty sản xuất và kinh doanh dược phẩm, trung
tâm kiểm nghiệm dược phẩm – mỹ phẩm, các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên
cứu, các cơ quan quản lý y tế, bệnh viện và các cơ sở y tế có liên quan đến ngành
dược…
 Ngành Quản lý công nghiệp: Làm việc tại các doanh nghiệp, nhà máy có sản xuất,
kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ có tính chất công nghệ; Có khả năng lập, phân
tích và quản lý dự án đầu tư, thẩm định và giám sát dự án, dự án chuyển giao công
nghệ; Tổ chức điều hành sản xuất đảm bảo chất lượng sản phẩm…
 Ngành Kỹ thuật công trình xây dựng: làm việc trong các doanh nghiệp liên quan
đến xây dựng, kết cấu nền móng; Tư vấn, thiết kế các công trình xây dựng; Lập

biện pháp kỹ thuật và tổ chức thi công các công trình xây dựng; Sử dụng thành thạo
các phần mềm chuyên dụng trong tính toán, quản lý chuyên ngành xây dựng…
 Ngành Ngôn ngữ Anh: làm việc trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp
trong và ngoài nước, các trường đại học, cao đẳng; Biên và phiên dịch được Anh –
Việt, Việt – Anh; Có khả năng sư phạm để giảng dạy tiếng Anh hiệu quả…

8


CHƯƠNG 2
NHỮNG MẶT HẠN CHẾ CỦA HOẠT ĐỘNG TỔ
CHỨC, QUẢN LÝ ĐÀO TẠO VÀ NGUYÊN NHÂN
2.1 MẶT HẠN CHẾ
Về cơ sở vật chất
 Đa số sĩ số ở các lớp đại học quá đông trong khi ở các giảng đường nước ngoài số
lượng sinh viên rất ít.
 Trang thiết bị phòng học nghèo nàn (quá nhiều tiếng ồn và không tiện nghi), trang
thiết bị phòng thí nghiệm và thiết bị để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu
không tương xứng hoặc không có.
 Trang thiết bị thư viện và các nguồn lực không phù hợp như: thiếu không gian,
thiếu các sách báo, tạp chí chuyên ngành dưới dạng ấn phẩm và điện tử, sử dụng
Internet băng thông rộng còn hạn chế…
Chương trình đào tạo
 Chương trình đào tạo đại học yêu cầu quá nhiều môn học (6-8 môn) và số tín chỉ
(khoảng 25) trong một học kỳ, kết quả sinh viên không có kiến thức sâu. Đây là
khối lượng công việc khá nặng cho giáo viên và sinh viên. Sinh viên không thể hấp
thụ được hết khái niệm và nội dung, không tiếp thu được các nguyên tắc và không
thể hoàn tất bài tập về nhà. Giáo viên không có thời gian cho môn học và chuẩn bị
lên lớp, hoặc phản hồi cho sinh viên.
 Thông thường, các trường đại học hàng đầu trên thế giới đều yêu cầu ít hơn 200 tín

chỉ, chỉ vào khoảng 120 tín chỉ để tốt nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo nắm quyền
kiểm soát quá nhiều về mặt nội dung hai năm học đầu, ví dụ “hình họa” là môn học
bắt buộc đối với sinh viên ngành kỹ thuật. Đây là kỹ năng yêu cầu phải có trước khi
đăng ký học đại học hoặc thông qua các môn học khác, sẽ tốt hơn nếu môn học này
không được xem là một môn học trong chương trình đào tạo.
 Nhiều môn học trong chương trình đào tạo không liên quan đến ngành học và
chuyên ngành. Thạc sĩ Đào Đức Tuyên, Phó trưởng Khoa Ngoại ngữ Trường ĐH
Nông Lâm TPHCM phát biểu: môn giáo dục thể chất được quy định trong chương
trình khung của Bộ, nên chăng đổi lại thành môn tự chọn vì như vậy sinh viên có
thể chọn những môn thể thao phù hợp với điều kiện sức khỏe và thể lực của mình.
Môn giáo dục quốc phòng cũng vậy, nên chuyển sang thành môn tự chọn vì một

9


tháng học ròng rã cả lý thuyết lẫn thực hành như hiện nay thực sự không cần thiết
đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên nữ (H.L.Anh - D. Hằng, 2005).
 Nội dung của từng môn học và toàn bộ chương trình đào tạo lạc hậu và không
ngang tầm với các trường đại học hàng đầu thế giới. Chương trình còn nặng về lí
thuyết, thiếu thực hành và kiến thức học chưa sát với nhu cầu doanh nghiệp.

Hình 1. Giờ thực hành lập trình gia công CNC của sinh viên ngành Công nghệ kỹ
thuật cơ khí
 Ví dụ về ngành cơ khí ở Việt Nam: Trước đây, công việc của ngành cơ khí luôn liên
quan đến sắt thép, đến các công việc gia công bằng tay như tiện, phay, hàn…
Nhưng hiện nay, công nghệ phát triển mạnh mẽ nên ngành này cũng được chuyên
môn hóa, nhiều công việc cơ khí người làm không trực tiếp thao tác mà chỉ cần bấm
các thông số kỹ thuật trên máy móc. Sau khi mở cửa, hội nhập quốc tế, chào đón
các nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên những kiến thức và kỹ năng ở trường đại học
trang bị cho kỹ sư cơ khí chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Do đó, sau khi ra

trường hầu hết các kỹ sư sẽ phải tự tìm tòi, học hỏi thêm nhất là kỹ năng vận hành
để thích nghi và đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng.
 Các ứng dụng thực tiễn tập trung vào các bài tập mức độ thấp như lập trình và giải
bài tập để tìm câu trả lời đúng, hơn là các khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, đánh
giá và giải quyết vấn đề.
 Không có đủ các bài tập tại phòng thí nghiệm do tỉ lệ chương trình đào tạo dành cho
phòng thí nghiệm không thích hợp và trang thiết bị còn thiếu. Có sự mất cân đối
giữa các môn học lý thuyết và các môn học thực hành.

10


Về đội ngũ giảng viên
 Về cơ cấu giảng viên: tại nhiều cơ sở đào tạo, nhất là các cơ sở mới được thành lập
và cơ sở tư thục, số lượng giảng viên thỉnh giảng cao hơn nhiều lần so với đội ngũ
cán bộ cơ hữu làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của nhà trường.
Một số trường có số lượng giảng viên thỉnh giảng gấp 2 lần số giảng viên cơ hữu;
cá biệt có trường chỉ có 53 giảng viên cơ hữu, trong khi số giảng viên thỉnh giảng là
375. Không ít trường hợp danh sách giảng viên thỉnh giảng của một số trường trùng
nhau, tập trung vào một số Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Việc sử dụng quá đông
giảng viên thỉnh giảng một mặt làm cho cơ sở đào tạo khó chủ động thực hiện kế
hoạch đề ra và chất lượng đào tạo không cao do giảng viên thỉnh giảng ít có điều kiện
tham gia sinh hoạt chuyên môn tại cơ sở thỉnh giảng và không có thời gian tập trung
nghiên cứu, nâng cao chất lượng giảng dạy.
 Chất lượng đội ngũ giảng viên được thể hiện chủ yếu qua chất lượng hoạt động
giảng dạy và chất lượng nghiên cứu khoa học (NCKH) của giảng viên. Liên quan
đến hoạt động giảng dạy, thực trạng hiện nay cho thấy có tình trạng quá tải giờ dạy
của đội ngũ GVĐH do việc thành lập ồ ạt các cơ sở giáo dục đại học cùng với sự
gia tăng nhanh chóng về quy mô đào tạo trong khi số lượng đội ngũ cán bộ giảng
dạy không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra phổ biến, đặc biệt

là đối với giảng viên nhóm ngành hấp dẫn như công nghệ thông tin,... Có những
giảng viên dạy 1.000 tiết/năm trong khi quy định là 260 tiết/năm. Tình trạng quá tải
giờ dạy diễn ra liên tục trong thời gian dài khiến cho rất nhiều GVĐH không còn
thời gian dành cho học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập
nhật được một cách thường xuyên các kiến thức, kỹ năng mới khiến cho nội dung
bài giảng của họ nghèo nàn, lạc hậu và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Phương pháp giảng dạy của một bộ phận không nhỏ GVĐH chậm được đổi mới,
chủ yếu vẫn là thuyết trình theo kiểu thầy đọc – trò chép (Giảng viên lý giải rằng
biết rằng phương pháp này khiến sinh viên không hứng thú nhưng họ phải truyền
đạt hết nội dung giáo trình cho sinh viên theo số tiết mà Bộ GD-ĐT đã quy định).
Trong khi đó, công tác NCKH chưa được chú trọng; nội dung NCKH không có chất
lượng, hiệu quả, không có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng mà chỉ nhằm đối
phó hoặc để chấm điểm bình xét thi đua, xét phong danh hiệu.
 Giảng viên thiếu các kiến thức cập nhật trong chuyên ngành liên quan đến chương
trình đào tạo, nội dung môn học, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu. Do đó,
thiếu các giảng viên đạt trình độ có thể hiện đại hóa phương pháp giảng dạy đại học,
chương trình đào tạo, cũng như giáo dục và nghiên cứu sau đại học.

11


 Giảng viên thường dạy cho sinh viên những kiến thức cụ thể, những hiểu biết mà
mình tích lũy được trong kinh nghiệm giảng dạy mà không chú trọng đến việc dạy
nghề cho sinh viên.
 Các giảng viên thường ít cập nhật kiến thức chuyên môn liên quan đến nhu cầu thực
tế. Bài giảng của thầy đôi khi không còn phù hợp với tình hình xã hội hiện tại. Nếu
sinh viên chỉ học ở trường, không có điều kiện va chạm với cuộc sống bên ngoài thì
khả năng thích ứng với nhu cầu xã hội là thấp vì khoảng cách giữa lý thuyết và thực
tế là khá xa.
 Nhiều giảng viên thụ động và không mong muốn thay đổi hoặc cải tiến vì điều này

mất nhiều thời gian và công sức.
 Sinh viên đại học đương nhiên phải có trình độ nhận thức văn hóa cao, cụ thể là
phải có những phẩm chất đặc biệt. Các trường ĐH Việt Nam cho rằng việc giáo dục
phẩm chất cho sinh viên thuộc về trách nhiệm của các bậc học phổ thông trước đó
hoặc thuộc về chính bản thân sinh viên nên đã không chú trọng rèn luyện khía cạnh
này.
Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả nhà trường
 Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trong các trường đại học hiện nay chỉ mang
tính hình thức. Thiết bị giảng dạy như: máy chiếu, video … chỉ là phương tiện hỗ
trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy nhưng quan trọng hơn cả là việc ý thức được
giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về
phương pháp và chương trình học thì vẫn chưa được chú trọng.
 Một bất cập nữa là phương pháp đánh giá, kiểm tra ở các trường đại học. Hiện tại
các trường đại học đánh giá sinh viên qua 2 kỳ thi: Kiểm tra giữa kỳ chiếm 30%40% điểm số và thi cuối kỳ chiếm 60%-70% là không hợp lý vì không phát huy
được tinh thần tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Theo ý kiến của Thạc sĩ Đào
Đức Tuyên, Phó trưởng khoa Ngoại ngữ Trường ĐH Nông Lâm TP. HCM thì Bộ
GD-ĐT nên quy định bài thi cuối kỳ chỉ chiếm 30% điểm số, 30% điểm số còn lại
căn cứ vào đề tài nghiên cứu, tham gia vào giờ học ở lớp của sinh viên để cho điểm.
Việc đánh giá không nên dựa hoàn toàn vào bài thi mà cần đánh giá sinh viên trong
suốt quá trình học tập.
 Ở cấp độ môn học, hiện không có cơ chế phản hồi về giảng dạy và học tập cho mục
đích cải tiến. Thiếu hẳn cách thức đánh giá thường kỳ.
o Dường như còn phụ thuộc quá nhiều vào các kỳ thi cuối để tính điểm. Sinh viên
không biết được thành tích học tập cho đến cuối khóa học.

12


o Đa số các trường không áp dụng đánh giá khóa học để thu thập phản hồi từ sinh
viên về giảng dạy và học tập.

o Các bài thi và kiểm tra nhanh không được thường xuyên sử dụng để đánh giá sự
lĩnh hội của sinh viên, hoặc để chỉ ra mặt mạnh, mặt yếu của công tác giảng dạy.
o Giảng viên dường như thiếu kiến thức và kỹ năng liên quan đến công tác đánh
giá giảng dạy và học tập.
 Ở cấp độ khoa, không có nhiều công tác đánh giá, dựa trên các dữ liệu đánh giá,
chất lượng các môn học trong chương trình đào tạo và những thành tích của sinh
viên chuyên ngành.
o Chương trình đào tạo và môn học thường không được điều chỉnh hoặc cập nhật
dựa trên các phản hồi về giảng dạy và học tập.
o Bằng chứng trực tiếp về học tập của sinh viên không được sử trong việc đánh giá
các môn học hoặc chương trình đào tạo.
o Thành tích học tập hay những thành công của sinh viên tốt nghiệp không được
giám sát kỹ lưỡng.
o Các chương trình học dường như không được xem xét thường kỳ để liên tục nâng
cao chất lượng, dựa vào các tiêu chuẩn thường được áp dụng tại các trường đại
học hàng đầu trên thế giới.
 Hiệu quả trường không được đánh giá dựa trên kết quả học tập sinh viên và hiệu
quả nghiên cứu.
o Các phạm vi quản lý dường như không chịu trách nhiệm đóng góp vào chất
lượng giảng dạy và học tập.
o Không có nhiều các nguồn lực hỗ trợ cho quy trình đánh giá.
 Kiểm định nhà nước (như đánh giá cuối kỳ) còn đang ở trong giai đoạn đầu của quá
trình thiết lập với một số tiềm năng phát triển.
o Các tiêu chuẩn hiện hành dường như mang tính tuân thủ hơn là đánh giá việc học
của sinh viên và sự liên tục cải tiến.
o Thiếu hụt nguồn nhân lực để trợ giúp cho các trường và các khoa khác nhau.
Công tác quản lý chất lượng đào tạo
 Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn quản lý tập trung, chưa phân cấp đáng kể
cho chính quyền địa phương cũng như chưa có quy chế phối hợp các bộ, ngành.
 Khả năng kiểm soát, đánh giá chất lượng đào tạo, việc chấp hành luật pháp của các

trường và hiệu quả đầu tư của nhà nước ngày càng khó khăn hơn. Với 376 trường

13


trong cả nước, nếu mỗi tuần Bộ GD&ĐT tổ chức kiểm tra 02 trường thì phải mất
hơn ba năm rưỡi mới kiểm tra hết một lượt. Và như vậy, Bộ không thể theo sát hoạt
động cụ thể của từng trường. Trong khi đó, ý thức chấp hành kỷ luật của trường
ĐH, CĐ còn chưa tốt. Được biết hàng năm, gần một nửa số trường ĐH, CĐ không
gửi báo cáo tổng kết về hoạt động của nhà trường cho Bộ GD&ĐT dù được bộ yêu
cầu và nhắc nhở.
 Ngoài ra, hiện chưa có chưa quy định bắt buộc về kiểm tra thực tế điều kiện cần
thiết khi cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh; chế tài xử lý các trường không
thực hiện đúng cam kết đủ mạnh; chưa có quy định các trường phải xây dựng chuẩn
năng lực người tốt nghiệp (chuẩn đầu ra) nên chưa có cơ sở đánh giá đúng chất
lượng đào tạo.
 Cho đến nay chúng ta chưa có đủ cơ sở để đánh giá chất lượng giáo dục của các
trường một cách khách quan, toàn diện và cũng chưa có trường nào công bố chuẩn
năng lực sinh viên tốt nghiệp trường mình.
 Thêm vào đó, hiện nay việc quản lý và chịu trách nhiệm của cơ quan nhà nước về
các trường đại học, cao đẳng rất phân tán. Trong số 376 trường đại học, cao đẳng
trên cả nước, Bộ GD&ĐT chỉ quản lý 54 trường (14%); các Bộ, ngành khác quản lý
116 trường (31%); UBND các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản của 125 trường
(33%); và có 81 trường dân lập, tư thục (22%). Trong khi Bộ GD&ĐT là cơ quan
duy nhất được ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý giáo dục cấp
Bộ nhưng hiện nhiều Bộ, ngành khác cũng như UBND các tỉnh tự ý ban hành các
văn bản chồng chéo. Ngoài ra, chưa có quy chế phối hợp giữa Bộ GD&ĐT và các
Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố về quản lý các trường này.
2.2 NGUYÊN NHÂN
Cơ chế quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo

 Hiện nay, chương trình giáo dục ĐH tại Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả. Nguyên
nhân do Bộ khống chế quá chặt về chương trình khung và yêu cầu các trường phải
tuân thủ một cách cứng nhắc. Trao đổi về vấn đề này, Thầy Ngô Đăng Thành, giảng
viên Trường ĐH Kinh tế TP. HCM đã có ý kiến: “Kiến thức chuyên ngành sinh
viên được học quá ít. Ví dụ, một chương trình cử nhân, bao gồm 125-130 tín chỉ tất
cả các môn, trong đó có khoảng 80-90 tín chỉ là môn chung. Các môn chung của
ngành cũng khoảng 20 tín chỉ nữa. Cho nên những kiến thức sẽ học để sau này sinh
viên đi làm thực tế chỉ còn khoảng 20 tín chỉ nữa, tương đương với 4-5 môn.”
(Nguyễn Hoàng Hạnh, 2008).

14


 Có rất nhiều quy định Bộ GD&ĐT muốn đặt ra để tạo thuận lợi cho các nhà trường
nhưng phải chịu sự chi phối của các quy định của các ngành khác, nhất là về tài
chính và nội vụ. Trong khi đó, khi có những vụ việc xảy ra thì trách nhiệm đều quy
về ngành giáo dục. Và thực tiễn đó dường như đã tác động không nhỏ đến xây dựng
các quy định, quy chế liên quan đến các hoạt động của cơ sở đào tạo theo hướng
“trói chặt”, thậm chí trong nhiều việc Bộ đã đóng vai trò như một trường ĐH, để dễ
quản hơn. Lo lắng cho quyền lợi của người học, trách nhiệm với chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước, cho nên thay vì xây dựng hành lang pháp lý thì Bộ lại cầm
tay chỉ việc; hệ thống quản lý nặng chiều chỉ đạo từ trên xuống, xin từ dưới lên và
cần được điều chỉnh, xây dựng hợp lý đảm bảo hoạt động có hiệu quả, và nâng cao
chất lượng đào tạo đại học hiện nay.
 Cung cách quản lý của Bộ GD&ĐT đã hạn chế quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của các trường. Cho đến nay, trong nhiều hoạt động tác nghiệp, các trường ĐH
không được tự điều hành quản lý mọi công việc của mình và vẫn đang chịu sự chi
phối của Bộ GD&ĐT. Do Bộ thực hiện các hoạt động tác nghiệp của các trường ĐH
nên các trường trở nên thiếu chủ động. Các quy định, quy chế này chưa đầy đủ nên
việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở còn hạn chế. Các quy định về tài

chính chậm đổi mới, còn nhiều bất hợp lý, hạn chế sự năng động, sáng tạo của nhà
trường. Việc quy hoạch, đánh giá đội ngũ hiệu trưởng chưa bảo đảm cho việc có đội
ngũ giảng viên giỏi, có năng lực quản lý, sẵn sàng tham gia lãnh đạo nhà trường
càng cao.
 UBND các địa phương chưa được phân cấp quản lý các trường ĐH, CĐ ngoài công
lập trên địa bàn. Mọi nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học đối với các
trường đại học này đều thuộc Bộ GD&ĐT, trong khi khả năng kiểm soát hoạt động
của các trường trong cả nước của Bộ rất hạn chế. Các trường đại học trong cả nước
đang ở tình trạng bị động trong công tác tuyển sinh, ở hầu hết các khâu: ngày tổ
chức kỳ thi, việc phát hành hồ sơ đăng ký dự thi, nhận hồ sơ, hình thức ra đề, xây
dựng điểm chuẩn, xét tuyển…đều do Bộ quy định, điều hành. Các trường không tự
thiết kế và ấn hành văn bằng và nhiều loại giấy tờ, hồ sơ khác cho sinh viên.
Chính sách đối với giảng viên
 Cơ chế quản lý, sử dụng đội ngũ GVĐH hiện nay không phát huy hết tiềm năng của
cả đội ngũ và từng cá nhân, không kích thích được sự phấn đấu trong chuyên môn;
không sàng lọc được dễ dàng và thường xuyên những người yếu kém. Cơ chế,
chính sách đãi ngộ chưa tương xứng, vẫn dựa chủ yếu vào khối lượng giảng dạy và
thâm niên công tác mà không căn cứ vào thành tích và khả năng nghiên cứu của cá
nhân; chưa bảo đảm cho GVĐH có cuộc sống đủ để có thể toàn tâm, toàn ý cho việc
bảo đảm chất lượng hoạt động giảng dạy và NCKH.

15


 Giảng viên dạy quá nhiều nhưng lương thì thấp (dạy trên 20 giờ một tuần và làm
thêm ngoài giờ để kiếm sống), do đó, khối lượng giảng dạy rất nặng. Họ thiếu thời
gian cần thiết để nâng cao kỹ năng giảng dạy, nội dung môn học, chương trình đào
tạo và khả năng nghiên cứu. Thêm vào đó, không có khen thưởng để khuyến khích
họ cải tiến. Ngoài ra, vì khối lượng giảng dạy nhiều nên các giảng viên không có
thời gian gặp gỡ sinh viên ngoài phạm vi lớp học.

 Một số giảng viên từ nước ngoài về bất mãn trước sự thay đổi chậm chạp do đó
không khuyến khích họ trở về để giảng dạy.
 Chủ trương nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo chưa được cụ thể hóa thành các
quy hoạch, kế hoạch của các trường đại học;
 Công tác đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ GVĐH chưa trở thành điều kiện tiên quyết và bắt buộc đối
với các cơ sở GDĐH và chính đội ngũ GVĐH.
 Công tác quản lý, sử dụng và đánh giá về hoạt động giảng dạy và NCKH còn nhiều
bất cập.
 Công tác quản lý chất lượng
 Hệ thống quản lý chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam còn nhiều điểm chưa phù
hợp như khi ban hành ra cơ chế, chính sách thì việc chỉ đạo thực hiện ở các cấp cơ
sở chưa được triển khai hoạt động nghiêm túc và còn để xảy ra nhiều sai sót do việc
kiểm soát của Bộ còn hạn chế.
 Cán bộ quản lý chất lượng đào tạo đại học hiện đã được quan tâm bồi dưỡng, tuy
nhiên việc phát triển kỹ năng quản lý cho các cán bộ quản lý còn gặp nhiều khó
khăn. Chúng ta chưa đào tạo quản lý giáo dục thật sự bài bản và chưa thấy hết tầm
quan trọng của quản lý giáo dục. Vẫn còn một số cán bộ trong ngành không được
đào tạo chính quy, chỉ đào tạo qua sử dụng mà thôi. Cán bộ quản lý của ngành giáo
dục từ trước tới nay phần nhiều là từ những giáo viên dạy lâu năm, tuy có được đào
tạo giáo viên trẻ nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
 Việc kiểm định chất lượng đào tạo đại học hiện nay đã được đặt ra với các trường
nhằm kiểm định việc đào tạo tại các trường và có biện pháp nâng cao việc đào tạo.
Tuy nhiên việc thực hiện chưa được quán triệt, còn lỏng lẻo trong nhiều khâu và
chưa đem lại kết quả mong muốn.

16


CHƯƠNG 3

KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
3.1 HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI
HỌC Ở VIỆT NAM
Việc hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay
đang trở nên quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Các quy chế
của Bộ GD – ĐT và của nhà nước cần được cụ thể, ban hành rõ ràng từng với từng
cơ quan, tổ chức, các trường cụ thể. Việc chấp hành các quy chế cần được kiểm tra,
kiểm soát chặt chẽ. Và để thực hiện việc kiểm soát tới từng đối tượng thì cần thiết
thực hiện phân cấp trong quản lý. Nhờ việc phân cấp mà có thể giảm gánh nặng
cho Bộ và giúp việc tổ chức thực hiện quản lý được dễ dàng, việc kiểm tra, kiểm soát
được thực hiện thường xuyên hơn.
3.2 CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ
Thực hiện việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý của các trường.
Một số giải pháp chủ yếu để cải cách GDĐH hiện nay là phải cải cách thể chế quản lý
theo hướng xác định tư cách tự chủ của trường ĐH trong việc giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, tài chính, nhân sự..., xác định cơ chế điều tiết thị trường để trường ĐH liên
hệ trực tiếp với xã hội, thị trường lao động. Ngoài ra, còn cần phải kiểm định chất
lượng đào tạo đại học và sắp xếp lại mạng lưới các trường.
Về phía các trường ĐH, CĐ thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển phải
rà soát và hoàn thiện các quy định, quy chế của nhà trường, thực hiện 3 công khai,
thực hiện trả lương gắn với hiệu quả đóng góp.... Và Bộ nên ban hành chính sách, văn
bản đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thể hiện sự quản lý vĩ mô có hiệu quả. Để
việc nâng cao chất lượng đào tạo được thường xuyên, thiết thực thì các trường ĐH,
CĐ phải vừa có quyền tự chủ cao, vừa có nghĩa vụ chịu trách nhiệm rõ ới mà không
phải quản lý mọi mặt của hoạt động giáo dục. Một số người hoài nghi về năng lực của
các Sở GD-ĐT khi thực hiện trách nhiệm quản lý giáo dục ĐH. Ngành giáo dục cần
xác định rõ năng lực, tầm quản lý của Sở GD-ĐT cũng như hành lang pháp lý, lộ trình
thực hiện phân cấp quản lý.
Có thể tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra ở Sở GD- ĐT,
cùng với việc giám sát của giảng viên, sinh viên..., sự hình thành các công cụ pháp lý,

và hỗ trợ của cơ quan quản lý T.Ư (thành lập Hội đồng hiệu trưởng, Hội đồng
trường...) sẽ tạo sự đồng bộ để quản lý quá trình đào tạo tốt hơn. Trong tương lai,
khi giáo dục ĐH chuyển sang giáo dục cho số đông, quy mô giáo dục ĐH gia tăng
17


nhanh, việc phân cấp bước đầu cho chính quyền địa phương tham gia quản lý giáo dục
ĐH cũng có thể xem là bước khởi đầu để chính quyền tham gia ngày một chuyên
nghiràng trước xã hội và Nhà nước. Việc tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm chỉ có
thể làm được khi Chính phủ và Bộ GD-ĐT ban hành đầy đủ các quy chế, quy định
chung liên quan đến các mặt hoạt động của nhà trường. Các trường cần xây dựng kế
hoạch dài hạn, đầu tư cho các khâu, các yếu tố đầu vào của quá trình đào tạo, nâng
cao năng lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chất
lượng đào tạo... Có thể thực hiện "ba công khai" là điều kiện cần thiết và tiên quyết
để tăng quyền tự chủ cho các trường đại học và thực hiện việc đổi mới cơ chế tài chính
giáo dục ĐH có hiệu quả.
Bộ GD- ĐT cần xây dựng một "hành lang pháp lý" đủ rộng và hợp lý, gồm các quy
định, quy chế như điều kiện thành lập trường, mở ngành đào tạo; điều lệ trường
ĐH, CĐ; quy chế đào tạo, tuyển sinh, tuyển dụng; quy định về giáo trình; quy chế
quản lý chất lượng; quy chế quản lý khoa học; quyền hạn và trách nhiệm của giảng
viên; quy chế quản lý tài chính... chủ yếu thuộc trách nhiệm của Bộ GD- ĐT.
Thực hiện phân cấp trong quản lý chất lượng đào tạo đại học
Cần phân cấp cho chính quyền địa phương một số nhiệm vụ quản lý giáo dục đại
học có thể xem là phù hợp với xu hướng cải cách hành chính giáo dục ĐH và phù hợp
với một trong các quy luật quản lý giáo dục.
Chính quyền địa phương chỉ thực hiện một số việc về quản lý giáo dục đại học phù
hợp với năng lực, thẩm quyền và cơ chế mệp hơn trong quản lý giáo dục ĐH trên địa
bàn và khi đó việc thực hiện quyền tự chủ, chịu trách nhiệm giải trình của trường ĐH
mới hiện thực hóa và bền vững.
Sắp xếp lại mạng lưới các trường

Bộ GD- ĐT cùng các ngành liên quan và các địa phương cần sắp xếp lại hệ thống
mạng lưới trường đại học trên cả nước sao cho phù hợp với ngành nghề đào tạo, nâng
cao chất lượng giảng dạy. Việc sắp xếp mạng lưới các trường đại học không nhằm
thu hẹp sự phát triển, mà phải tạo được điều kiện để tiếp tục mở rộng quy mô, nâng
cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống giáo dục đại học trong cả nước, phục vụ tốt
hơn cho việc đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo cho đất
nước một đội ngũ lao đông chất lượng cao. Xoá bỏ những bất hợp lý đang tồn tại
trong mạng lưới trường học: chuyên ngành đào tạo quá hẹp, tình trạng khép kín, cục
bộ trong hoạt động đào tạo giữa các trường, phân tán, trùng lặp nhiệm vụ đào tạo trên
một địa bàn. Tạo sự liên thông trong hệ thống, xây dựng mối liên kết giữa các
trường và các ngành để sử dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất
phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu.

18


Bộ GD- ĐT cần thực hiện đa dạng hoá các hình thức đào tạo chính quy và không
chính quy, các loại hình trường công lập, dân lập, bán công, gắn chặt quá trình đào tạo
với yêu cầu sử dụng lực lượng lao động xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và
nghiên cứu khoa học với thực nghiệm trong sản xuất.
Thực hiện phân bố hợp lý mạng lưới trường theo ngành và lãnh thổ, trường đại học
và cao đẳng bố trí ở các thành phố và các vùng kinh tế lớn. Xây dựng các trường đại
học lớn đa ngành có trình độ cao về nghiên cứu khoa học và đào tạo.Tiến hành khẩn
trương, kiên quyết việc thực hiện tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới trường, nhưng
chuẩn bị kỹ, có bước đi cụ thể, không gây xáo trộn lớn trong toàn bộ hệ thống. Bộ
Giáo dục và Đào tạo chủ trì xây dựng những chính sách, chế độ cụ thể về tổ chức và
cán bộ của các trường, về tài chính, về chế độ quản lý của Bộ và của Uỷ ban Nhân
dân tỉnh, thành phố đối với các trường,bảo đảm cho các trường sau khi sắp xếp lại có
điều kiện hoạt động tốt hơn trước.
Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý đào tạo đại học

Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý chất lượng đào tạo đại học nên được chú ý và
quan tâm của Bộ. Cần cử cán bộ quản lý có năng lực đi học ở nước ngoài để tiếp thu
những cách quản lý tiên tiến của các nước đó và áp dụng các phương pháp đo có hiệu
quả và phù hợp với nền ĐH trong nước, góp phần nâng cao việc quản lý chất lượng
đào tạo đại học hiện nay.
Cần đào tạo cho người cán bộ quản lý chất lượng đào tạo kiến thức, kỹ năng và kinh
nghiệm để họ thực hiện tốt công việc của mình.Người cán bộ quản lý cần phải nhìn
thấy tương lai của giáo dục, thấy sự đổi mới trong ngành và phải có triết lý về giáo
dục, nhìn ra ngoài thế giới để biết sự phát triển của các nước tiên tiến. Người cán bộ
quản lý phải biết điều phối, kiểm tra, lập dự án… cho việc quản lý chất lượng đào tạo
trong các trường đại học.
Đổi mới tư duy là điều kiện tiên quyết, trong đó đổi mới quản lý là nhiệm vụ hàng đầu
trong bước đột phá của hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam. Muốn phát triển giáo dục ĐH
VN, tất yếu phải củng cố và phát triển đội ngũ quản lý, với yêu cầu những người này
phải giàu năng lực tư duy đổi mới, giàu trí tuệ và khoa học; nếu không chuẩn bị tốt
đội ngũ quản lý thì các điều kiện và thành tố tiếp theo dẫu có được chuẩn bị tốt và
chu đáo đến đâu cũng không thể nào tạo ra một hệ thống giáo dục tốt đẹp được.
Kiểm định chất lượng đào tạo đại học
Bộ GD&ĐT đẩy mạnh việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo
hướng đẩy nhanh tiến độ tự đánh giá của các trường, xây dựng tiêu chuẩn và hình
thành một số cơ quan kiểm định chất lượng độc lập. Cần thực hiện việc hậu kiểm việc
mở trường, nâng cao chất lượng đào tạo, quy định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý

19


ngành... Các quy trình, quy định về thành lập trường phải được thực hiện nghiêm túc,
cương quyết đình chỉ hoạt động, sáp nhập, giải thể đối với các trường thành lập không
thực hiện đúng cam kết.
Việc kiểm định và kiểm tra chất lượng đào tạo đại học đóng vai trò quan trọng trong

việc soát xét lai các quá trình đã thực hiện. Kiểm định chất lượng không những mang
lại cho cộng đồng bằng chứng về chất lượng đào tạo đại học mà còn mang lại cơ hội
và động cơ để nâng cao chất lượng cho các trường đại học đã qua kiểm định. Một
trường đại học chỉ được công nhận đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chí của Hội
đồng sau khi nhà trường chịu sự kiểm tra của các cán bộ đánh giá giàu kinh nghiệm
và hiểu các yêu cầu kiểm định của giáo dục đại học. Quá trình kiểm định cũng mang
lại cho các trường đã qua kiểm định cơ hội tự phân tích đánh giá để có những cải
tiến về chất lượng.

20



×