Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học NGUYÊN lý PHÁT TRIỂN của PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật, ý NGHĨA của nó TRONG NÂNG CAO NHẬN THỨC về CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.6 KB, 23 trang )

NGUYÊN Lý Về Sự PHáT TRIểN CủA phép biện chứng DUY VậT .
ý NGHĩA CủA Nó TRONG NÂNG CAO nhận thức Về CON đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất và
thống nhất – thế giới vật chất. Tính thống nhất của thế giới không chỉ được
hiểu một cách đơn giản là vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, một thế giới bao la rộng lớn “vơ thuỷ, vơ
chung” (khơng có đầu, mà cũng chẳng có cuối), thế giới thống nhất ở tính vật
chất; mà cịn phải hiểu rằng, trong thế giới có vơ số các sự vật hiện tượng
khác nhau, chúng tồn tại trong mối liên hệ thống nhất biện chứng, tác động
qua lại ảnh hưởng lẫn nhau, chúng luôn vận động biến đổi và phát triển khơng
ngừng.
Do đó, để cải tạo thế giới, con người phải có nhận thức đúng về nó,
nhận thức được các nguyên lý, quy luật vận động của thế giới, từ đó tìm ra
phương pháp tác động đúng, thúc đẩy sự vật hiện tượng phát triển đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Muốn vậy, tư duy của con người
không thể nghèo nàn, chết cứng, hay cô lập tách rời; mà phải phong phú, sinh
động, linh hoạt, nhìn nhận và xét đốn sự vật hiện tượng phải khách quan,
toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quá trình vận động, phát triển của các
sự vật hiện tượng trong thế giới diễn ra như thế nào, do đâu mà có sự vận
động, phát triển ấy, những vấn đề này đã được phép biện chứng duy vật Mác
xít nói chung, ngun lý về sự phát triển nói riêng đã làm rõ; đây cũng chính
là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nâng cao nhận thức, hiểu biết đúng đắn
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.


1. Một số vấn đề cơ bản về nguyên lý phát triển của phép biện chứng
duy vật mác xít.
Phép biện chứng duy vật Mác xít là sản phẩm của sự kết hợp nhuần


nhuyễn giữa điều kiện khách quan (nhất là những cống hiến của phép biện chứng
trong lịch sử) và nhân tố chủ quan (sự thiên tài, tình bạn vĩ đại, tâm huyết của hai
ông). Theo Ph. ăngghen, phép biện chứng chẳng qua là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và của tư
duy. Phép biện chứng đã xuất hiện từ thời cổ đại, nhưng thời kỳ đó chỉ mang tính
chất mộc mạc, ngây thơ, trực quan, như tư tưởng biện chứng của các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng biện chứng của triết học Phật giáo, chưa có cơ sở
khoa học để chứng minh cho nó. Phép biện chứng cũng đã có thời kỳ gắn liền
với chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị, phản ánh
sai lệch hiện thực khách quan, ít có tác dụng trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Chỉ đến thời kỳ của Các Mác và Ph. ăngghen, hai ông mới làm cho phép biện
chứng thực sự quyện chặt với chủ nghĩa duy vật, tạo thành chủ nghĩa duy vật
biện chứng và phép biện chứng duy vật thực sự, có giá trị to lớn trong quá trình
nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra sự khác hẳn về chất so với các hình thức của
phép biện chứng đã tồn tại trong lịch sử. Phép biện chứng duy vật phản ánh một
cách khách quan, tồn diện tồn bộ q trình vận động và phát triển của thế giới
thông qua hệ thống những nguyên lý, phạm trù và quy luật cơ bản của mình;
giúp cho con người ln nhìn nhận, thấy rõ tính phong phú mn vẻ, tính vận
động và phát triển khơng ngừng của thế giới vật chất, từ đó các chủ thể có một
cách nhìn biện chứng về thế giới, để khám phá ra phương pháp hành động thích
hợp tác động vào thế giới một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của con người
và xã hội. Trong hệ thống những nguyên lý ấy, có nguyên lý về sự phát triển của


phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, trạng thái, cách thức, khuynh
hướng quá trình vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới.
Các ngành khoa học đã chứng minh, mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong
thế giới không tách rời nhau, khơng chỉ nương tựa, xâm nhập vào nhau, mà
chúng cịn có q trình phát sinh, phát triển và diệt vong (sinh, trụ, dị, diệt, hoặc
thành, trụ, hoại, khơng). Do đó, phép biện chứng duy vật Mác xít phát hiện ra sự

phát triển của các sự vật hiện tượng đó là một thành tựu to lớn trong lịch sử triết
học nhân loại, đặc biệt khi sự phát triển ấy được khái quát và xây dựng thành
một nguyên lý thì giá trị của nó càng to lớn hơn nhiều, ngày càng trở thành cơ sở
lý luận khoa học và cách mạng cho các đảng cộng sản, phong trào công nhân
quốc tế cũng như toàn nhân loại tiến bộ trên thế giới trong quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn, với một niềm tin tưởng cao hơn và
vững chắc hơn.
Theo quan điểm của phép biện chứng duy vật Mác xít, phát triển là một
phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp lên
cao, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, phát triển là một trường
hợp đặc biệt của vận động. Phát triển cũng là một hình thức vận động, cũng là
một kiểu vận động, nhưng thông qua kiểu vận động đặc biệt này sẽ cho ra đời
một “cái mới” hơn hẳn về chất so với cái cũ (cao hơn và hoàn thiện hơn cái cũ).
Như vậy, không phải mọi sự vận động đều được coi là phát triển, mặc dù có năm
hình thức vận động cơ bản của thế giới vật chất (vận động cơ học, vận động vật
lý, vận động hoá học, vận động sinh học và vận động xã hội), nhưng chỉ những
hình thức vận động nào, những sự vận động nào làm cho các mặt, các thuộc tính
của sự vật hiện tượng, hoặc làm cho bản thân sự vật hiện tượng đó tiến lên từ
đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn
thiện hơn, sự vật hiện tượng có một bước nhảy vọt về chất, cái mới được ra đời


phủ định cái cũ, đó mới được coi là sự phát triển, sự phát triển ấy là một quá
trình “của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Như sự phát triển của
một con người từ khi được sinh ra, lớn lên – trưởng thành – hồn thiện hơn về
mọi mặt (cả về hình dáng, kích thước, thể
chất, trình độ.v.v.). Quan điểm của phép biện chứng duy vật khác hẳn, thậm chí
cịn đối lập với quan điểm duy vật siêu hình khi bàn về sự phát triển, nếu như
phép biện chứng duy vật cho rằng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật hiện tượng, là q trình có sự nhảy vọt về chất, có sự ra đời của cái mới (từ A

thành A’, thành A’’…) thì quan điểm duy vật siêu hình cho rằng sự vật hiện
tượng khơng có sự phát triển, hoặc nếu có thừa nhận sự phát triển của sự vật hiện
tượng, thì đó chẳng qua chỉ là sự tăng lên về mặt số lượng một cách đơn thuần
chứ khơng có sự nhảy vọt về chất, sự phát triển diễn ra theo đường trịn khép kín
(từ A đến A), chứ khơng phải theo đường xoắn ốc vô tận. Như thế, quan điểm
siêu hình về sự phát triển của sự vật hiện tượng, thực chất là khơng thừa nhận có
sự phát triển, đó chỉ là sự vận động dẫn đến sự lặp lại sự vật hiện tượng cũ một
cách ngun si, khơng có sự ra đời của cái mới. Khi so sánh phương pháp biện
chứng và phương pháp siêu hình, V.I. Lênin viết: “Hai quan niệm cơ bản…về sự
phát triển (sự tiến hoá): sự phát triển coi như là sự giảm đi và tăng lên, như là sự
lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi
của cái thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn
nhau giữa những mặt đối lập)…quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô
khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa
khố của sự (tự vận động) của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta
chìa khố của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của
sự “chuyển hố thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh ra cái
mới”1.
1

. V.I. Lênin toàn tập, tập 29, bản tiếng việt, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va 1981, tr.379.


Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật hiện tượng, đó là q trình tự thân vận động, tự thân phát triển; sự
phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới đều có nguyên nhân, nguồn
gốc từ bên trong của bản thân sự vật hiện tượng, do quá trình đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn, chứ khơng phải do “cái hích” của thượng đế, hoặc do “cái đẩy”
của một đấng siêu nhiên nào, cũng khơng phải do có sự tác động từ bên ngoài
vào sự vật hiện tượng như quan điểm của một số nhà duy tâm, siêu hình quan

niệm; sự tác động từ bên ngồi sự vật hiện tượng (khơng phải thần linh, thượng
đế) chỉ làm tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình phát triển của chúng, chứ khơng
phải là ngun nhân hay nguồn gốc của sự phát triển ấy. Xã hội loài người muốn
tồn tại và phát triển cũng vậy, trước hết xã hội đó phải tự giải quyết được những
mâu thuẫn trong lòng xã hội, như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất về mặt kinh tế, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng về mặt cấu
trúc xã hội, giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp.v.v. Bản thân con người
muốn phát triển được cũng phải tự giải quyết rất nhiều mâu thuẫn ngay ở bên
trong con người, như mâu thuẫn giữa quá trình hấp thụ và bài tiết, giữa đồng hoá
và dị hoá, giữa nhu cầu và khả năng, giữa cái muốn biết và cái chưa biết.v.v. chỉ
khi nào những mâu thuẫn cơ bản của sự vật hiện tượng được giải quyết, khi đó
mới có sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất và sự ra đời của cái mới. Song khơng
phải cứ có mâu thuẫn là lập tức có ngay kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn ấy,
có ngay sự nhảy vọt về chất, mà chính ngay bản thân mâu thuẫn đó cũng phải
trải qua một q trình phát triển (có thể là lâu dài, có thể là nhanh chóng, điều
này tuỳ thuộc vào tính chất của sự vật hiện tượng, của mâu thuẫn và phụ thuộc
vào điều kiện hồn cảnh cụ thể), mâu thuẫn đó phải vận động phát triển bắt đầu
từ sự khác biệt, đến sự đối lập, đến mâu thuẫn và mâu thuẫn gay gắt khơng thể
điều hồ, tạo nên những “cuộc xung đột” giữa các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn. Đồng thời với quá trình phát triển của mâu thuẫn là quá trình diễn ra sự


tích luỹ dần dần về lượng- lượng của chất- của sự vật hiện tượng, cũng chính sự
tích luỹ về lượng này đã làm cho mâu thuẫn có sự vận động phát triển đến đỉnh
cao của nó, đến khi nó khơng thể giữ nguyên được trạng thái như cũ nữa, tức là
mâu thuẫn đó phải được giải quyết, sự thống nhất cũ phải được phá vỡ để thiết
lập một sự thống nhất mới, cái chất cũ đến đây đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, khơng
cịn phù
hợp với điều kiện hồn cảnh mới nữa, địi hỏi phải có một chất mới, một sự vật
hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật hiện tượng cũ; đó cũng là lúc sự vận động

của lượng đã vượt quá giới hạn (gọi là độ) đạt đến điểm nút, cái giới hạn mà ở
trong đó đã diễn ra sự biến đổi về lượng (cũ) đến đây cũng bị phá vỡ, thay
vào đó là một giới hạn mới được thiết lập và tất nhiên lại có một sự biến đổi mới
về lượng ở trong giới hạn mới này. Đến đây ta có thể khẳng định: mâu thuẫn đã
được giải quyết, chất cũ đã bị chất mới phủ định, sự vật hiện tượng cũ đã bị sự
vật hiện tượng mới phủ định (cái mới đã ra đời thay thế cái cũ).
Sự phát triển của sự vật hiện tượng thường là một quá trình lâu dài, liên
tục, do đó chúng ta khơng được nóng vội, áp đặt dễ dẫn đến chủ quan, duy ý chí.
Chúng ta chỉ có thể nhận biết q trình đó, tác động vào, định hướng cho sự phát
triển đó nhanh hơn để có tác dụng tốt hơn cho nhu cầu của con người. Khi nói về
q trình phát triển lâu dài trong lịch sử, giáo sư Trần Xn Trường đã phân tích
sự chuyển hố lâu dài của thời kỳ quá độ, từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội
khác, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cũng phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài, mức độ lâu dài còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, như khả năng thích
nghi để tồn tại và tiếp tục phát triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng đi lên cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước.v.v.và theo ông, hiện nay do một số
người nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc tính chất phức tạp, lâu dài của thời kỳ
quá độ từ chủ nghĩa tư bản len chủ nghĩa xã hội, nên có người đã tự đánh mất


niềm tin, dao động về lập trường tư tưởng, ông viết: “Họ quên rằng trong lịch sử
của mình từ chế độ xã hội này sang chế độ xã hội khác, nhân loại cũng đã phải
trải qua những thời kỳ quá độ quá dài không phải diễn ra trong mấy chục năm
mà hàng mấy trăm năm”, và ơng đã lấy ví dụ “chế độ phong kiến châu Âu đã
phải mất gần 200 năm mới thay đổi hoàn toàn chế độ chiếm hữu nơ lệ”, qua phân
tích lịch sử của nước Anh, Pháp, ơng đã kết luận: “Như vậy, nếu tính sự khởi đầu
từ nước Anh đến nước Pháp và cả châu Âu, thời đại quá độ từ chủ nghĩa phong
kiến lên chủ nghĩa tư bản ở
châu Âu, ở Bắc Mỹ cũng phải gần 200 năm. Nếu tính đến q trình thực dân hố
sau này của chủ nghĩa tư bản trên tồn thế giới thì thời gian cịn dài hơn nữa” 2.

Thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước trên thế giới,
trong đó có cả Việt Nam, đã từng có thời kỳ nóng vội, chủ quan, áp đặt dẫn đến
một số sai lầm không những chẳng làm tăng nhanh quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, mà ngược lại cịn làm kìm hãm q trình đó, thậm chí có nơi cịn bị lâm
vào khủng hoảng trầm trọng, mất chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, tình hình chính
trị mất ổn định, nền kinh tế bị tụt lùi nghiêm trọng, nhiều vấn đề về văn hoá xã
hội bị xuống cấp.v.v. như một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng âu và Liên Xơ
trước đây.
Q trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới không phải đi
theo đường thẳng, mà theo đường xoắn ốc; chúng phải trải qua nhiều lần phủ
định biện chứng, với những chu kỳ (vòng khâu của sự phát triển) khác nhau, mỗi
chu kỳ phát triển lại có hai lần phủ định cơ bản và có thể có nhiều lần phủ định
không cơ bản. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần một tạo ra cái đối lập với cái ban
đầu, giai đoạn này còn được gọi là khâu trung gian trong quá trình phát triển của
sự vật hiện tượng. Khi kết thúc phủ định cơ bản lần hai tạo ra một sự vật hiện
2

. Giáo sư Trần Xuân Trường, “định hướng XHCN ở Việt Nam một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb CTQG,
H.1996, tr. 17-18.


tượng mới có nhiều thuộc tính giống như cái ban đầu, nên đôi khi tưởng là cái
ban đầu, nhưng thực chất nó khơng phải là cái ban đầu, mà là cái mới, là cái
dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới kết thúc
một chu kỳ phát triển của sự vật hiện tượng. Song, q trình phát triển của sự vật
hiện tượng khơng phải chỉ có một chu kỳ, mà có thể có nhiều chu kỳ phủ định,
với những tính chất mức độ khác nhau; cứ kết thúc chu kỳ này lại có sự ra đời
của chu kỳ mới.
Do sự vật hiện tượng có nhiều mặt, nhiều thuộc tính khác nhau, nên vận
động biến đổi về lượng, sự vận động phát triển của các loại mâu thuẫn, sự nhảy

vọt về chất của chúng diễn ra rất phong phú, đa dạng, làm cho sự ra đời của cái
mới cũng rất đa dạng, phong phú muôn vẻ. Cái mới ra đời không nhất thiết khi
nào cũng phải là cả toàn bộ sự vật hiện tượng, mà có thể cái mới ra đời chỉ ở mặt
này, mặt kia; cũng như sự chuyển hóa, sự nhảy vọt về chất vừa có những bước
tồn bộ, vừa có những bước cục bộ, bộ phận. Điều đó cho thấy, quá trình nhận
thức và cải tạo thế giới con người phải ln có cách nhìn biện chứng, phải vừa
thấy cái tồn bộ, đồng thời vừa thấy cái bộ phận, cái cụ thể, tránh phiến diện
hoặc chung chung, đại khái, qua loa cho xong việc; từ đó tìm ra nhiều phương
pháp tác động phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất.
Hình ảnh đường xoắn ốc cho thấy, quá trình phát triển của các sự vật hiện
tượng trong thế giới diễn ra quanh co, phức tạp, khó khăn, có thể có những bước
thụt lùi tạm thời. Bước thụt lùi này chỉ như một giai đoạn có thể diễn ra, nằm
trong q trình phát triển của sự vật hiện tượng, chứ không được cho rằng bước
thụt lùi ấy cũng là một sự phát triển – hai cách hiểu đó hồn tồn khác nhau. Do
sự đa dạng, phong phú mn hình, mn vẻ của thế giới vật chất, nên khả năng
xảy ra bước thụt lùi này cũng rất phong phú, đa dạng, chúng có thể xảy ra ở mặt
này hay mặt khác, ở nơi này hoặc nơi khác trong quá trình phát triển của sự vật


hiện tượng. Vì vậy, chúng ta khơng nên bi quan, chán nản, nghi ngờ và thiếu
niềm tin vào sự thắng lợi của cái mới, nhất là khi cái mới vừa được “thốt thai”
từ trong lịng cái cũ, cái cũ chẳng những cịn rất mạnh, mà chúng cịn có khả
năng “thích nghi”, còn đang được “che giấu”rất tinh vi xảo quyệt để tiếp tục tồn
tại và phát triển cùng với cái mới; cái mới ra đời thường còn rất non yếu, bản
thân “sức đề kháng” của cái mới chưa đủ sức chống lại sự tấn cơng từ nhiều phía
của những cái đối lập, chưa thực sự “quen” với môi trường hiện tồn. Do đó, sự
thụt lùi, sự thất bại của cái mới ở giai đoạn đầu này cũng là điều dễ hiểu, đòi hỏi
con người phải nhận biết được vấn đề này để vạch ra cách thức, bước đi, cách
làm phù hợp, hạn chế tối đa những tổn thất đáng tiếc đi đến thành cơng. Bên
cạnh đó, chúng ta vừa cần có thái độ dứt khốt ủng hộ, bảo vệ cái mới, vừa tạo

điều kiện cho cái mới phát triển. Đồng
thời, cần phân biệt rõ cái mới thực sự và cái mới giả hiệu – giả danh để kịp thời
ngăn chặn, loại trừ. Cái mới thực sự là cái ra đời hợp quy luật, mang nội dung mới
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những yếu tố cịn phù hợp của cái cũ, là cái khác
hẳn về chất so với cái cũ, mặc dù có thể cái mới cịn nhiều mặt non yếu, chưa theo
kịp yêu cầu đòi hỏi của điều kiện khách quan, nhưng cái mới bao giờ cũng là cái
tất thắng. Vì lẽ đó, trong cuộc sống cũng như trong quá trình hoạt động thực tiễn,
một mặt, chúng ta luôn chú trọng hướng tới cái mới, phát hiện ra cái mới một cách
nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển của nó một cách vừa sâu sắc, vừa tồn diện;
mặt khác, chúng ta cần phải ln tỉnh táo, sắc sảo trong phân biệt cái mới với cái
cũ, cái mới thực sự với cái mới giả hiệu. Tích cực hoạt động thực tiễn để làm
chuyển biến “tương quan lực lượng” giữa cái mới và cái cũ, làm cho cái cũ mất
dần đi, cái mới ngày càng mạnh lên.
Xuất phát từ đặc điểm, tính chất, trạng thái, cách thức của quá trình vận
động phát triển của sự vật hiện tượng, nên có thể có nhiều giai đoạn phát triển


khác nhau, đòi hỏi con người phải nhận thức được từng giai đoạn phát triển ấy,
vạch rõ được những đặc điểm, dự báo khuynh hướng cũng như một số khả năng
ngẫu nhiên có thể xảy ra của từng giai đoạn. Trên cơ sở đó dự kiến các “phương
án” để bảo vệ và phát triển cái mới, đáp ứng nhu cầu của mỗi con người và toàn
xã hội. Tránh xem xét cứng nhắc, bảo thủ, định kiến hoặc tuyệt đối hóa bất kỳ
mặt nào, giai đoạn nào trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Tuỳ theo
từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo khả năng của từng sự vật hiện tượng
mà đặt ra yêu cầu đòi hỏi “vừa sức” ở sự phát triển của sự vật hiện tượng, đồng
thời cần phát huy tốt vai trị tích cực, chủ động, sáng tạo của con người để tạo ra
sự thuận lợi cho sự phát triển của sự vật hiện tượng, nhất là trong việc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển là một trong hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật, nó đã vạch rõ nguồn gốc, cách thức, con đường quá

trình phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Đây là cơ sở lý luận
khoa học và cách mạng cho con người đi nhận thức và cải tạo thế giới. Sự ra đời
của cái mới là một tất yếu khách quan, hợp quy luật. Vận dụng nội dung của
nguyên lý phát triển vào nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay là một việc cần thiết và quan trọng.
2. ý nghĩa trong nâng cao nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta hiện nay.
Sự phát triển của xã hội lồi người khơng phải là một q trình biến đổi
lộn xộn, tồn những ngẫu nhiên, mà là một q trình biến đổi có quy luật, gắn
liền với vai trị của con người một cách chặt chẽ, sự phát triển đó được đánh dấu
bằng tiến bộ xã hội, biểu hiện ở sự phát triển không ngừng của lực lượng sản
xuất và kế tiếp nhau của các nền văn minh. Mỗi giai đoạn chuyển giao từ hình
thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác đều có một thời kỳ quá


độ, đó là thời kỳ cịn tồn tại đan xen giữa những yếu tố tàn dư của xã hội trước
đó với những yếu tố mới, nhân tố mới của xã hội mới ra đời. Do vậy, việc nhận
thức đúng và xác định đúng con đường phát triển mới của mỗi quốc gia, dân tộc
là vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Dưới ánh sáng lý luận Mác-Lênin về nguyên
lý phát triển, chúng ta sẽ có cơ sở nhận thức đúng đắn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và
công nghệ, sự “rạn nứt”, sụp đổ của một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
và Liên Xô, nhiều học giả (nhất là các học giả tư sản) đã đưa ra nhiều học thuyết
khác nhau về sự phát triển trong tương lai của nhân loại. Có học giả cho rằng, cả
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa đều phải có bước “cải tổ”,
“cải biến” lại; cũng có quan điểm cho rằng ngày nay khơng nhất thiết phải đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, mà có thể đi theo con
đường khác, hướng phát triển khác, hướng phát triển đó là gì, con đường đó là
gì, theo họ đó là cả hai cùng hướng tới một “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội

siêu công nghiệp” hoặc tạm gọi là “xã hội hậu tư bản”, đại biểu như Avin
Tôphlơ, J.Kgalbraith, Paul A.Samuelson, Peter F.Ducker. Đặc biệt trong
“thuyết hội tụ” của mình, học giả tư sản Mỹ- Avin Tôphlơ đã lý giải rằng, xã hội
tư bản chủ nghĩa cũng hướng tới cái đích là xã hội cơng nghiệp, xã hội xã hội
chủ nghĩa cũng hướng tới cái đích ấy, nên cả hai chế độ xã hội này sẽ đều gặp
nhau, cùng “hội tụ” tại một điểm đó là “xã hội hậu cơng nghiệp”, do đó, khơng
cần phải xác định là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa.
Qua đây cho thấy thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp vẫn là giữa hai con
đường đi lên chủ nghĩa tư bản và đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra gay gắt, cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận vẫn gay go, phức tạp; vì vậy, việc xác
định đúng đắn con đường cho cách mạng các nước đang phát triển trên thế giới
nói chung, Việt Nam nói riêng khơng phải là vấn đề đơn giản, địi hỏi giai cấp


lãnh đạo, các đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin, nhất là
nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật Mác xít, phải tỉnh táo,
sáng suốt hơn nữa trong quá trình lựa chọn đường đi cho phù hợp với quy luật
phát triển khách quan của xã hội loài người. Hơn nữa, trong bối cảnh chủ nghĩa
xã hội đang lâm vào khủng hoảng như hiện nay, đang làm chao đảo khơng ít
những người cộng sản, thậm chí có người cịn nghi ngờ cả chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam cũng cảm thấy như bị “hụt
hẫng”, nuối tiếc thành quả cách mạng của chủ nghĩa xã hội sau gần 70 năm tồn
tại và phát triển, thành quả đó phải đánh đổi bằng xương máu mới có được. Vì
vậy, việc tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay là một sự đúng đắn, một sự nhất quán cả về nhận thức và hành động, cả về lý
luận và thực tiễn. Chúng ta không thể đi lên xây dựng đất nước Việt Nam theo
bất kỳ một con đường nào khác ngoài con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn từ hàng mấy chục năm qua. Do đó, cần nhận thức
đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về con đường đang đi của cả dân tộc, để từ đây có
hành động đúng hơn, tốt hơn cho cơng cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, xây

dựng chế độ xã hội chủ nghĩa- xã hội ưu việt nhất hiện nay ở nước ta.
Mặc dù hiện tại đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang cịn mn vàn khó
khăn, thách thức, phức tạp, cịn đầy dãy những chông gai, cản trở, nhưng chúng
ta vẫn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhất định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ thành cơng.
Bởi vì, thứ nhất, chúng ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn hợp
quy luật phát triển khách quan của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế chung
của thời đại. Tuy chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xơ khơng cịn ngun
nghĩa như trước những năm 1991, nhưng vài năm gần đây, sau quá trình được
“kiểm chứng” tất cả những gì diễn ra sau sự sụp đổ ấy, nhân loại trên tồn thế
giới nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng đang ngày càng thấy rõ “bộ mặt”


thật của một chế độ xã hội không phải là chế độ xã hội chủ nghĩa. Tình hình
chính trị mất ổn định, các cuộc khủng bố đẫm máu, xung đột sắc tộc…xảy ra
triền miên, nền kinh tế bị kìm hãm, đời sống của đại bộ phận nhân dân ở các
nước đó bị đảo lộn và ngày càng xuống cấp một cách trầm trọng, các cuộc chạy
đua về chính trị, chạy đua vào các vị trí lãnh đạo xã hội ngày càng làm gia tăng
kiểu “dân chủ vơ chính phủ”, làm rối loạn trật tự xã hội ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Nhưng ở Việt Nam chúng ta thì hồn tồn ngược lại, tình hình chính trị ổn
định, các dân tộc anh em ngày càng đoàn kết chặt chẽ; nền kinh tế ngày một phát
triển mạnh hơn, đời sống của đại bộ phận quần chúng nhân dân từng bước được
cải thiện, sự thành cơng của đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X, của cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khoá XI.v.v. là những cơ sở thực tiễn sinh động minh chứng
cho sự lựa chọn đúng đắn con đường đang đi của dân tộc. Hơn nữa, hiện nay trên
thế giới đã và đang xuất hiện một số nước tuyên bố đi lên theo con đường chủ
nghĩa xã hội, như Vênêzuêna, Bơlivia; có một số nước mặc dù khơng tun bố,
nhưng qua những hoạt động thực tiễn của họ, chúng ta có thể nhận thấy họ đang
từng bước “đặt chân” vào con đường của chủ nghĩa xã hội; ở một số nước khác
như Achentina, Brazin…thì các đảng cộng sản hoặc phong trào cánh tả đang

đẩy
mạnh hoạt động của mình theo hướng chủ nghĩa xã hội; hoặc như “ngay ở các
nước Liên Xô cũ và Đông Âu, người ta đang thấy sự xuất hiện nhiều dấu hiệu
tích cực mới, báo trước một sự phục hồi ý thức và tổ chức cách mạng của nhân
dân khi nhân dân trải qua kinh nghiệm chính trị khắc nghiệt của bản thân đang
được gỡ bỏ nốt những ảo tưởng cuối cùng. Những người cộng sản và nhân dân
lao động ở các nước đó đã nhận rõ bản chất của cái gọi là “cải tổ” phản cách
mạng tiến hành ở đất nước họ”3.

3

. SĐD, tr..20.


Đứng trước những ung nhọt, khuyết tật cố hữu và những “căn bệnh” mới
nảy sinh của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư sản vẫn phải thừa nhận một tất yếu
khách quan rằng, quá trình phát triển của xã hội loài người sẽ phủ định xã hội tư
bản đương thời để tiến lên xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Tuy họ khơng
giám tun bố đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng thông qua những hoạt
động thực tiễn của họ ta thấy có xu hướng, nguyện vọng muốn đi lên chủ nghĩa
xã hội. Giáo sư Trần Xuân Trường viết: “Những nhà tư tưởng tư sản ít nhiều có
tinh thần khách quan khoa học ngày nay đã nhận thấy sự cần thiết phải phủ định
chủ nghĩa tư bản dưới hình thức hiện nay, phủ định những ung nhọt, khuyết tật
của nó để thay bằng một trật tự xã hội tốt đẹp hơn, đáp ứng đầy đủ hơn ước mơ,
nguyện vọng và quyền lợi chân chính của con người”4.
Bên cạnh đó, nếu xét sự phát triển của xã hội loài người từ cộng sản
nguyên thuỷ lên chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa (mà giai đoạn đầu của nó là xã hội chủ nghĩa), thì đây chính là một
biểu hiện khá sinh động về một chu kỳ phủ định biện chứng. Mà như thế cũng
đồng nghĩa với việc phát triển tất yếu từ chế độ xã hội không có giai cấp, trải qua

các chế độ xã hội có giai cấp và lên xã hội khơng có giai cấp. Nhưng xã hội
khơng có giai cấp ở kết quả của phủ định lần hai này không giống nguyên si như
xã hội cộng sản nguyên thuỷ- một xã hội vừa mới “thốt thai” từ lồi động vật
thuần t, mà trên cơ sở cao hơn, khác hẳn về chất so với tất cả các chế độ xã hội
đã tồn tại trong lịch sử. Ví dụ như, ở thời kỳ nguyên thuỷ, con người lao động
sản xuất chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm, cơng cụ lao động chủ yếu là cành cây,
hịn đá, rồi đến đồ đồng, đồ sắt…nhưng đến thời kỳ cộng sản chủ nghĩa, con
người lao động trong điều kiện tự động hoá cao, làm theo năng lực và hưởng
theo nhu cầu, con người có điều kiện phát triển tồn diện nhất.

4

. SĐD, tr. 12.


Thứ hai, xuất phát từ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới- xã hội chủ
nghĩa, một chế độ xã hội ra đời đối lập với chế độ xã hội cũ trước đó- chế độ xã
hội tư bản chủ nghĩa. Đây là một biểu hiện của sự phủ định lần hai trong quá
trình phát triển của xã hội, sự xuất hiện của xã hội mới đối lập với xã hội trước
đó để dường như lặp lại xã hội ban đầu, nhưng trên cơ sở cao hơn. Vì lẽ đó,
chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng phải là việc làm áp đặt, mà hồn tồn là
do địi hỏi của khách quan lịch sử, mục đích đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta chỉ là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, con người được phát triển toàn diện, khơng có áp bức bóc lột.v.v.điều này
hồn tồn phù hợp với tư tưởng của các nhà kinh điển mác xít, các ơng cho rằng:
“Chủ nghĩa cộng sản khơng phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải
là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là
một phong trào hiện thực, nó xố bỏ trạng thái hiện nay”5. Nên một mặt, Đảng ta
tích cực chăm lo cho dân, quyết tâm thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”, phát huy vai trò to lớn của tồn dân trong q trình

cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa; mặt khác nhân dân ta
vẫn một lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của một đảng duy nhất - Đảng
cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nên việc
chúng ta nhất quán đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội cũng chính là một
biểu hiện của sự thống nhất, sự phù hợp của ý Đảng với lòng dân, tạo ra sức
mạnh diệu kỳ của tinh thần đoàn kết dân tộc. Nếu như trong lịch sử của dân tộc
ta, Hồ Quý Ly đã bị thất bại vì “lịng dân khơng theo”, Nguyễn Trãi đã giành
thắng lợi vì ơng biết “người đẩy thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân,
có bị lật thuyền mới biết dân mạnh như nước”, thì đến Hồ Chí Minh, với tư
tưởng xuyên suốt “dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến
5

. Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr. 51.


cơng vang dội, những kỳ tích khơng chỉ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tư
tưởng đó của Người ngày nay được Đảng ta đang tiếp tục vận dụng và nâng lên
một tầm cao mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện “đại
đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nơng dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng”, “lấy mục tiêu giữ
vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc,
các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài”6. Như vậy, chúng ta có thể tự tin mà khẳng định rằng, chúng ta đã đi
đúng con đường của lịch sử, và chúng ta đủ khả năng để tiếp tục tiến lên một
cách vững chắc trên con đường ấy.
Chủ nghĩa xã hội mới chỉ là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của chủ nghĩa
cộng sản, để có được chủ nghĩa cộng sản như mơ ước của nhân loại thì phải bắt
đầu từ việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thế mà, hiện nay kể cả nước

ta cũng như toàn thế giới đang còn ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, “thời
kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”, thời kỳ “chuyển giao” lẫn
nhau của chế độ xã hội cũ và chế độ xã hội mới, chứ chưa phải là đã ở chế độ xã
hội chủ nghĩa. Các Mác viết: “Cái xã hội mà ta nói ở đây, là xã hội cộng sản,
nhưng không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ sở của chính
nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa thoát thai từ xã hội tư bản, do đó là
một xã hội cịn mang những dấu vết của cái xã hội cũ, đã đẻ ra nó.” 7. Hơn nữa,
nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa, mà từ chế độ phong kiến lạc hậu, nghèo nàn, trì trệ về mọi mặt; nên
vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn. Mặc dù trong thời kỳ q độ này cịn có sự
tồn tại đan xen giữa những cái lỗi thời, lạc hậu của chế độ xã hội cũ, với những
6

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H..2006, tr.116.
. Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1995, tr. 19.

7


yếu tố đang phát triển của chế độ xã hội mới, cuộc đấu tranh giữa những yếu tố
cũ và yếu tố mới đó tuy diễn ra gay gắt, có lúc tưởng chừng như cái mới đã bị
thất bại, nhưng do chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa ra đời là hợp quy
luật phát triển khách quan của lịch sử, là sản phẩm của quá trình đã có sự tích luỹ
lâu dài về mọi mặt trong lịng chế độ xã hội cũ, nên nó sẽ là cái tất thắng và thực
tế nó đã trở thành hiện thực trên thế giới.
Quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một thời kỳ quá độ đầy
dãy những khó khăn, phức tạp với điểm xuất phát rất thấp, cơ sở vật chất kỹ
thuật nghèo nàn, lạc hậu, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề; trong khi đó những
tàn dư của xã hội cũ còn tồn tại dai dẳng, đan xen với những yếu tố mới đang

nảy sinh, có nhiều vấn đề đối lập giữa chế độ xã hội cũ và chế độ xã hội mới về
tính chất, mục tiêu, phương hướng và khuynh hướng phát triển, giữa những mặt
còn tồn tại rất mạnh với những mặt mới ra đời còn rất non yếu, sự ảnh hưởng về
tư tưởng, tâm lý, thói quen của chế độ phong kiến hàng trăm năm ở nước ta còn
đè nặng trong cuộc sống của mỗi người dân Việt Nam, tư duy vẫn chưa thoát
khỏi “lối suy nghĩ xưa cũ”, nhiều vấn đề trong lối sống vẫn giữ nguyên theo
“phong tục tập quán cổ xưa”, cách nghĩ, cách làm phần lớn vẫn chưa thoát khỏi
kiểu “thuần nơng”, “làng xã”, “khép kín”. Cùng với đó, là những vấn đề mới nảy
sinh trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nảy sinh từ mặt trái
của nền kinh tế thị trường và thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, như các tệ nạn xã
hội, sự xuống cấp, suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân…tất cả đã tạo thành rào cản lớn trong quá trình đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những vấn đề nổi cộm đó đang đối lập gay gắt với
những mặt, những nội dung mà chúng ta đang phấn đấu xây dựng cho một chế
độ xã hội mới tốt đẹp hơn, như sự công bằng bình đẳng trong xã hội; dân chủ, kỷ
cương của luật pháp; xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng


xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.v.v. đây
vừa là biểu hiện của hàng loạt những mâu thuẫn khách quan, vừa là biểu hiện sự
phong phú của quá trình phát triển khơng phải theo đường thẳng, mà theo hình
xoắn ốc, quanh co phức tạp. Bởi vậy, nếu chỉ nhìn vào những cái trước mắt, chỉ
thấy những khiếm khuyết trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ
quá độ mà bi quan, chán nản, không tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, cũng như ở nước ta là điều nguy hiểm, là vơ tình
tạo “kẽ hở” cho các thế lực thù địch “nhảy vào” chống phá. Do đó, hơn lúc nào
hết, chúng ta cần nâng cao hơn nữa nhận thức về tính tất yếu, cũng như những
khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, chủ nghĩa xã hội cịn gặp rất nhiều khó khăn,
một số khiếm khuyết, một số tiêu cực mới nảy sinh làm cản trở quá trình phát

triển, tạo ra sự quanh co phức tạp, thậm chí có cả một số mặt bị thụt lùi so với
chế độ xã hội trước. Bằng nỗ lực của mình, những năm gần đây Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta đang ra sức khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, tranh thủ
thời cơ, thuận lợi để tập trung sức cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau hơn 20 năm đổi mới, đến nay chúng ta đã và đang thu được nhiều thành tựu to
lớn trên tất cả các mặt, “thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật
chất – kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn
về tài ngun, lao động”, “tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định” 8, kết quả đó
càng khẳng định sự lựa chọn đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
dân tộc ta. Những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình xây dựng chế độ xã hội
mới chỉ là tạm thời; với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, giám
nhận khuyết điểm về mình, Đảng ta đã từng bước đổi mới tư duy và đang lãnh đạo
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng vững
mạnh. Vì vậy, đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VII đã khẳng định, “tiến lên chủ
8

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H..2001, tr.15.


nghĩa xã hội là tất yếu khách quan vì hợp quy luật tất yếu của lịch sử loài người”,
tiếp tục tư tưởng ấy, đến đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh sự xác định đúng đắn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta: “Theo quy luật tiến hố của lịch
sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” 9. Tại đại hội Đảng lần thứ X,
trong khi đánh giá quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đã đề cập đến vấn đề nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đại hội đã nêu rõ: “Nhận thức
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”10.
Hiện nay chủ nghĩa tư bản vẫn đang tìm mọi cách để thích nghi trong điều
kiện mới, nên nền kinh tế của các nước này vẫn đang phát triển, nhưng đi đôi với

sự phát triển về kinh tế ấy là sự “tha hoá” từng bước, từng mặt của con người,
nhất là người lao động. Theo tư tưởng của Các Mác và Ph. Ănghen xã hội tư bản
càng phát triển mạnh về kinh tế, thì sự “tha hoá” lao động, “tha hoá” của con
người càng lớn. Trên thực tế ta thấy ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, sự
suy đồi về luân lý đạo đức, lối sống; tình trạng thất nghiệp gia tăng, đời sống
người lao động cịn nhiều khó khăn, cực khổ; người lao động dần trở thành “nơ
lệ” của máy móc, của khoa học hiện đại; nhiều chính sách xã hội khơng “xuống
đến hàng thứ dân”, xuất hiện ngày càng nhiều ung nhọt khó chữa như một “căn
bệnh thế kỷ” tự tàn phá dần chế độ tư bản chủ nghĩa ở các nước đó. Trong khi
đó, ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở Việt Nam nói riêng, đi cùng với sự
phát triển về kinh tế là sự phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Cứ mỗi nấc
thang phát triển của nền sản xuất xã hội là một sự phát triển về chính trị, văn
hố, đời sống vật chất, tinh thần của người lao động cũng như của tồn dân tộc;
con người ở đây lại có điều kiện để phát triển tồn diện. “Chỉ có dưới chế độ xã
9
10

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H..2001, tr.14.
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H..2006, tr.17.


hội chủ nghĩa thì quyền lợi cá nhân và quyền lợi của nhà nước cùng quyền lợi
của tập thể mới nhất trí.” 11Vì vậy, những năm gần đây bộ mặt của đất nước ta
ngày càng rạng rỡ, niềm tin của nhân dân ta vào Đảng ngày thêm vững bền,
quyết tâm vượt qua thách thức đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn được biểu
hiện sinh động ở mọi lúc, mọi nơi; những thành tựu đã đạt được trong bao năm
qua là minh chứng hùng hồn cho một chế độ xã hội ưu việt như xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, trong q trình phát triển bên cạnh
tính tuần tự có thể cịn có sự đột biến, khi hội tụ đủ những điều kiện cần thiết có
thể bỏ qua một vài khâu trung gian để tiến lên cái cao hơn. Trong lĩnh vực xã

hội, từ xã hội này lên xã hội khác cũng có thể bỏ qua một vài hình thái kinh tếxã hội để tiến lên một hình thái kinh tế- xã hội cao hơn là hợp quy luật phát triển.
Vận dụng nội dung nguyên lý này chúng ta đã quyết tâm bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy cịn một số quan
điểm cho rằng, nước ta chưa có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho quá trình đi lên
chủ nghĩa xã hội, nên để tạo ra một lượng cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc đã
rồi mới đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà để có cái đó thì phải đi lên xây
dựng chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa tư bản ắt sẽ làm cho
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất hiện có
(quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất), khi đó
mâu thuẫn sẽ chín muồi và sẽ tiến hành một cuộc cách mạng xã hội để chuyển
sang xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta nhận thấy chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang tiến những bước dài vững chắc trong thời kỳ quá độ, với những thành tựu
ngày một cao hơn, điều đó chứng tỏ quan điểm trên là hồn tồn sai trái, đi
ngược lại sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc. Mặc dù cịn nhiều khó khăn,
nhưng ngay sau khi giải phóng miền Bắc (1954), chúng ta đã đưa miền Bắc đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam,
11

. Hồ Chí Minh, “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, Nxb CTQG, H.1970, tr.204.


sức người, sức của được huy động tối đa, các phong trào “thóc khơng thiếu một
cân, qn khơng thiếu một người”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”.v.v được đông đảo nhân dân hưởng ứng, tạo thành sức mạnh
tổng hợp, cả nước cùng ra trận. Nếu chúng ta không đi lên theo con đường xã hội
chủ nghĩa thì khơng thể có được kết quả to lớn ấy. Từ sau năm 1975 đến nay,
kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã thực hiện thắng lợi
công cuộc đổi mới, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế, quan hệ hợp tác ngày càng rộng mở, thu hút ngày càng nhiều các chiến
lược đầu tư của nước ngoài, độc lập dân tộc vẫn được giữ vững.v.v.một lần nữa

cho phép chúng ta khẳng định: chúng ta không thể không đi lên theo con đường
chủ nghĩa xã hội.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc, có nền tảng cơ sở vật chất
- kỹ thuật đáp ứng u cầu địi hỏi của q trình xây dựng đất nước, Đảng ta xác
định: “Chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; xây dựng nền văn hoá tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”12.
KẾT LUẬN.
Sự ra đời và phát triển của phép biện chứng duy vật là một quá trình hợp
quy luật khách quan của nhận thức của con người. Với tính cách mạng và khoa
học của phép biện chứng duy vật Mác xít, nó đã trang bị cho chúng ta một cơ sở
lý luận vững chắc trong nhận thức và cải tạo thế giới. Thông qua nguyên lý về
12

. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H..2006, tr.18.


mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng đó chúng
ta có thể xem xét, đánh giá sự vật hiện tượng một cách khách quan, toàn diện,
lịch sử, cụ thể và phát triển. Đặc biệt, nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho
chúng ta nhận biết sâu sắc về nguồn gốc, con đường, trạng thái, cách thức và
khuynh hướng phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới nói chung,
trong lĩnh vực xã hội nói riêng. Từ đó, chúng ta có cơ sở khoa học và cách mạng
để tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, khẳng định chắc chắn hơn về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình phức tạp hiện nay./.





×