Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

hướng dẫn cách làm văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.62 KB, 26 trang )

CÁCH VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
Văn bản nghị luận là một dạng văn phổ biến trong trường học và đời sống đặc biệt
là ở trường THCS. Tuy nhiên viết văn nghị luân lại không phải là chuyện dẽ dàng.
Để viết cho hay, cho đúng, có sức thuyết phục cao thì lại càng khó. Đối với học
sinh, một trong những vấn đè bối rối khi viết văn nghị luận là phần mở bài, kết bài
và cách chuyển đoạn. Tuy đây không phải là phần trọng tâm của bài văn nhưng nó
là những phần không thể thiếu, góp phần làm nổi bật vấn đề cần nghị luận hơn.Với
mong muốn có thể giúp các bạn làm tốt bài văn nghị luận, bằng kinh nghiệm tích
lũy và sách vở đọc được, hôm nay chúng tôi xin trình bài một số phương pháp làm
mở bài, kết bài và chuyển đoạn.
PHẦN 1: PHƯƠNG PHÁP MỞ BÀI
Phần mở bài trong văn nghị luận là phần đặt vấn đề, thông
thường có hai cách:
1- Trực tiếp: Là cách đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận. Nghĩa là sau khi đã tìm
hiểu đề và tìm được vấn đề trọng tâm của bài nghị luận, ta nêu thẳng vấn đề đó ra
bằng một luận điểm rõ ràng. Tuy nhiên khi mở bài trực tiếp, ta cũng phải trình bày
cho đủ ý, không nói thiếu nhưng cũng không nên nói hết nội dung, phải đáp ứng đủ
các yêu cầu của một phần mở bài đúng mực trong nhà trường.
VD: Đề nghị luận xã hội
Bình luận câu tục ngữ: “Trăm hay không bằng tay quen”
Bàn về mối quan hệ giữa lí thuyết và thực hành, tục ngữ ta có câu: “Trăm hay
không bằng tay quen”.
Nhận định ấy của câu tục ngữ có đúng hoàn toàn hay không ?
VD: Đề nghị luận văn họcPhân tích tình huống “Vợ nhặt” trong tác phẩm cùng tên
của Kim Lân.
Một truyện ngắn thường được xây dựng dựa trên cơ sở một tình
huống độc đáo. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng thể hiện đặc điểm này và
bộc lộ ngay ở nhan đề tác phẩm.
Chú ý: Đặt vấn đề theo cách trực tiếp dễ làm nhưng khó hay vì không thu hút, hấp
dẫn sự chú ý của người đọc nhiều. Vì vậy trong nhà trường, người ta thuờng chuộng
cách đặt vấn đề gián tiếp hơn.


2- Gián tiếp
Với cách này người viết phải dẫn dắt vào đề bằng cách nêu lên những ý có liên
quan đến luận đề (vấn đề cần nghị luận) để gây sự chú ý cho người đọc sau đó mới
bắt sang luận đề.Sau đây là một số kiểu thường dùng:
a) Kiểu diễn dịch
Dẫn dắt vào đề theo kiểu diễn dịch người viết phải nêu ra những ý khái quát hơn,
bao trùm vấn đề đặt ra trong đề bài rồi thu hẹp lại dần rồi sau cùng bắt vào vấn đề
của đề bài.
VD: Với đề nghị luận văn hoc: Một thế giới Kinh Bắc với truyền thống văn hoá
nghệ thuật lâu đời, với một vẻ đẹp cổ kính trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng
1


Cầm. Ta có thể mở bài như sau:
Sinh ra và lớn lên trên quê hương quan họ với những làn điệu
dân ca ngọt ngào đằm thắm đã vun đắp cho khả năng thơ đặc
biệt của Hoàng Cầm thêm tỏa sáng. Mảnh đất Kinh Bắc cổ kính
không chỉ là nơi ông chào đời mà còn là nơi ông gắn bó máu thịt với từng cảnh vật,
với mỗi con người, với những giá trị văn hoá tinh thần hàng ngàn đời của ông cha
để lại. Chẳng phải vì thế mà hình ảnh quê hương Kinh Bắc đã từng trăn trở không
biết bao nhiêu lần trong thơ Hoàng Cầm mà đỉnh cao là “Bên kia sông Đuống”. Bài
thơ được sáng tác trong giờ phút thăng hoa của cảm xúc nhớ thuơng về miền quê đã
xa.
b) Kiểu quy nạp
Quy nạp là kiểu lập luận ngược lại với diễn dịch, nghĩa là ta phải lập luận từ những
ý, những sự việc c thể riêng lẻ, đặc thù, nhỏ hơn ý, sự việc đặt ra trong luận đề của
đề bài rồi mở rộng dần và tổng hợp khái quát lên để bắt sang luận đề.
VD: Bình luận câu tục ngữ: “ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” Trong cuộc sống, chúng ta
thường phải đứng trước một sự lựa
chọn: chọn người, chọn vật, v.v...Chúng ta thường gặp những

tình huống rất khó quyết định bởi vì không thiếu những cảnh: người đẹp mà kém,
người giỏi thì lạikhông đẹp, vật đẹp nhưng lại không bền…Đối với nhừng trường
hợp như thế, dân gian ta có lời khuyên qua câu tục ngữ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”
c) Kiểu so sánh
Có hai cách so sánh:
- So sánh tương đồng, tương liên: với cách này ta bắt đầu bằng cách nêu lên một ý,
một sự việc tương tự, có liên quan với ý, sự việc tương tự…của luận đề có tác dụng
gợi ra một sự liên tưởng rồi từ đó mà chuyển sang đề.
VD: Bình giảng đoạn thơ: ”Bao giờ về bên kia sông Đuống/ Anh
lại tìm em/ Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy hội non sông/ Cười mê
ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. (“Bên kia sông Đuống” - Hoàng Cầm)Nếu Sông
Lô của Văn Cao là một trường ca bằng nhạc về con sông miền quê trung du thời
chống Pháp thì “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm cũng được coi là trường ca
bằng thơ về con sông của miền que Kinh Bắc. Viết tác phẩm này, Hoàng Cầm
muốn gửi gắm, dồn tất cả cảm xúc mãnh liệt của mình. Đó vừa là niềm tự hào kiêu
hãnh trước những vẻ đẹp của quê hương, vừa là nỗi xót xa căm giận trào sôi trước
cảnh que hương bị giặc tan pha. Nhà thơ đã tái hiên lại chân thực, sinh động bức
tranh cuộc sống, thiên nhiên con người Kinh Bắc một thời máu lửa một thời hoà
bình. Đoạn thơ cuối bài cho người đọc một hình ảnh đẹp về Kinh Bắc trong tương
lai chiến thăng qua dự cảm đầy tin tưởng của Hoàng Cầm.
- So sánh tương phản đối lập: bắt đầu lập luận bằng cách nêu ý trái ngược với ý của
luận đề để rồi lấy đó làm cái cớ mà chuyển sang luận đề.
VD: Suy nghĩ của anh (chị) từ ý nghĩa của câu chuyên “Hoa hồng tặng mẹ” (Sgk 12
tập 1, trang 220)Có nhà thơ từng than thở “Nhạy cảm quá đôi khi thành nghiệt ngã”,
nhưng sự vô tình mới là điều nghiệt ngã thật sự. Trong cuộc sống phức tạp này mải
hướng đến những điều to tát mà con người thường vô tình vô tình trước những điều
tưởng chừng như vô cùng đơn giản của cuộc sống. Chính những điều tưởng như
2



giản đơn ấy lại là một phần quan trong làm nên ý nghĩa cuộc sống này. Sự vô tâm
có thể biến một người tốt thành kẻ xấu, sự vô tình của người này có thể tạo nên nỗi
đau, sự thất vọng cho người khác, nhất là giữa những người than. Câu chuyện “Hoa
hồng tặng mẹ” là câu chuyện hay cảm động về tình mẫu tử.
Nhưng ý nghĩa của câu chuyện không dừng lại ở việc gợi ca lòng hiếu thảo của cô
bé nghèo với người mẹ quá cố của mình. Câu chuyện là bài học có ý nghĩa nhân
sinh mà mồi người đọc có thể phát hiện ở đó những giá trị khác nhau.
Tóm lại: Mở bài có nhiều cách, nhiều kiểu, tùy trường hợp mà
vận dụng. Nhưng nhìn chung, chúng ta cần nhớ một điều: phần mở bài, phần đặt
vấn đề có nhiệm vụ khơi gợi sự chú ý của
người đọc đối với vấn đề mình cần nghị luận. Do đó cần tránh dài dòng, vòng vo
hoặc lấn sang phần thân bài làm loãng vấn đề nghị luận sẽ được giải quyết cụ thể
triệt để ở phần thân bài. Để có được phần mở bài như ý đòi hỏi người viết phải đọc
và thực hành nhiều dạng đề khác nhau, chỉ khi rèn luyện nhiều, đứng trước những
đề văn kiểm tra bạn có thể tìm ra cách mở bài nhanh chóng và dễ dàng hơn. Không
phải lúc nào áp dụng những cách làm trên cũng hay, sự sáng tạo của cá nhân góp
phần không nhỏ vào thành công của bài viết. Vì thế bạn hãy cố gắng tự tìm cho
mình những hướng mở bài tốt nhất.
PHẦN 2: PHƯƠNG PHÁP KẾT BÀI
Kết bài là phần rất quan trọng đối với bài văn nghị luận, đó là phần kết thúc vấn đề
đã đặt ra ở phần mở bài và đã giải quyết ở phần thân bài. Tuy nhiên vì nhiêu lí do
khác nhau, kết bài thường là phần “đuối” nhất so với các phần khác của bài văn.
Nguyên nhân khách quan, do kết bài là phần cuối cùng, khi làm đến kết bài thì gần
hết giờ nên chúng ta thường làm rất vội, làm cho có, cho đầy đủ bố cục. Nguyên
nhân chủ quan, thứ nhất là sau khi làm một phần thân bài dài, phải đi phân tích,
bình luận nhiều ý nên đến cuối ta bị cụt ý, không con gì để nói, thứ hai do bản thân
thiếu kinh nghiệm làm kết bài. Giống như phần mở bài, phần này chỉ nêu lên những
ý khái quát, không trình bày lan man, dài dòng hoặc lặp lại sự giảng giải, minh họa,
nhận xét một cách chi tiết như ở phần thân bài. Nhưng nó cũng khác phần mở bài.
Nếu như phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu vấn đề sẽ được nghị luận thì phần kết

bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá chung vấn đề đã được nghị luận. Kết thúc vấn đè
hay sẽ tạo được “âm vang”, “dư ba” cho bài văn. Có nhiều kiểu kết thúc vấn đề
khác nhau tùy theo dụng ý người viết tuy nhiên có thể quy vào các kiểu sau:
1-Tổng kết, tóm lược những ý chính đã trình bày ở phần thân bài:
Đây là cách kết bài thông thường nhất vì dễ làm nhất
VD: Tìm hiểu “Mình”, “ta” và “ai” trong “Việt Bắc” của Tố Hữu.
Tóm lại, “mình”, “ta”, “ai” là những từ xưng hô đã được Tố Hữu sử dụng linh hoạt
trong “Việt Bắc” để tạo nên sự gắn bó rất thú vị giữa người ở, người đi, tạo nên sự
bâng khuâng, bịn rịn, không thể tách rời giữa Việt Bắc với những người đã gắn bó
với quê hương cách mạng, thủ đô gió ngàn.

3


2. Chiết trung, dung hòa:
Đây cũng là kết bài theo cách tổng hợp nhưng tổng hợp để rồi từ đó rút ra thái độ
chiết trung, dung hòa.Cách kết bài này thường áp dụng cho những luận đề không
đúng hẳn mà cũng không hoàn toàn sai hoặc những luận đề có hai, ba ý kiến đối
nghịch nhau nhưng xem ra ý kiến nào cũng đều có lí của nó, đặc biệt là những vấn
đề thuộc quan điểm cá nhân.
3. Phát triển mở rộng thêm vấn đề:
VD: “Tuyên ngôn độc lập” là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là một bài văn
chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức
thuyết phục.” Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đã hơn nữa thế kỷ trôi qua nhưng “Tuyên ngôn độc lập” vẫn là một văn kiện có giá
trị lịch sử to lớn đồng thời cũng là một tác phẩm chính luận xuất sắc, mẫu mực.
“Tuyên ngôn độc lập - mở đầu cho kỉ nguyên độc lập, tự do, tạo điều kiện cho mọi
thay đổi cho đời sống dân tộc trong đó có văn học.
4. Vận dụng vào cuộc sống, rút ra bài học áp dụng:
VD: Với đề: Suy nghĩ về mối quan hệ giữa tiền tài và hạnh phúc. Ta có thể kết bài

như sau:
Tiền tài và hạnh phúc là mối quan hệ bản chất của xã hội loài người. Tiền tài và
hạnh phúc là khát vọng muôn đời của nhân loại. Phàm là người, ai cũng muốn có
tiền tài và hạnh phúc. Nhưng để điều hoà mối quan hệ này quả không đơn giản, nhất
là trong xã hội hiện đại, khi mà nhu cầu của con người về sự no đủ ngày càng cao
hơn, tha thiết hơn. Để có được hạnh phúc thực sự, mỗi người phải biết cách dùng
tiền tài như một phương tiện để gây dựng và bảo vệ hạnh phúc, không nên để đồng
tiền điều khiển ta.
5. Liên tưởng:
Là cách kết bài thông qua sự liên tưởng, tức là mượn ý kiến của dân gian, của một
danh nhân, một người có uy tín hoặc của sách để làm kết luậnVD: Tìm hiểu bài thơ
ngắm trăng của Bác chúng ta có thể chia sẻ với cảm xúc chân thành của nhà thơ Tố
Hữu về những ngày tháng Bác bị giam cầm
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
6. Hỗn hợp:
Là cách kết hợp 2, 3 ...kiểu kết bài trên làm thành phần kết thúc vấn đề
Tóm lại: Có nhiều cách, nhiều kiểu kết bài. Nhưng dù kết bài theo kiểu nào đi
chăng nữa thì cũng nhằm khắc sâu kết luận của người viết để lại ấn tượng đậm đà
cho người đọc và nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của vấn đề đã được nghị luận. Kết bài
hay phải vừa đóng lại, chốt lại, phải vừa mở ra, nâng cao và cứ ngân nga mãi trong
lòng người đọc.
4


PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN ĐOẠN
1. Khái niệm:
Như chúng ta đã biết, bài văn là một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên

bởicác phần, các đoạn, các câu. Do đó giữa các phần, các đoạn, các câu cần có
sự kết dính với nhau vì nếu không có sự kết dính ấy bài văn sẽ trở nên rời rạc,
thiếu thống nhất.Sự kết dính với nhau ấy được gọi là sự liên kết.Trong đó liên
kết các đoạn văn là một thao tác quan trọng.Ở đây tổ chúng tôi xin nói rõ về các
cách chuyển đoạn (liên kết đoạn).
2. Các vị trí liên kết đoạn
Có các vị trí như sau:
- Giữa các phần bố cục của bài tức là giữa phần mở bài với phần thân bài, giữa phần
thân bài với thần kết bài.
- Giữa các đoạn trong từng phần nhất là giữa các đoạn trong phần thân bài.
3. Các cách liên kết đoạn
Dùng từ ngữ để liên kết: tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn các phần mà ta sẽ có
cách dùng thích hợp.
a) Nối các đoạn có quan hệ thứ tự ta có các từ ngữ sau: trước tiên, trước hết, thoạt
nhiên, tiếp theo, sau đó, cuối cùng,một là, hai là, bắt đầu là…
b) Nối các đoạn có quan hệ song song ta có các từ:một mặt, mặt khác, ngoài ra, bên
cạnh đó…
c) Nối các đoạn có quan hệ tăng tiến có : vả lại, hơn nữa, thậm chí…
d) Nối các đoạn có quan hệ tương đồng có : tương tự, cũng thế, cũng vậy, cũng
giống như trên…
e) Nối các đoạn có quan hệ tương phản ta có: nhưng, song song, tuy nhiên, tuy thế,
tuy vậy, thế nhưng, trái lại, ngược lại,…
f) Nối các đoạn có quan hệ nhân quả ta có: bởi vậy, do đó, vì thế cho nên…
g) Nối một đoạn có ý nghĩa tổng kết các đoạn trước ta có : tóm lạị, nói tóm lại,
chung quy, tổng kết lại…
VD: Trong bài phân tích của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh về phân tích nhân vật
Xuân tóc đỏ, giáo sư đã có sử dụng nhiều từ các từ kết nối đẻ liên kết các đoạn văn
với nhau.Trong đó có các đoạn như sau:“(…) Tuy nhiên ,cho đến lúc ấy thằng Xuân
vẫn chưa ý thức được đầy đủ và sâu sác cái bản chất của cái xã hội mà “số đỏ” đã
đưa nó tới.Cho nên khi, vì một lời nói có làm cho cụ tổ chết, đáng lẽ phải hiểu là

một cái công lớn thì nó lại hoảng hốt bỏ trốn.Cũng như sau khi”làm hại đời cô
Tuyết”, đáng lẽ phải lập tức nhận lời làm rể út cụ cố Hồng thì nó lại từ chối vừa van
xin…Nhưng từ sau những vụ đó thì thằng Xuân hoàn toàn giác ngộ và hết sức chủ
động.Từ đây thành công của nó vẫn do nhiều nhân tố may mắn nhưng chủ yếu là do
nó biết khai thác những nhân tố may mắn đó(…)
Khái quát lại, có thể nói thế này : thằng Xuân, từ thế giới hạ lưu, đột nhập vào thế
giới thượng lưu, vừa do số đỏ vừa không hoàn toàn tự nhiên (…).
Dùng câu để liên kết : đó là những câu nối thường đứng ở đầu câu hoặc có khi đứng
ở cuối đoạn văn nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với đoạn khác.Nội dung
5


thông tin chứa trong câu nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ
được trình bày kĩ ở đoạn sau.Có những dạng chính sau:
a) Câu nói liên kết với phần trước, đoạn trước:
VD: “Trở lên là một vài ý nghĩ và việc làm mà nhiều năm tôi tích lũy được. Cũng
chẳng có gì mới lạ …Họa chăng có chút khác là tôi quan tâm nhiều đến trực cảm và
trong khâu trực cảm tôi có nắm bắt cái gọi là thần…(Lê Trí Viễn – Suy nghĩ về môn
giảng văn)
b) Câu nối liên kết với phần sau đoạn sau:
Thường có hai kiểu biểu hiện
- Chêm vào mạch văn câu thông báo trực tiếp ý định chuyển đoạn:
VD: Sau đây chúng tôi xin tìm hiểu ảnh hưởng của ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu
xem Tố Hữu đã kế thừa và học tập vốn củ như thế nào.
- Nêu câu hỏi để rồi trả lời, giải đáp ở phần sau đoạn sau. Câu hỏi này thường đứng
ở cuối đoạn trước:
VD: “…Nhưng số mệnh ở đây lại hiện ra dưới hình thức những con người. Bọn
người ấy khá đông. Đày đọa Kiều không chỉ có một người mà đày đọa Kiều là một
xã hội. Ta thấy gì trong xã hội ấy?
(Hoài Thanh–Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam)

c) Câu nối liên kết với cả phần, đoạn trước lẫn phần, đoạn sau:
Với dạng này có thể thực hiện theo các kiểu sau:- Chêm vào văn mạch một hai câu
thông báo trực tiếp ý định chuyển đoạn.
VD: ”… Cái” thứ mặt sắt” mà ngây vì tình ấy “quả không lấy gì làm đẹp! Ông quan
đã thế, lại còn bà quan nữa. Đại biểu cho bà quan ở đây là mụ mẹ Hoạn Thư…”
(Hoài Thanh – dẫn theo Tiếng Việt 9)
- Tạo ra thế tương ứng giữa hai phần hai đoạn
VD: ”Nếu như các nhà văn hiện thực phê phán muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời
như Vũ Trọng Phụng đã từng tuyên ngôn thì các nhà văn lãng mạn lai chủ trương
thoát ra khỏi hiện tại…”
- Dùng phép lặp cú pháp (điệp kiểu câu):câu trước nhắc lại chủ đề đã giải quyết ở
phần, đoạn trên; câu sau nói đến chủ đề sẽ giải quyết ở phần, đoạn dưới.VD: “Nhớ
Nguyễn Trãi, chúng ta nhớ người anh hùng cứu nước, người cùng Lê Lợi làm nên
sụ nghiệp “Bình Ngô”, người thảo “Bình Ngô Đại Cáo” Nhớ Nguyễn Trãi là nhớ
người anh hùng cứu nước đồng thời là nhớ nhà văn lớn nhà thơ lớn của nước ta.”
(Phạm Văn Đồng – Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc)
- Tiểu kết ngắn gọn nội dung, luận điểm đã trình bày ở đoạn trước và đưa ra nội
dung, luận điểm khác có liên quan để tiếp tục giải quyết ở đoạn sau.
VD: “Bọn quan lại, lưu manh đều là những hiện thân của số mệnh, cái số mệnh cay
nghiệt nó giày vò Thúy Kiều. Nhưng nói đến những lực lượng bạo tàn của số mệnh,
không thể không nói đến thế lực của đồng tiền.”
Tóm lại, có nhiều cách chuyển đoạn khác nhau, sự đa dạng này làm cho bài văn của
bạn liên kết hơn, mạch cảm xúc không bị gián đoạn. Hy vọng bạn sẽ tìm được
những cách thích hợp áp dụng vào bài làm của mình.
----------------------------------------------------------------------------------------------------6


MỘT SỐ BÀI VĂN NGHỊ LUẬN MẪU
Đề 1: Hãy chứng minh rằng bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
Bài làm:

Suốt chiếu dài Tổ quốc không đâu là không có rừng. Rừng có ở khắp nơi trên
mảnh đất hình chữ S này cho thấy tầm quan trọng to lớn của rừng đến nhường
nào. Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
Rừng vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Rừng được chia làm hai
loại : rừng nguyên sinh và rừng nhân tạo. Rừng nguyên sinh là do thiên nhiên tạo
ra còn rừng nhân tạo là rừng được hình thành nên bởi con người.Cỏ cây, hoa lá,
động vật hoang dã... đều là các yếu tố hình thành nên rừng. Rừng có mối lien
quan mật thiết đến đời sống con người, rừng là lá phổi xanh của Trái Đất, lá máy
lọc khí khổng lồ của con người. Chính vì điều đó, rừng là một yếu tố thiên nhiên
hữu dụng và lợi ích.
Rừng đem lại bao lợi ích cho con người. Ô xi chúng ta hít vào hang ngày một
phần là từ rừng. Cây cối trong rừng ban ngày quang hợp, lấy khí các bon níc và
thải ra khí ô xi cho con người hô hấp. Rừng còn cung cấp nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp trong nước và xuất khẩu, cho cuộc sống hang ngày. Rừng
chè, rừng cà phê,… cho con người nguyên liệu để tiêu dung trong nước cũng như
xuất khẩu ra toàn thế giới. Rừng tre, rừng trúc cống hiến than mình cho con
người làm cơm lam, làm đôi đũa,… Vai trò to lớn hơn cả của rừng là ngăn chặn
lũ lụt, bảo vệ cuộc sống của con người. Có biết bao nhiêu trận lũ đã giảm bớt
được sức tàn phá khi vào tới khu vuecj dân sinh là nhờ có rừng. Những cánh rừng
phòng hộ đầu nguồn luôn ngày đêm đứng vững trên mảnh đất để bảo vệ cuộc
sống của người dân trong phố. Có cây, có rừng nên đất mới không bị sói lở. Nếu
không có sự xuất hiện của rừng thì bao nhiêu người dân đã bị chết vì đất lở.
Những khu rừng ngập mặn đóng vai trò chắn sống từ ngoài biển khơi, ngăn chặn
dòng nước mặn từ biển đổ vào thành phố. Rừng không những đóng vai trò to lớn
trong hiện tại mà trước kia, rừng cũng là mồ chon quân giặc. Những anh lính bộ
đội cụ Hồ cần đến rừng để làm nơi ẩn náu, phục vụ kháng chiến. Có biết bao
nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ lấy rừng làm đề tài cho tác phẩm của mình. Ca
khúc “Nhạc rừng” mang đậm nét thoáng đạt của rừng, bài thơ “Rừng Việt Bắc”
đã nâng cao ý nghĩa của rừng trong kháng chiến,… và bao nhiêu tác phẩm thơ
văn khác nữa

Hiện nay, nhiều khu rừng ở Viêt Nam đang đi xuống một cách trầm trọng.
Người dân thì cử thẳng tay chặt phá rừng mà không nghĩ đến tương lai sau này.
Rừng đầu nguôn thì bị xóa sổ. Chính vì rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ bị xóa sổ
mà gây ra biết bao nhiêu trận lũ quét. Việc khai thác rừng trái phép đã trở thành
chuyện thường tình ở khắp mọi nơi, khắp mọi khu rừng trên đất nước. Hiện
tượng lâm tặc hoành hành ngày càng nhiều ở các cánh rừng. Cứ vào mùa hanh
khô, chì cần đốt một cái cây trong rừng cũng có thể gây cháy toàn bộ khu rừng.
Người dân đốt phá rừng không có kế hoạch, không chịu trồng lại rừng. Chặt hết
rừng này thì vẫn còn rừng khác, có lẽ, người dân nào cũng nghĩ như vậy. Sâu
trong rừng là một mỏ khoáng sản khổng lồ, chính vì điều đó mà long tham của
con người mới nổi lên, con người mới đi khai thác khoáng sản trái phép. Chỉ vì
7


mục đích bảo vệ rừng mà nhiều nhân viên làm ở khu quản lí lâm nghiệp đã phải
hi sinh cả tính mạng của mình. Lâm tặc chỉ yêu mỗi tiền của, coi tính mạng con
người như cỏ rác, thẳng tay mà giết người để bịt đầu mối. Không những chặt cây
lấy gỗ, người dân còn săn bắt động vật hoang dã để thu nguồn lợi nhuận trái
phép.
Chính vì việc phá hoại rừng của người dân mà đã để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng. Cuộc sống của người dân vùng miền Trung Việt Nam nói riêng và toàn thế
giới nói chung đang phải gánh chịu những cơn bão, những cơn song thần vào sâu
trong đất liền là do không có rừng chắn. Hàng năm, có biết bao nhiêu trận lũ đổ
về đất liền, cứ thế mà “tự nhiên xông thẳng” vào khu vực dân sinh vì không có
rừng che chở. Bao nhiêu người thiệt mạng, mất nhà cửa vì lũ lụt. Qủa thật là “gậy
ông đập lưng ông”, chính người dân chặt phá rừng cho nên bây giờ có lũ, lấy đâu
ra rừng mà chắn nước lũ. Có những nơi thì đất trống đồi trọc, đất cứ thế mà trơ
ra, chả có cây cối gì vì do bị khai thác bừa bãi. Động vật do bị săn bắn quá nhiều
nên nhiều loài đang được ghi tên trong sách đỏ vì mang nguy cơ tuyệt chủng, loài
ít, loài nhiều gây mất cân bằng sinh thái.Loài này tuyệt chủng thì còn loài kia, cứ

thế mà chẳng mấy chốc trên Trái Đất này sẽ chẳng còn sự sống của muông thú.
Nhiều khu vực hạ tầng cơ sở đã bị phá hủy. Ở miền Trung, hiện tượng sa mạc
hóa đã xuất hiện và đe dọa người dân ở nơi đây. “Hiệu ứng nhà kính”, biến đổi
khí hậu toàn cầu là do không có rừng điều hòa khí hậu, lọc không khí. Môi
trường không khí đã bị ô nhiễm mà rừng thì không còn thì việc nhiệt độ Trái Đất
tăng cao là vô cùng dễ dàng. Một số khu rừng nguyên sinh, thắng cảnh đã mất
sạch. Để ngăn chặn việc lâm tặc hoành hành, nhà nước đã phải bỏ ra hang chục tỷ
đồng để khắc phục sự cố này. Không có rừng, nước mưa từ trên trời cứ xối xuống
đất, làm đất đai cứ thế mà sạt lở. Các khu rừng ngập mặn bị phá hủy, đi liền với
nó là lượng nước mặn từ biển tràn ngập khắp các đồng ruộng làm thu hẹp diện
tích canh tác. Mất rừng cho nên một số thú dữ đã tấn công cuộc sống của con
người. Động vật mất nơi ở là rừng cho nên nó đành phải di cư, đến phá hoạt cuộc
sống của con người. Tự dưng tự bịa, đang ngồi trong nhà thì voi trong rừng kéo
đến, đạp phá nhà cửa thì chẳng có một ai chịu đựng nổi. Và mối lo ngại lớn nhất
của con người đang tiến dần đến, đó là lượng ô xi giảm. Ô xi giảm thì coi như
Trái Đất này sẽ trở về thời nguyên thủy, không có sự sống.
Để ngăn chặn việc số lượng rừng đang ngày một giảm, nhà nước, chính quyền
địa phương hay mỗi cá nhân nên có những biện pháp nhất định. Tốt nhất là
không nên chặt phá rừng, còn nếu có phá rừng thì nên có ý thức trông lại. Những
loài động vật trong rừng đang kêu cứu, cần sự giúp đỡ của con người đó. Hãy
đừng bắn giết chúng nữa, đã là rừng thì phải có động thực vật, nếu chúng ta giết
động vật thì còn gọi gì là rừng nữa. Hiện nay, nhiều quan chức cấp cao cũng đã
huy động lực lưỡng tổ chức tuyên truyền cho con em kiến thức về rừng. Chương
trình ti vi, các cuộc vận động,… đều đã được mở ra để con người có ý thức bảo
vệ rừng hơn. Các cô, các chú kiểm lâm cũng đã bỏ ra hết sức mình để bảo vệ
rừng, ngăn chặn lâm tặc.
Rừng có một vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người. Vì vậy, mỗi
con người chúng, hãy góp một chút ít sức lực của mình để bảo vệ rừng, cũng như
là bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta.
8



ĐÊ 2: Ít lâu nay , trong lớp có một số bạn lơ là học tập . Em hãy viết một bài văn
để thuyết phục bạn : Nếu khi còn trẻ , ta không chịu khó học tập thì lớn lên
chẳng làm được việc gì có ích !
Bài làm:
Học hành có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đời của mỗi con người.
Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng : “Nếu còn trẻ mà không chịu học hành thì
khi lớn lên sẽ chẳng thể làm được việc gì có ích”. Bên cạnh đó còn có những câu :
“Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ”. Hoặc : “Bất học bất
tri lí” (Không học thì không biết lí lẽ, lẽ phải).
Suốt lịch sử phát triển mấy ngàn năm, nhân loại đã tích lũy được một kho tàng
tri thức khổng lồ về tự nhiên và xã hội. Những tri thức ấy được lưu truyền từ đời
này sang đời khác qua hình thức truyền miệng và chữ viết (sách). Muốn tiếp thu
tinh hoa trí tuệ, con người chỉ có một con đường duy nhất là học, học suốt đời.
Nói đến học là nói đến trí lực, một năng lực suy nghĩ, một trực quan nhạy bén, một
tư duy hợp lí. Điều ấy hết sức cần thiết cho tất cả mọi người. Chính vì vậy, ngay từ
lúc nhỏ, bất kì ai cũng phải được học hành.
Trong những năm ở trường THCS, học sinh được cung cấp những kiến thức sơ
đẳng của một số bộ môn cơ bản như Toán, Lý, Hoá Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại
ngữ… Tuy thế, học sinh phải chăm chỉ học hành thì mới hiểu và nắm vững kiến
thức một cách có hệ thống. Nếu lơ là, chểnh mảng, thiếu nghiêm túc trong việc học
hành thì rốt cuộc là tốn thời gian, tiền bạc mà kết quả thu được chẳng đáng là bao.
Thực tế cho thấy là có học có hơn. Mục đích của việc học là nhằm phục vụ cho
mọi công việc đạt hiệu quả cao. Nếu ta đơn thuần làm việc theo thói quen hoặc kinh
nghiệm có sẵn thì công việc sẽ tiến triển chậm và chất lượng không tốt. Cách làm
như trên chỉ thích hợp với các công việc giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn
đối với những công việc phức tạp liên quan đến khoa học kĩ thuật thì cung cách làm
việc ấy là lạc hậu, lỗi thời. Muốn đạt hiệu quả tốt trong mọi lĩnh vực, chúng ta bắt
buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và trong suốt

quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng, bằng mọi hình thức khác nhau.
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay thì
tri thức (chất xám) của con người là tiền đề vô cùng quan trọng. Có nắm vững lí
thuyết, chúng ta mới làm được những công việc phức tạp. Có nắm vững lí thuyết,
chúng ta mới làm được những công việc phức tạp. Lí thuyết khoa học có tác dụng
soi sáng, dẫn đường cho kĩ năng thực hành, con người sẽ rút ngắn được thời gian
mò mẫm, tìm hiểu thực tiễn, do đó sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Học không chỉ là quá trình rèn luyện tri thức mà còn là quá trình rèn luyện tình
cảm và đạo đức. Con người ngoài cái trí còn cần có cái tâm. Học là để thấu hiểu
những lẽ huyền bí của cuộc đời, của vũ trụ chứa đựng trong những công thức toán
đơn giản hoặc trong những quy luật thịnh suy của một xã hội. Không hòa cái tâm
của mình vào trong cuộc đời, vào vũ trụ để lắng tìm và cảm nhận thì làm sao có
được những tín hiệu mách bảo cho trí tuệ con đường đi tới những lẽ huyền diệu và
bí ẩn kia ?. Như vậy là có biết bao kién thức mới, nhận thức mới về cuộc đời, về thế
giới mà chúng ta tìm kiếm được không chỉ bằng lí trí mà còn bằng cả tâm hồn.
Học cần có cái trí và cũng có cần có cái tâm là vì thế. Học cũng là để sáng
thêm cái trí, lành thêm cái tâm và để đóng góp tài đức của mình cho sự nghiệp xây
9


dựng đất nước mạnh giàu.
Điều quan trọng là đã học thì phải học đều các môn khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội.
Văn, Sử là những môn học cần thiết, nếu không nói là đặc biệt quan trọng để
tạo nên nhân cách. Nếu chúng ta không coi trọng các môn này thì tâm hồn sẽ khô
cứng, vô cảm trước con người và cuộc đời mà dẫn đến thái độ dửng dưng trước vẻ
đẹp phong phú và sự giàu có của lịch sử văn hóa dân tộc.
Sẽ không ai trách chúng ta khi chỉ thích học Tin học, Kinh tế, Ngoại ngữ…
Nhưng nếu chỉ giỏi chữ số mà quên chữ viết, giỏi kĩ thuật mà kém văn hóa thì sẽ là
thiệt thòi lớn cho mỗi con người.

Việc học hành quan trọng như vậy, do đó chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của
việc học hành. Đúng là : “Nếu không có học hành đến nơi đến chốn thì lớn lên,
chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích”.
Hiện nay, một số bạn trẻ không nhận thức được tầm quan trọng của việc học
đối với sự thành công hay thất bại của đời người. Nhận thức lệch lạc thường dẫn
đến hành động sai lầm. Bỏ học đi chơi, giao du với những thành phần bất hảo để rồi
bị rủ rê, sa ngã vào con đường cờ bạc, chơi bời, hút chích… dần dần những người
đó sẽ đánh mất nhân cách, mất khả năng làm việc và trở thành gánh nặng cho gia
đình, xã hội. Một cuộc sống như thế không đáng gọi là cuộc sống của một con
người chân chính. Đến lúc nào đó tỉnh ngộ, dẫu có ăn năn, hối hận thì cũng đã
muộn màng.
Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở và cuộc
đời nếu đem áp dụng vào thực tiễn sẽ mang lại nhiều thành quả tinh thần, vật chất
cho cuộc sống của bản thân, gia đình và xã hội.
Tri thức loài người mênh mông như biển cả (“Bể học vô bờ”). Dẫu chúng ta có
miệt mài học suốt cuộc đời thì cũng chỉ là tiếp thu được một phần rất nhỏ. Bác Hồ
dạy : “Học ở trường, học trong sách vở; học lẫn nhau và học ở dân”. Lenin cũng
từng khuyên thanh niên : “Học ! Học nữa ! Học mãi !”. Đó là những lời khuyên chí
lí, có giá trị đối với mọi thời đại. Nếu không coi trọng việc họ thì chúng ta sẽ không
thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của đất nước trong giai đoạn mới.
ĐỀ 3: HÃY TRÌNH BÀY NỔI BẬT LỐI SỐNG VÔ CÙNG GIẢN DỊ , THANH
BẠCH CỦA BÁC HỒ
Bài làm
Theo lời kể của những người từng được sống gần Bác hoặc qua những tư liệu
còn lưu trữ được, chúng ta thấy việc ăn, mặc, ở cũng như sinh hoạt, chi tiêu hàng
ngày Bác đều hết sức tiết kiệm. Mỗi bữa ăn, Bác quy định không quá 3 món và
thường là các món dân tộc như: tương cà, dưa, cá kho... Bác bảo ăn món gì phải hết
món ấy, không được để lãng phí. Có quả chuối hơi “nẫu”, nhiều người ngại không
ăn, Bác bảo lấy dao gọt phần nẫu đi để ăn. Khi đi công tác các địa phương, Bác
thường bảo các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm, thức ăn từ nhà mang đi. Chỉ

khi nào công tác ở đâu lâu, Bác mới chịu ăn cơm, nhưng trước khi ăn, bao giờ Bác
cũng dặn “chủ nhà” là: Đoàn đi có từng này người, nếu được, chỉ ăn từng này, từng
10


này...
Có thể dẫn ra nhiều câu chuyện về cách ăn uống chắt chiu, tiết kiệm của Bác.
Thậm chí liên hoan chào mừng Ngày thành lập Đảng cũng chỉ có bát cơm, món
xào, tô canh và đĩa cá. Khi tiếp đãi khách, Bác thường nói: “Chủ yếu là thật lòng
với nhau”. Chiêu đãi đồng chí Lý Bội Quần, người Trung Quốc đã giúp Bác mua
chiếc máy chữ từ Hải Phòng mang về, Bác cũng chỉ “khao” một món canh và hai
đĩa thức ăn, có thêm chén rượu gạo, tổng cộng chưa hết một đồng bạc, thế mà vẫn
đậm đà tình cảm giữa chủ và khách.
Bác nói: Ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại
đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì không nên. Hơn nữa, Bác
luôn nghĩ đến người khác, có món gì ngon không bao giờ Bác ăn một mình. Bác sẻ
cho người này, sẻ cho người kia rồi sau cùng mới đến phần mình và phần Bác
thường là ít nhất.
Trong trang phục hàng ngày, Bác chỉ có bộ quần áo dạ màu đen mặc khi đi ra
nước ngoài; chiếc mũ cát Bác đội khi đi ra ngoài trời; chiếc áo bông, áo len Bác
mặc trong mùa lạnh và một vài bộ quần áo gụ Bác mặc làm việc mùa hè. Nói về sự
giản dị trong cách ăn mặc của Bác, có lẽ ấn tượng nhất phải kể đến đôi dép cao su
và bộ quần áo ka-ki. Đôi dép cao su được Bác dùng hơn 20 năm đến khi mòn gót
phải lấy một miếng cao su khác vá vào, các quai hay bị tuột phải đóng đinh giữ.
Còn bộ quần áo ka-ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ áo. Những người giúp việc
xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác bảo: “Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh
của dân, của nước, không cần phải thay”.
Về chỗ ở, khi Bác mới về nước là một hang đá thuộc Pắc Pó, Cao Bằng. Sau
này vì bí mật nên Bác phải ở nhà riêng nhưng rất đơn giản. Nhà làm nhỏ, bốn bề với
tay được vì tiết kiệm nguyên vật liệu. Đến năm 1954, Chính phủ chuyển về thủ đô

Hà Nội, nhiều người đề nghị Bác ở Phủ Toàn quyền Đông Dương tráng lệ, nhưng
Bác đã từ chối và chỉ chọn căn phòng nhỏ của người thợ điện đơn sơ bên ao cá để ở.
Mãi đến ngày 17-5-1958, Bác mới chuyển về ở căn nhà sàn chỉ vẻn vẹn có 23,14
m2 cho đến lúc qua đời.
Nhận xét về nếp sống giản dị của Bác, một tờ báo nước Pháp đã viết: “Sự ăn ở
giản dị đến cực độ, như một nhà ẩn sĩ, đó là một đức tính rõ rệt nhất của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Một tuần lễ ông nhịn ăn một bữa, không phải là để hạ mình cho khổ
sở, mà là để nêu một tấm gương dè xẻn gạo cho đồng bào đặng làm giảm bớt nạn
đói trong nước. Hết thảy mọi người xung quanh đều bắt chước hành động đó của
ông...”.
ĐỀ 4: Hãy chứng minh lời dạy “Có công mài sắt có ngày nên kim”
Tục ngữ là túi khôn muôn đời của nhân dân. Mỗi câu tục ngữ là một bài học lớn.
Một trong những bài học ấy được đúc kết trong câu tục ngữ hàm súc : Có công mài
sắt có ngày nên kim.
Câu tục ngữ đã nêu lên một chân lí lớn bằng những hình ảnh tượng trưng đầy sức
thuyết phục. Sắt là một thứ kim loại cũng thế nhưng mài mãi cũng sẽ thành cây kim
nhỏ. Đó là một sự kiên trì, cố gắng phi thường. Từ một thỏi sắt to trở thành cái kim
nhỏ phải tốn bao công sức, mồ hôi mới có được. Mới nghĩ đến, ta đã thấy ngại
ngùng. Chẳng ai hơi đau ngồi kì công mài sắt thành kim như thế. Công việc này
11


tưởng trừng như khó khăn không thể làm nổi. Thế mà vẫn có người không quản
gian nao, không sá công phu, vẫn gắng sức làm cho kì được. Cho nên cây kim dù
rất nhoe bé, không đáng gì nhưng nó là thành quả của biết bao sự cố gắng, kiên trì
nhẫn nại. Nghĩa đen của câu tục ngữ chỉ là việc mài sắt thành kim, nhưng nếu suy ra
nghĩa bóng thì thật là rộng. đó là một lời khuyên, một bài học mà ông cha ta đã đúc
kết từ ngàn đời truyền lại cho con cháu hôm nay và mai sau. Đó là lời răn dạy : Có
sịư kiên trì nhẫn lại và quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm xong cho dù việc đó rất
khó khăn, tưởng như không thể hoàn thành được.

Bác Hồ đã từng dạy: ( trích câu ở đề 2)
Cũng là nói về tinh thần không ngại khó. Qua lời dạy của Bác ta càng hiểu thêm về
sức mạnh của lòng kiên trì, bền bỉ. Có quyết tâm lớn thì việc gì cũng làm được, cho
dù đó là việc đào núi và lấp biển. Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao tấm
gương tiêu biểu đã "mài sắt" để có ngày nên kim.
Tấm gương không đâu xa đó chính là BH _ người Cha của dân tộc. Đất nước
được hoà bình tự do như ngày hôm nay chính là một phần nhờ vào lòng kiên tri bền
vững trí của Bác. Khi còn là chàng thanh nên trẻ tuổi, Bác đã từ biệt mọi người ra đi
tìm đường cứu nước. Ở nơi đất khách quê người Bác đã làm mọi việc để kiếm
sống : làm phụ bếp trên tàu, làm người cào tuyết giữa mùa đông giá lạnh ở chân
Âu....
“Có nhớ chăng hỡi gió rét thành Ba Lê
Một viên gạch hồng BÁc chống lại cả một mùa băng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya.”
Biết bao vất vả cực nhọc, Bác chẳng sờn lòng, Bác kiên trì nhẫn lại đi đến tất cả
các nước, các dân tộc trên thế giới để tìm hiểu con đưòng giải phóng dân tộc của họ.
Cuối cùng sự kiên nhẫn của Bác đã được đền đáp xứng đáng. Người đã tìm thấy
con đường cho dân tộc thoát khỏi cảnh no lệ lầm than.
Tấm gương Bác Hồ chói sáng rực rỡ , trước hết là ở chỗ :Có công mài sắt có
ngày nên kim.
Gần gũi với chúng ta không ít nhưng tấm gương sáng đang khâm phục, như
Nguyễn Ngọc Ký. Anh bị liệt cả hai tay nhưng mong ước đến trường vẫn luôn thôi
thúc anh. Thế là anh bắt đầu tập viết bằng hai chân. Những nét chữ đầu tiên thâth là
khó nhưng anh không chịu nản lòng và bây giờ anh đã trở thành một nhà giáo ưu tú,
được các em học sinh yêu quý, kính trọng. Anh còn là một cây bút quen thuộc với
chúng ta.
Trong lao động, tấm gương của nhà bác học Trương Định Của đúng là một bằng
chứng hùng hồn. Để lai tạo một giống lúa mới có năng suất cao, có khả năng chống
rầy tốt, ông phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hàng ngày từ tờ mờ đất, ông ra

ruộng lội bì bõm nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua vài vụ lúa, một
giống lúa mới được ra đời.
Chính sự kiên nhẫn bền bỉ của ông đã đem no ấm đến cho đời. Rồi Mai An Tiêm, rõ
ràng nhời chăm chỉ, kiên trì đã làm chủ cuộc sống nơi đảo hoang không một bóng
người.
Trên thế giới, không ai là không biết nhà bác học người Pháp Pie Quyri và Mari
Quyri. Họ đã kì công trong bốn năm trời lọc đi lọc lại tám tấn bã quặng để tìm một
phần mười gam chất phóng xạ radium.
12


Không chỉ có học tập những con người nổi tiếng mà tấm gương của những người
lao động xung quanh mình cũng rất đáng tuyên dương.
Lời khuyên răn của ông cha ta luôn đúng đắn, thiết thực. Nó sẽ có ý nghĩa to lớn
hơn khi ta thực hiện tốt lời dạy đó.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------ĐỀ 5: Chứng minh lời dạy trong câu tục ngữ”gần mực thì đen gần đèn thì sáng” là
đúng.
Từ xưa,trong cuộc sống lao động và chiến đấu của mình,nhân dân ta đã rút được
biết bao bài học quý giá.Đó là những kinh nghiệm trong sản xuất,chiến đấu và cách ứng
xử trong xã hội.Đó là cách nhìn nhận mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình
thành nhân cách của mỗi người.
Câu tục ngữ : “Gần mực thì đen,gần đen thì rạng” đã nói lên kinh nghiệm đó.
Để nêu lên một bài học,một kinh nghiệm trong cuộc sống,ông cha ta thường mượn hình
ảnh một sự vật có liên quan đến con người để thể hiện ý của mình.Mực màu đen,tượng
trưng cho những cái xấu xa,những cái không tốt đẹp.Đèn là vật phát ra ánh sáng,soi tỏ mọi
vật xung quanh,tượng trưng cho những cái tốt đẹp,sáng sủa.Từ hai hình ảnh tương phản
nhau “mực và đèn”,câu tục ngữ đã đưa ra kết luận : “Gần mực thì đen,gần đèn thì
rạng”.Đó là quy luật của sự vật.Dựa vào thực tế cuộc sống của con người,ta thấy câu tục
ngữ hoàn toàn đúng khi xét trong mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành
nhân cách mỗi người.Nhưng trong vài trường hợp đặc biệt,có thể gần mực mà không

đen,gần đèn mà không rạng.Vì con người có khả năng vượt khỏi hoàn cảnh,chế ngự môi
trường xung quanh.
Trong thực tế,hai mặt khả năng này không loại trừ nhau mà chúng bổ sung cho nhau,giúp
chúng ta hiểu một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành
nhân cách.
Trong kho tàng văn học dân gian,nhân dân ta có câu tương tự :
Ở bầu thì tròn,ở ống thì dài
Và :
Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
Những câu ca dao,tục ngữ đó đã khẳng định ảnh hưởng quyết định của môi trường xã hội
đối với việc hình thành nhân cách.Trong thực tế cuộc sống,nhà trường làm công tác giáo
dục tốt vì nhà trường đã chú ý đến quang cảnh sư phạm và xây dựng môi trường xã hội
tốt.Ở gia đình cũng vậy,cha mẹ là những tấm gương sáng,anh chị em hòa thuận,thì gia
đình sẽ có những người con ngoan.Ở lớp học cũng thế,lớp nào biết quan tâm xây dựng tập
thể tốt,quan hệ giữa thầy và trò,bạn bè đúng đắn,thân ái đoàn kết,thì lớp đó có nhiều học
sinh giỏi,đạo đức tốt.Gần gũi hơn,trong quan hệ bạn bè,nếu ta chơi với một người bạn
tốt,chăm ngoan,học giỏi,thì chúng ta sẽ học tập được những đức tính tốt ấy và sẽ trở thành
người tốt.Ngược lại,trong một gia đình,nếu cha mẹ không quan tâm đến con cái,anh em
không nhường nhịn nhau,thì con cái trong gia đình cũng dễ lười biếng,ăn chơi,đua đòi.
Ở những môi trường xã hội phức tạp càng dễ sinh ra những hành vi phạm pháp.
Trong thực tế,khó mà tạo ra một môi trường hoàn toàn lành mạnh và tốt đẹp.Trong xã hội
cũ cũng như trong xã hội chúng ta ngày nay,những yếu tố lành mạnh và chưa lành
13


mạnh,tốt đẹp và xấu xa thường xen kẽ vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.Có lúc,có
nơi,cái chưa lành mạnh,cái chưa tốt đẹp lại lấn át cái đẹp,cái lành mạnh.Đó là lúc môi
trường xã hội không thuận lợi cho việc hình thành nhân cách.Nhưng chính trong môi
trường không thuận lợi ấy,vẫn có những con người có phẩm chất cao đẹp,có tình cảm đạo

đức tốt đẹp,có những hành động cao cả.Chính trong môi trường không thuận lợi đó vẫn nở
rộ những bông sen thơm ngát từ chốn bùn đen hôi tanh.Đó là những con người biết vượt
lên trên mọi cám dỗ thấp hèn,làm được những việc có ích cho đất nước và cho chính bản
thân mình.
Ngày nay,trên đất nước ta còn nhiều hiện tượng tiêu cực,mặc dù chế độ ta về cơ bản là tốt
đẹp.Do đó,bất cứ lúc nào,vẫn có những trường hợp gần mực mà không đen,gần đèn mà
vẫn tối tăm.
Sống trong môi trường tốt đẹp,nhưng chúng ta vẫn phải tiếp xúc với những hiện tượng
không lành mạnh,những hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Câu tục ngữ là một lời khuyên bảo sâu sắc,đã mang đến cho chúng ta một bài học bổ
ích,có cách nhìn đúng đắn về mối quan hệ giữa môi trường xã hội với việc hình thành
nhân cách của bản thân.Câu tục ngữ giúp chúng ta xác lập một thế đứng vững chắc trước
những tác động tiêu cực ngoài xã hội và nếu bị rơi vào một hoàn cảnh không thuận lợi,đầy
rẫy những tiêu cực thì chúng ta nên có quyết tâm vượt qua.Nó giúp chúng ta có tinh thần
cảnh giác trước những tác động tiêu cực của môi trường xung quanh để luôn luôn “gần
mực mã vẫn không đen” và chúng ta nên có ý chí quyết tâm trở thành một ngọn đèn luôn
luôn tỏa sáng.
Đề 6: Hãy giải thích nội dung lời khuyên của Lê - nin : “Học, học nữa, học
mãi ”.
* Bài làm:
Trong cuộc sống này, tất cả mọi thứ đều phải thông qua sự ham mê, tìm hiểu,
nhận thức thì nó mới trở thành một định lí, một khái niệm hay nói một cách khác là
kiến thức. Từ xưa đến nay, con người qua lao động sản xuất đã tiếp nhận được bao
nhiêu điều thú vị trên thế giới. Đó cũng là một cách tích luỹ kiến thức. Chẳng
những vậy, những kiến thức được lưu truyền từ đời này sang đời khác bằng rất
nhiều hình thức như truyền miệng hay sách vở v.v... Vai trò của việc học tập đã
được khẳng định từ xa xưa. Chính vì vậy, Lê-nin, một vị lãnh tụ vĩ đại đã có một
câu nói rất nổi tiếng. Đó chính là :”Học, học nữa, học mãi”.
Câu nói trên chính là một lời khuyên, một định hướng đúng đắn trong
cuộc sống. Có học mới có được kiến thức, có được kiến thức mới có thể có hành

trang để bước vào đời. Cái “học” ở đây không đơn thuần là tiếp nhận kiến thức
khoa học mà nó còn là tiếp nhận kiến thức đạo đức, lí lẽ, biết phân biệt tốt xấu. Nó
còn thể hiện cần học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi phương diện, từ thầy cô đến bạn bè, từ
người lớn tới trẻ nhỏ, bất kì ai cũng đều có những ưu điểm. Chúng ta hãy biết tiếp
nhận nó hoàn thiện nó để trở thành ưu điểm của riêng ta. Trong cuộc sống, đạo đức
giúp ta có thể giao tiếp chan hoà với mọi người, biết sử dụng ngôn từ nhuần
nhuyễn, thành thạo, đầy sức gợi cảm để chiếm được tình cảm mọi người xung
14


quanh. Để đạt được điều đó chúng ta cũng cần sự hỗ trợ về kiến thức khoa học, xã
hội. Kiến thức này giúp chúng ta có thể vận dụng trong cuộc sống, từ chữa bệnh đến
tính toán, từ xây dựng đến làm mộc. Mỗi loại kiến thức đều giúp ta mở rộng hiểu
biết về một lĩnh vực riêng. Như kiến thức toán học giúp chúng ta tính toán dễ dàng,
kiến thức văn học giúp ta có thể bay bổng, lãng mạn trong những vần thơ câu văn
hay uyển chuyển trong cách dùng từ, kiến thức địa lí giúp chúng ta biết thêm về
những miền đất mới, con người mới. Còn rất nhiều lĩnh vực khác nữa với nhiều
điều thú vị, hấp dẫn. Dường như hai loại kiến thức này đều bổ trợ tương xứng cho
nhau. Chính vì vậy chúng ta cần tiếp nhận kiến thức trong mọi lúc. Trong mỗi một
câu chuyện hay mỗi một lời nói đều ẩn chứa một phần của kiến thức, chúng ta chỉ
cần biết hợp những điều mà mắt thấy tai nghe, sự hiểu biết của chúng ta lại thì sẽ có
được một khái niệm, một chân lí, một định lí nào đó rồi hãy khắc ghi lại, sẽ có lúc
chúng ta cần vận dụng đến. Chính những vốn kiến thức từ bé, tu luyện bồi dưỡng
dần cùng thời gian, nó sẽ kết lại thành một khối kiến thức giúp ích cho ta về hiện tại
và cả về sau, nó giúp chúng có thể thành đạt trong cuộc sống. Một người nổi tiếng
có câu rằng: “Kẻ dốt nát không có nghĩa là kẻ kém trí thông minh mà là kẻ không
biết học hỏi, tìm tòi, khám phá, và sẽ mãi là kẻ không có tự do vì trước mặt anh ta
mãi luôn là một thế giới xa lạ”.Chính vì vậy, chúng ta cần phải hiểu rõ được thế nào
là học, học nữa, và học mãi. Đó là những dẫn chứng khá rõ nét phần nào đã thấy
được ích lợi, mục đích, giá trị của việc học. Trong thời đại khoa học bây giờ thì nhu

cầu về học tập là rất cấp thiết. Và để theo kịp xã hội và cách thích nghi với đời sống
văn minh thì lại càng cấp thiết hơn. Cứ mỗi giờ trôi qua, mỗi ngày trôi qua thì lượng
kiến thức lại càng nhiều, do đó chúng ta cần phải luôn luôn học. Đó chính là ý nghĩa
của ý thứ hai “học nữa”. Còn “học mãi”. Thế giới kiến thức là rất rộng lớn, để tiếp
thu, tìm hiểu được hết mọi kiến thức thì chắc hẳn là không thể, thậm chí cả đời
người cũng không xong. “Mãi” ở đây là mãi mãi, là liên tục, không dứt. Câu nói
trên của Lê-nin-sử dụng cả biện pháp tăng cấp để thể hiện được giá trị việc học tập.
Hơn thế nữa, con người đang sống trong kỉ nguyên mới, bên cạnh những quyền lợi
khác thì “học tập” cũng là một quyền lợi, đồng thời cũng là nghĩa vụ của mỗi người
dân, là mục tiêu, yêu cầu mà bất cứ chính quyền nào cũng đặt ra đầu tiên và quan
tâm hàng đầu. Và nhiệm vụ của chúng ta là học tập để phục vụ đất nước, vì tương
lai của mình gắn liền với tương lai toàn dân tộc nói chung. Một người bác sĩ muốn
chữa bệnh cũng phải học tập, kể cả kinh nghiệm lẫn kiến thức. Một người nông dân
muốn cày cấy cũng phải học hỏi cách thức từ những người đi trước, có thể là không
qua sách vở. Nói cho cùng thì trình độ văn hoá của mỗi con người là rất quan trọng
trong cuộc sống và học tập – một lí tưởng cao đẹp lại là nền tảng cho mục tiêu quan
trọng ấy. Cuộc sống sẽ luôn thay đổi theo những chiều hướng tốt đẹp hơn, hoàn
thiện hơn nếu mỗi con người biết học tập một cách đúng đắn. Như Bác Hồ, một con
người gắn liền với nền độc lập nước ta và cũng là con người gần gũi với chúng ta
nhất cũng khẳng định rằng học tập là nền tảng cho một đất nước hùng mạnh. Tuy
vậy, hiện nay vẫn có một số người vẫn chưa thấm thía được ích lợi từ học tập, họ
vẫn cho rằng học chỉ là phương tiện của nhiều mục đích khác nhau. Có người cho là
vì tiền, có người lại cho là vì chức quyền. Nhưng không, mục đích của việc học tập
là đổi mới con người, xã hội bởi kiến thức, khoác lên cho dân tộc, thế giới một bộ
áo văn minh, hiện đại mà
mỗi chúng ta chính là người được hưởng thành quả ấy.
15


Thấm hiểu những ý nghĩa sâu sắc trong câu nói nổi tiếng của Lê-nin ấy cũng

chính là đã nhận ra được chân lí của học tập. Chúng ta cần biết học hỏi cho đúng,
cho phải, biết chọn lựa mà học, hãy biết chắt lọc những gì tinh hoa nhất mà cảm
nhận để những tiêu cực sẽ bị thay thế, tinh cầu này sẽ sống trong văn minh, và mỗi
chúng ta sẽ là con người lịch sự, là con người có ích cho xã hội hay chính là tâm
điểm sáng suốt trong mọi thời đại.
----------------------------------------------------------------------------------------------------ĐỀ 7: Giải thích câu tục ngữ: "Không thầy đố mày làm nên"
Đề bài: Ông cha ta có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Bằng hiểu biết của
mình, em hãy làm sáng tỏ câu tục ngữ đó.
Bài làm
Trong xã hội, người thầy mang một vai trò rất quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn
luyện, hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách của lứa tuổi học sinh. Điều đó
cũng được ông cha ta quan niệm, khẳng định từ hàng nghìn đời nay. Chính vì vậy
trong kho tàng tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm
nên” để bộc lộ rõ nét điều đó.
Câu tục ngữ trên mang hình thức thách đố nhưng bản chất lại là câu khẳng định, nó
còn mang cấu trúc kiểu phủ định, thuộc loại câu hỏi tu từ. Hai từ: “thầy” – “mày”,
từ “mày” không có ý nghĩa hạ thấp giá trị học sinh mà để đi liền với chữ “thầy” cho
vần và dễ nhớ. Câu tục ngữ này nêu lên vai trò quan trọng của người thầy đối với
nền giáo dục và học sinh, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta phải biết ơn, kính trọng
thầy cô giáo. Không chỉ vậy, câu tục ngữ này còn mang giá trị truyền thống tôn sư
trọng đạo của dân tộc Việt Nam từ rất lâu đời.
Thầy không chỉ là người dạy dỗ chúng ta về kiến thức mà còn là người dạy ta đạo
đức, phẩm chất, giá trị mỗi con người. Học chữ, học làm việc, tất cả mọi cái học
đều phải có thầy. Có thể nói thầy như thế hệ đi trước, trải qua biết bao kinh nghiệm
trong cuộc sống, nay truyền thụ lại kiến thức cho học sinh, mở đường chỉ lối, giúp
ta có con đường đúng đắn nhất để đi. Công lao đó không gì sánh nổi. Những ngày
đầu tiên bước vào lớp, thầy đã dìu dắt, dạy dỗ, chỉ bảo. Thầy dạy học đếm, học viết,
học đánh vần. Lên lớp cao, thầy dạy cho chúng ta những điều sâu sắc. Suốt quá
trình học tập thì thầy là người luôn sát cánh bên ta, trợ giúp, nâng đỡ , chắp cánh
cho ta bay vào tương lai. Không một người học sinh nào có thể thành đạt vào đời

mà không có sự kèm cặp của thầy. Tất nhiên là nếu thầy dạy cho chúng ta mà chúng
ta không biết tiếp nhận, không biết vận dụng thì công sức của thầy cũng chỉ là
không. Chính vì vậy chúng ta cần phải biết rằng tâm huyết của thầy dành cho chúng
ta là hết mình nên chúng ta cũng phải nỗ lực, cố gắng, chịu khó để không phụ lòng
những công ơn đó. Công lao của thầy đối với sự nghiệp sau này của học sinh là vô
cùng lớn, nó chính là mầm mống của sự thành đạt. Khi một người thầy hết lòng vì
học sinh thì đó chính là niềm đam mê yêu nghề của thầy và cũng là tư tưởng lớn
trong nền giáo dục.
Chúng ta có được ngày hôm nay cũng chính là do sự dìu dắt của thầy. Thầy đã
truyền thụ kiến thức, rèn giũa những phẩm chất cao quý tốt đẹp trong mỗi con
người chúng ta để chúng ta trở thành những viên kim cương sắc bén, đã được gọt
giũa, luôn toả sáng trong đường đời, và cũng chính điều đó nhắc nhở chúng ta hãy
16


biết kính trọng người thầy ở mọi lúc mọi nơi, hình ảnh của người thầy phải đi vào
sự tôn kính trong mỗi chúng ta. Hãy biết vận dụng vốn kiến thức của thầy đã truyền
thụ kết hợp với khả năng vốn có của bản thân để tạo nên một sự thành đạt rực rỡ
trong cuộc đời của mình. Đó chính là những gì thầy mong muốn, gửi gắm niềm tin
ở ta. Và nó cũng thể hiện lòng tôn kính một cách sắc nét nhất đối với thầy. Câu tục
ngữ này mang giá trị trường tồn cùng thời gian và trong bất kì hoàn cảnh nào thì
nghĩa của nó cũng luôn được chấp nhận, khẳng định. Không chỉ vậy, câu tục ngữ
còn mang hình thức giản dị, âm điệu vui nhộn, nhưng ẩn chứa trong đó là biết bao
nỗi niềm, tâm sự của ông cha ta.
Nói tóm lại câu tục ngữ này muốn nói với chúng ta một điều sâu sắc nhất. Đó chính
là hãy hiểu được vai trò giá trị của người thầy, hãy biết suy nghĩ một cách toàn diện
nhất để có những thái độ bộc lộ sự kính trọng đối với thầy, không chỉ là lời nói, mà
còn bằng hành động. Hãy thể hiện rằng, chúng ta là những con người văn minh, biết
đạo lí làm người và xứng đáng là người con đất Việt.
Đề bài 8 : Dân gian ta có câu “Người ta là hoa đất”. Bằng hiểu biết của mình,

em hãy làm sáng tỏ câu tục ngữ trên.
Bài làm
“Giá trị của con người”. Khái niệm đó đã được người xưa hiểu từ rất lâu đời.
Những nhà trí thức thời xưa thì đã có óc nhận xét, phân tích sâu sắc và thể hiện dưới
những lời ca, truyền từ đời này sang đời khác.
Trong kho tàng văn học Việt Nam, để thể hiện giá trị của con người thì có vô số tục
ngữ, ca dao. Nhưng có một câu tục ngữ thể hiện điều đó lại mang một hình thức ẩn
dụ, rất sâu sắc khiến người đọc phải tò mò mà ngẫm nghĩ, nhẹ nhàng mà thấm thía
các ý sâu xa. Đó chính là câu tục ngữ “Người ta là hoa đất”.
Câu tục ngữ có 5 chữ nhưng mang nhiều điều hàm ẩn, hình ảnh hoa là một thứ đẹp
đẽ, thuần tuý, là kết tinh tạo hoá ban tặng mang một hương thơm nồng nàn, một vẻ
đẹp kiều diễm. Vậy thì hoa đất là gì? Hoa đất chính là mạch sống của đất trời, cũng
có thể nói hoa đất chính là con người. Tại sao vậy? Con người là một sinh vật hoàn
hảo của vũ trụ. Con người có hình thể, bản năng và trí tuệ - đó chính là thứ vũ khí
mạnh nhất. Trí tuệ đã đem lại cho con người sự tìm tòi khám phá, những kiến thức
khoa học tạo nên những bước ngoặt thành đạt thật đáng khâm phục. Con người có
thể xây nên những toà tháp có giá trị cả về kinh tế lẫn lịch sử, những máy móc hiện
đại để phục vụ con người. Những nền văn minh từ cổ đại tới hiện đại đều do một
tay con người tạo ra. Trong quá trình đấu tranh thiên nhiên, bạt núi, ngăn sông, khai
khẩn đất hoang, con người đã tin ở trí thông minh và sức lực của mình, con người
đã đứng lên xây dựng một xã hội, một tinh cầu văn minh. Câu tục ngữ trên đã
khẳng định điều đó. Dường như mọi tinh hoa, vẻ đẹp đều hội tụ vào con người. Và
nó còn đẹp trong lòng yêu thương của mỗi cá nhân. Sự gắn bó đi kèm với ý chí
chính là thứ để con người trường tồn cùng thời gian. Con người không chỉ là tâm
điểm của trái đất mà còn là tâm điểm của vũ trụ, Từ xa xưa, con người đã biết dựa
vào nhau để sống, đã biết trao đổi của cải vật chất. Trải theo cùng năm tháng, thời
gian thì những bông hoa đất đó đã tạo nên được những thành tựu như ngày nay. Tất
cả những điều đó đều thể hiện con người là ngọn đèn bất diệt.
Không đâu xa lạ, ngay trên đất Việt Nam này, nhân dân ta đã phấn đấu xây dựng
đất nước mình suốt từ Bắc chí Nam. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã làm cho đất

17


nước càng tươi đẹp. Nhân dân ta có mối tình cao cả, đoàn kết anh em từ miền
ngược tới miền xuôi. Các Vua Hùng có công dựng nước, nhân dân mọi thời có công
giữ nước. Những vị danh nhân, những nhà thành đạt toả sáng trên đường đời.
Những điều đó phần nào đã làm sáng tỏ được câu tục ngữ trên.
Thời xưa ông cha ta có những lối suy nghĩ và câu từ giản dị nhưng nó chứa đựng
biết bao nhiêu điều mà khiến chúng ta ngày nay thấm thía, cảm nhận mãi mà vẫn
chưa thể lĩnh hội hết được. Câu tục ngữ trên là một điển hình rõ nét. Có thể nói câu
tục ngữ này mang nhiều ý tứ sâu xa nhưng đúc kết lại bài học của nó là sự trân
trọng về giá trị con người. Đó không chỉ là một lời ca ngợi mà còn là một sự khẳng
định, một luận điểm đúng đắn sôi nổi thu hút nhiều suy nghĩ của những người xung
quanh.
ĐỀ 9: Giải thích câu tục ngữ "Người sống đống vàng"
Đề bài: Dân gian ta có câu “Người sống, đống vàng”. Bằng hiểu biết của mình, em
hãy làm sáng tỏ câu tục ngữ trên.
Bài làm
Trên thế gian này, con người là quý giá nhất. Con người có thể làm ra mọi thứ. Con
người nắm giữ, sử dụng thời gian, làm ra vàng bạc, lúa gạo, biết suy nghĩ. Sức lao
động của con người là vô hạn và cũng là cái để con người thực hiện những ước mơ,
là phương tiện tồn tại cùng với thời gian. Điều đó cũng được ông cha ta hiểu từ xưa
tới giờ và được đúc kết lại bằng câu tục ngữ: “Người sống, đống vàng”.
Câu tục ngữ trên thuộc câu so sánh ẩn dưới hai vế đối xứng với nhau. Vần lưng
giữa câu làm cho người nghe dễ nhớ, dễ hiểu. Câu tục ngữ mang hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất dân gian ví con người quý như vàng bạc, làm tôn giá trị tới mức
đỉnh cao. Nghĩa thứ hai là có con người thì sẽ có của cải, vật chất. Đúng như câu tục
ngữ, người xưa cũng đã từng có câu:
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.

Thật vậy, từ ngày xưa, nhân dân ta không có những phương tiện máy móc như hiện
giờ, mọi người chỉ biết dựa vào sức người, đôi tay và khối não. Đó chính là những
công cụ sống mà được truyền từ đời này sang đời khác và bất kì thời nào thì giá trị
của con người vẫn luôn được xem là bậc nhất, luôn được mọi người quan tâm hàng
đầu. Ngay cả từ thời trái đất còn sơ khai, con người đã biết săn bắt, trồng trọt, chăn
nuôi để tồn tại. Trải qua thời gian thì những phát minh được ra đời, những kinh
nghiệm được đúc kết lại làm hành trang vững bước cho thế hệ sau. Cứ dần dần như
vậy mà ngày nay, chúng ta đã được hưởng một thành quả lớn nhất là đời sống ổn
định, có của ăn, của để, có cây trồng, vật nuôi phục vụ đời sống.
Có thể nói con người làm chủ trên trái đất này, không có con người thì tất cả sẽ vô
vị, trở nên lạnh lẽo, dù có nhiều của cải đến đâu thì cũng chỉ là vô nghĩa vì không
được con người khai thác, sử dụng. Con người với năng lực của mình đã xây dựng
nên được những tháp chùa, nhưng toà lâu đài cổ kính trường tồn cùng thời gian.
Năng lực của con người sẽ mãi là một thứ vũ khí mạnh nhất để chống lại bất kì kẻ
thù nào và cũng là cái để làm nên tất cả.
Nói tóm lại, câu tục ngữ trên khẳng định tầm quan trọng và đề cao năng lực giá trị
con người. Nó không chỉ là một sự khẳng định mà nó còn là một lời khuyên, một
bài học, một tư tưởng đúng đắn dành cho mỗi chúng ta.
18


Giải thích câu tục ngữ "Đói cho sạch..."
Đề bài: Ông cha ta câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Bằng hiểu biết của mình em
hãy làm sáng tỏ câu tục ngữ đó.
ĐỀ 10: Giải thích câu tục ngữ "Đi một ngày đàng học một sàng khôn."
Trong cuộc sống, có những điều mà chúng ta chưa hề biết. Những kiến thức đơn
giản thì hiển hiện xung quanh chúng ta, còn những điều mới lạ, hấp dẫn thì lại ẩn
chứa trong xã hội. Chính vì vậy để có được kiến thức thì chúng ta phải biết tìm
hiểu, học hỏi, khám phá. Đó cũng chính là ước nguyện của ông cha ta nên tục ngữ
mới có câu rằng: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”

Câu tục ngữ này mang hai vế đối xứng với nhau. “Một” đối với “một”, đó chính là
hình thức đối xứng độc đáo. Câu tục ngữ này ý khuyên nhủ chúng ta hãy biết đi
đây, đi đó để được ở mang, tích luỹ kiến thức, tầm nhìn về xã hội. “Ngày đàng” ở
đây là một phép ẩn dụ. Nó không phải là con số cụ thể quy ước mà chỉ một khoảng
thời gian mà chúng ta tiếp nhận những điều hay lẽ phải ngoài xã hội. Không chỉ
vậy, ngụ ý của tác giả dân gian còn được bộc lộ rằng không phải bất kì cái mới mẻ
nào cũng có thể tiếp nhận mà hãy chắt lọc, thấm hiểu để nhận ra sự mới mẻ nào có
ích, sự mới mẻ nào có hại mà biết đường đề phòng tránh hay học tập. Điều đó được
thể hiện qua từ “sàng khôn”. Không chỉ vậy câu tục ngữ này còn nói lên thế giới đa
dạng và phong phú, nếu biết tiếp nhận nó một cách khéo léo thì kết quả thu được sẽ
rất lớn. Thật vậy. Ngoài xã hội có rất nhiều những điều hấp dẫn đối với những
người mới tiếp xúc. Đó là nơi văn minh, là nơi giao lưu học hỏi của các tầng lớp,
cũng là nơi trao đổi , buôn bán, có nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, những công
nghệ độc đáo, hay những kiến thức khoa học huyền bí. Từ những cách ăn nói ngoài
xã hội đến những hình thức ứng xử, tất cả đều là kiến thức, được khoác nhiều bộ áo
trên nhiều phương diện. Mặt tích cực không nhỏ nhưng mặt tiêu cực cũng không
phải là ít. Những tệ nạn xã hội, những trò đùa lôi kéo sự đam mê của con người dẫn
đến sự lu mờ về đạo đức, nhân phẩm. Có nhiều người mặc dù biết được tác hại của
nó nhưng đã dấn chân vào rồi thì khó lòng rút ra được. Do đó ý thức của chúng ta
trong việc tiếp nhận kiến thức tốt đẹp là hoàn toàn cần thiết. Ngày xưa, thời kì vật
chất còn xơ xài, ông cha ta ăn vất vả cực nhọc nên ý thức đã nhận ra rằng sự học hỏi
là thiết yếu trong việc thay đổi cuộc sống thêm tiến bộ, nhưng có mấy khi có điều
kiện để vượt khỏi luỹ tre làng. Vì vậy đó là một ước vọng lớn lao của ông cha ta.
Không chỉ thời bấy giờ mà ngày này, xã hội ngày một văn minh, đất nước đổi mới,
con người đang bước sang kỉ nguyên hiện đại, yếu tố học hỏi là không thể không
tồn tại. Để theo kịp những tiến bộ khoa học, con người cũng phải tìm hiểu, học tập
lẫn nhau để xứng đáng là một phần tử của đất nước, xứng đáng là một con người
văn minh, lịch sự. Chính những sự giàu đẹp của đất nước ngày một tăng cao đã là
sự thúc giục trong ý thức học hỏi ngoài đời của mỗi con người. Trong tất cả các môi
trường học tập thì dường như xã hội là một nơi sâu thẳm về kiến thức, là nơi chứng

kiến biết bao kinh nghiệm của con người và cũng là kho tàng để chúng ta tích luỹ.
Có biết bao nhiêu điều hay lẽ phải đang chờ chúng ta. Chắc chắn mỗi người đi ra
ngoài xã hội đều vấp phải những trở ngại, khó khăn, nhưng chính những điều đó lại
19


càng tăng thêm sức mạnh cho mỗi chúng ta. Tuy nhiên thì không phải học tập ngoài
xã hội chỉ đơn thuần như vậy mà còn cần phải học khôn, học chọn lọc những tinh
tuý, còn những điều tiêu cực thì lại là mặt trái để chúng ta biết tránh xa.
Nói tóm lại câu tục ngữ trên khuyên răn chúng ta về cách mở rộng hiểu biết, mở
rộng vồn kiến thức để tạo nên những thành quả vượt bậc và cách sống cao đẹp.
Đề bài 11: Mùa xuân là Tết trồng cây,Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.Bác
Hồ muốn khuyên dạy chúng ta điều gì qua hai dòng thơ này? Vì sao trồng cây trong
mùa xuân của đất trời lại có thể góp phần làm nên mùa xuân của đất nước?
Bài làm
Mùa xuân năm Canh Tý 1960, giữa lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thi đua lập
thành tích chào mừng kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (3/2/1930 - 3/2/1960), chào
mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và đón Tết cổ truyền của dân tộc, Tết Canh Tý,
Bác Hồ phát động tết trồng cây. Từ mùa xuân ấy, cứ mỗi độ xuân về, đồng bào cả nước,
từ già đến trẻ, từ miền xuôi đến miền ngược... lại nô nức tham gia tết trồng cây. Và từ
sau ngày Bác đi xa, mùa xuân năm Canh Tuất 1970, tết trồng cây lại thêm một ý nghĩa
lớn lao: Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ. Tết trồng cây thật sự đã trở thành một mỹ
tục trong ngày tết xuân của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người”. Người cũng nói:
“Muốn làm nhà cửa tốt
Phải ra sức trồng cây
Chúng ta chuẩn bị từ rày
Dăm năm sau sẽ bắt tay dựng nhà”.
Những mục đích, những khái niệm rất cụ thể, rất giản dị. Việc trồng cây là để lấy gỗ,

phục vụ trong sinh hoạt của con người, phục vụ đời sống con người. Trồng cây gây rừng
cũng là để cải thiện môi trường. Trồng cây, ai cũng làm được, từ các cụ già đến các em
nhỏ, đều có thể làm được. Thậm chí việc trồng cây lại rất phù hợp với các cụ già và các
cháu thiếu nhi. Trồng cây vào mùa xuân là đúng dịp, đúng tiết. Mùa xuân, mùa cây cối
đâm chồi nảy lộc, mùa sinh sôi của hoa lá. Mùa xuân có mưa xuân, đất ẩm, tiết trời ấm
áp, phù hợp với sự sinh trưởng của cây xanh. Trồng cây vào lúc này, cây bén rễ nhanh,
phát triển tốt. Và, đặc biệt hơn nữa, ngày tết xuân, mọi người, mọi nhà còn đang hưởng
không khí ngày tết, đang du xuân... cho nên không bận bịu cho lắm. Tham gia trồng cây
là tận dụng khoảng thời gian rỗi rãi của mỗi người trong ngày tết, ngày xuân. Phát động
trồng cây vào thời điểm này, thật là hợp lý. Ngày xuân, chỉ dăm bầu cây giống, một cái
thuổng là có thể đi trồng cây, đi làm một việc hữu ích cho xã hội. Nếu như ai đó đi hái
lộc ngày xuân còn có thói quen bẻ cả cành cây, ngọn cây đang mơn mởn, thì khi tham
gia tết trồng cây, sẽ thấm thía và thương cho cành cây ứa nhựa mỗi khi bị bẻ cành. Và
hẳn sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình ở các dịp du xuân sau.
Trong bài báo “Năm mới hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây”, in trên Báo Nhân Dân
20


ngày 1-1-1965, Bác viết:

Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Tết trồng cây thực sự trở thành một ngày hội, một mỹ tục. Trồng cây ngày xuân không
còn đơn thuần là lao động mà là một sinh hoạt văn hóa. Từ thuở xa xưa, con người ngoài
việc săn bắn, hái lượm tức là thu lượm sản phẩm của thiên nhiên để sinh tồn, đã biết
trồng trọt. Trồng trọt là bằng bàn tay và khối óc thuần hóa cây cối để có được quả, hoa,
hạt, củ, rễ, lá... nuôi sống con người. Đó là biểu hiện của văn minh nhân loại, quá trình
đó là văn hóa, sản phẩm của văn hóa.
Bác Hồ quan tâm da diết tới việc trồng cây gây rừng. Trồng cây gây rừng nói riêng và
lao động chuyên cần nói chung là tạo ra sản phẩm để đảm bảo cho cuộc sống ấm no,

hạnh phúc. Bác chăm lo đĩa rau, đĩa quả cho từng bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Bác
lo có cây, có gỗ cho dân làm nhà, có bóng mát cho các em học sinh đi học, người nông
dân ra đồng. v.v... Bác kêu gọi mọi người tham gia tết trồng cây, và chính Bác, mỗi khi
xuân về, Bác cũng đích thân tham gia trồng cây. Mùa xuân năm Kỷ Dậu 1969, mùa xuân
cuối cùng trong bảy mươi chín mùa xuân “vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng
trong sáng và đẹp đẽ” của Bác, Bác đã về tham gia Tết trồng cây tại đồi Vật Lại, Ba Vì
(tỉnh Hà Tây cũ).
Bình sinh, Bác Hồ luôn sống hòa mình với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên. Ngôi nhà
sàn của Bác ở thủ đô chung quanh là cây, cỏ, hoa lá, có ao cá, có tiếng chim... Người
khởi xướng Tết trồng cây là khởi xướng một mỹ tục, một nếp sinh hoạt đẹp trong ngày
tết xuân. Năm mươi năm đã trôi qua, năm mươi mùa xuân và cũng là năm mươi tết trồng
cây, hàng triệu triệu cây xanh đã được trồng và lên xanh tốt, hàng nghìn hécta đất trống
đồi trọc đã được phủ xanh, đất nước ta ngút ngàn màu xanh... Theo lời kêu gọi của Bác
Hồ, hàng năm, mỗi khi tết đến xuân về, nhân dân ta, từ già, trẻ, gái, trai đều nô nức tham
gia tết trồng cây, tham gia ngày hội trồng cây gây rừng.
----------------------------------------------------------------------------------------------------------ĐỀ 12: SUY NGHĨ VỀ CÂU "NHIỄU ĐIỀU PHỦ LẤY GIÁ GƯƠNG-NGƯỜI
TRONG MỘT NƯỚC PHẢI THƯƠNG NHAU CÙNG"
Bài làm
Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Để diễn đạt
tình nghĩa tha thiết này, ca dao có câu:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.”
21


Những hình ảnh trong câu ca dao thật dễ hiểu nhưng ý nghĩa của nó thì thật là sâu
sắc. “Nhiễu điều” là tấm vải đỏ; “giá gương” là giá đỡ tấm gương. Hình ảnh “Nhiễu
điều phủ lấy giá gương” có nghĩa đen là tấm vải đỏ che phủ, giữ cho sạch và làm
đẹp cho giá gương cùng cả tấm gương. Hai tiếng “phủ lấy” nhắc nhở, thể hiện sự
gắn bó không tách rời giữa giá gương và nhiễu điều. Hình ảnh đó còn gợi lên nghĩa

bóng đó là sự yêu thương, đùm bọc, che chở. Lấy nghĩa bóng đó, dân gian muốn
nhắn nhủ mọi người trong cùng một cộng đồng cần phải biết yêu thương, đùm bọc,
che chở cho nhau: “Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là một lời
khuyên nhủ đậm đà tình nghĩa.
Vậy thì tại sao người trong một nước phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau? Trong tâm
thức mỗi người Việt Nam đều tin các dân tộc trên đất nước ta là anh em. Con người
cùng một nước, có cùng chung một nguồn gốc lịch sử. Mọi người trong cùng cộng
đồng, cùng làng, cùng nước,… đời sống vật chất, tinh thần luôn gắn bó với nhau, rất
cần đến sự quan tâm động viên giúp đỡ lẫn nhau; nhất là lúc có ai đó gặp khó khăn
hoạn nạn. Hơn nữa, không ai có thể sống lẻ loi trong xã hội mà phải hoà nhập vào
cộng đồng. Thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau là lẽ sống của mỗi người, nó đã
trở thành một truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta. Tình cảm yêu thương đoàn
kết tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần sẽ giúp con người vượt qua bao khó
khăn, chiến thắng kẻ thù và thiên tai, đi tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể kể đến các
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của nhân dân ta. Rồi những tấm lòng hảo
tâm đóng góp vào các quỹ từ thiện đã giúp nhiều người nghèo khó, bệnh tật khắc
phục được hoàn cảnh, vượt qua bệnh tật hiểm nghèo trở về với cuộc sống bình
thường.
Chúng ta phải làm thế nào để phát huy được đạo lí tốt đẹp đó? Chúng ta cần tránh
quan điểm : “Đèn nhà ai người ấy rạng.”, có thái độ dửng dưng đứng trước nỗi đau
khổ của họ hàng, làng xóm, dân tộc. Và yêu thương giúp đỡ lẫn nhau phải xuất phát
từ lòng chân thành, tự nguyện thì đó mới là nghĩa cử cao đẹp, đáng trân trọng. Để
phát huy được đạo lí tốt đẹp của nhân dân Việt Nam, chúng ta phải biết quan tâm,
giúp đỡ những người xung quanh khi họ gặp khó khăn hoạn nạn với thái độ chân
thành, kịp thời. Thương yêu, đùm bọc lẫn nhau là biểu hiện sự đoàn kết dân tộc.
Mỗi người cần phải biết giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
Ý nghĩa của câu ca dao đã trở nên muôn đời. Vì đó là bài học đã đúc kết bằng tâm
huyết của nhân dân ta. Hơn bao giờ hết, chúng ta phải biết phát huy mạnh mẽ
truyền thống tốt đẹp đó.
ĐỀ 13: Dân gian có câu : Lời nói gói vàng , đồng thời lại có câu : lời nói chẳng

mất tiền mua . Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau . Em đã hiểu giá trị của lời nói
như thế nào trong 2 câu thơ trên
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý
tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình… Nói chung, nhờ lời nói
mà con người có thể hiểu nhau và dễ đến gần nhau hơn. Nói thì dễ nhưng nói như
thế nào để không mất lòng người nghe, nói như thế nào để “lọt” đến xương, nói làm
sao để “mật ngọt chết ruồi” thì không dễ chút nào, nhất là những lúc ta đang “nổi
khùng” thì ta càng dễ nói tầm bậy. Vì thế cha ông ta có khuyên: “Uốn lưỡi bảy lần
22


trước khi nói”, vì lời nói bay đi thì không thể lấy lại được, nên ta hãy cẩn thận trước
khi nói.
Tâm lý chung của con người là thích nghe ngọt. Những lời nói tốt đẹp không làm
chúng ta tốn kém tiền bạc hay hao tổn sức lực, nhưng nó đem lại nhiều ích lợi và
làm cho người nghe được an ủi, khích lệ và làm cho tình thân giữa ta với người
khác được thêm thắm thiết đậm đà. Dĩ nhiên, chúng ta không nên vì “lựa lời” mà
nói với nhau những lời giả dối. Trái lại, chúng ta cần nói thật với nhau bằng tấm
lòng yêu thương.
Lại có một câu chuyện kể lại rằng:
Ngày xưa có một ông vua nước Ai-cập gửi cho nhà hiền triết Bias một con vật vừa
quý lại vừa hiếm để tế lễ các thần minh. Thế nhưng, ông vua này muốn chơi khăm
nhà hiền triết một vố, bèn phán:
- Sau khi cúng kiếng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất lại vừa xấu
nhất nơi con vật quý hiếm ấy.
Nhà hiền triết cũng không phải là tay vừa, bèn xẻo ngay cái lưỡi trao cho ông vua.
Cử chỉ đó gián tiếp nói lên rằng:
- Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất
nếu không biết sử dụng.
Đúng thế, cái lưỡi là một bộ phận quan trọng để phát ra tiếng nói. Tiếng nói là một

phương tiện hữu hiệu để chuyển đạt cho người khác biết những tư tưởng, những ý
nghĩ, những ước muốn thầm kín; nhờ đó bắc lấy một nhịp cầu cảm thông. Lưỡi
đóng một vai trò quan trọng như vậy, song cái lưỡi cộng với lời nói lại chính là
nguyên cớ làm cho chúng ta dễ vấp phạm hơn cả, bởi vì chúng ta có thể vấp phạm ở
bất kỳ đâu, trong bất cứ lúc nào và với bất kỳ ai.
Tục ngữ cũng đã có câu:
“Không nọc nào độc cho bằng cái lưỡi”. Hay:
“Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”.
Một lời nói thiếu suy nghĩ được sánh ví như đổ thêm dầu vào lửa, làm bừng lên sự
tức giận, thiêu huỷ hết tình ruột thịt cũng như tình nghĩa anh em. Hơn nữa, trong
cộng đoàn tu trì gồm những con người từ “khắp tứ phương thiên hạ”, mỗi người
mỗi tính nết, mỗi người một kiểu sống khác nhau, nên không thể tránh được hết
những va chạm, những bực bội, những buồn phiền… Nhiều khi chính chúng ta lại
là những người gây ra những đau khổ, buồn phiền cho người khác chỉ bằng những
lời nói thiếu cân nhắc trước sau.
Cụ thể ngay trong cuộc sống hàng ngày, nhiều khi có thể vô tình thôi, chúng ta
chọc ghẹo anh chị em mình bằng những lời nói nghe hơi… “rát tai”, nghe mà “đau
nhói cả tim”. Nhiều khi chúng ta chỉ muốn nói cho sướng cái miệng của mình,
nhưng lại không để ý đến nỗi đau của người anh chị em mình khi phải nghe những
lời chọc ghẹo đó.
Do vậy, trong cộng đoàn tiếng cười là cần thiết, nó đem lại niềm vui cho cộng đoàn
là điều cần làm và nên làm. Nhưng chúng ta cũng cần phải ý tứ hơn nữa trong
những lời chọc vui để những lời chọc vui đó không những đem lại niềm vui cho
mình mà còn làm cho người bị chọc cũng được vui cười thoải mái. Dựa vào lời nói,
người khác có thể biết được phần nào tâm hồn của chúng ta. Được yêu mến và kính
trọng hay bị khinh bỉ và ghét bỏ, một phần lớn là do cái lưỡi và lời nói của chúng ta.
Như thế, cái lưỡi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành uy tín và thế
23



giá của mỗi người, như một câu danh ngôn đã dạy: “Lưỡi người khôn ngoan tạo nên
danh dự, còn mồm kẻ ngu dại gây đổ vỡ tan hoang”. Bởi đó, ta cần phải biết đắn đo
cân nhắc trong cách ăn nói của mình để tránh đi những hiểu lầm, đau khổ cho người
khác. Phải sử dụng lời nói như một phương tiện, giúp chúng ta cảm thông và xích
lại gần nhau hơn “vui lòng khách đến vừa lòng khách đi” là vậy. Ý thức được tầm
quan trọng của ngôn từ, chúng ta hãy chú ý những ngôn từ chúng ta dùng trong
ngày. Phải có trách nhiệm khi sử dụng ngôn từ, bởi vì qua những lời chúng ta nói,
chúng ta có thể đem lại niềm vui Phục sinh nhưng cũng có thể đem lại đau khổ thập
giá cho những anh em trong cộng đoàn và chúng ta cũng nên lắp đặt một… “Cái
thắng” vào miệng, để những lúc ngứa mồm, muốn phát ngôn bừa bãi, thì biết “stop”
lại đúng nơi và đúng lúc. Để kết thúc, xin mượn câu nói của cha ông ta nói về ngôn
từ: Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói. Hoặc Lựa lời mà nói khó thay ! Tiếng chì,
tiếng bấc thường hay “chàng ràng” Khi ai mở miệng nói ngang Thì ta chắc chẳng
ngại “phang”…. “mỹ từ” Một tia lửa nhỏ sơ sơ Khu rừng lớn mấy mặc dù, cháy tiêu
Giữa ngàn thế sự đảo điên Có ai áp dụng lời khuyên bao giờ Lời nói không mất tiền
mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
-----------------------------------------------------------------------------------

ĐỀ 14: Giải thích câu : thất bại là mẹ thành công
Bài tham khảo 1
Bản chất của thành công
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo đuổi?
Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi tiết?
Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu
sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy giành chút thời gian để lặng mình
suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một
cách giản dị đến bất ngờ.
Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ
thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu đỏ
sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì

hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công
khi tặng mẹ “đoá hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà
quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.
Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại bình
thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ lực
khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ
được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở
hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh
để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử sĩ”.
Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV1 lấy tới hai bảy phẩy
24


năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công - bị - trì – hoãn mà
thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với NV2, NV3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức
để khẳng định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất
của thành công.
Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Truyện kể về một cậu
bé nghèo với bài văn tả lại mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé viết
về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng
dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ - người phụ nữ đã nâng
đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại.
Nhưng đó mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu
thương của đứa cháu mồ côi dành cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm
nào thiêng liêng hơn thế?
Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại học với
vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành công
khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời
đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn

đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá học - của - một - người - cha.
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai mươi năm
trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường sự nghiệp
và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hi sinh những cơ hội của
đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô
công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với
tôi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”.
Mỗi khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả
đẹp đẽ của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành công thì
thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú như Bill Gates?
Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên
đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu
có về vật chất mà còn giàu có tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.
Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với Abramovich ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa, chỉ cần
bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận được
tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận lại được từ những cầu
thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như
thế!
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của bạn
là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ
rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói:
“Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà
thôi”. Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ
chẳng được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang
viết, với tôi, đó là một thành công.
25



×