Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Sinh lý máu và dịch thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.45 KB, 54 trang )

chơng 3

Sinh lý máu và dịch thể

Môi trờng sống ngày càng trở nên rất quan trọng đối với các lĩnh vực sinh học
và xã hội học. Môi trờng bên ngoài cơ thể (ngoại môi) của mọi sinh vật là thiên
nhiên bao la, gồm các điều kiện và hoàn cảnh tự nhiên nh không khí, thời tiết,
khí hậu, ngày đêm... Đối với con ngời, ngoại môi còn bao gồm các yếu tố về xã
hội. Yếu tố xã hội là do chính con ngời tạo ra, nhng nó lại có ảnh hởng trực tiếp
trở lại con ngời.
Một số sinh vật, đặc biệt là kí sinh trùng, ngoại môi là cơ thể vật chủ. Trong
lao động, con ngời còn coi môi trờng lao động xung quanh mình nh tàu ngầm,
tàu thuỷ, hầm lò, công sự, nhà máy... là ngoại môi. Các yếu tố của ngoại môi
luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian. Những thay đổi này là tác nhân
kích thích lên cơ thể sinh vật và con ngời.
Môi trờng bên trong cơ thể (nội môi) là môi trờng sống của mọi tế bào, là
chất dịch hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp nuôi tế bào. Nội môi có đặc tính là hằng
định, hoặc thay đổi trong một phạm vi rất hẹp. Sự thay đổi của các yếu tố nội
môi là nguyên nhân hay là hậu quả của nhiều cơ chế bệnh lý khác nhau. Vì vậy,
việc xét nghiệm, kiểm tra tính hằng định của nội môi là rất cần thiết để giúp cho
chẩn đoán, theo dõi điều trị và tiên lợng bệnh trong lâm sàng.
Nội môi của cơ thể bao gồm máu, dịch gian bào, dịch bạch huyết, dịch não
tuỷ, dịch nhãn cầu, tinh dịch, dịch trong cơ quan tiền đình và các thanh dịch.
Trong các loại nội môi trên đây, máu là thành phần quan trọng nhất. Máu chứa
đủ các vật chất cần thiết của cơ thể và cũng là nguồn gốc của nhiều dịch thể
khác. Cho nên, nói đến nội môi là ngời ta thờng nghĩ tới máu. Tuy vậy, khái
niệm nội môi cũng chỉ là khái niệm tơng đối. Ví dụ: máu là nội môi của cơ thể
nhng lại là ngoại môi của tế bào.
Con ngời từ khi sinh ra đã bị những qui luật khắc nghiệt của tự nhiên và của
xã hội chi phối. Để tồn tại và phát triển, con ngời phải luôn luôn thích nghi với
67




mọi sự biến đổi của môi trờng, phải cải tạo môi trờng sống và cũng phải biết bảo
vệ môi trờng sống của mình. Điều này có nghĩa là con ngời là một thể thống
nhất và thống nhất với môi trờng sống.

Khối lợng, thành phần và
chức năng sinh lý của máu.
1. Khối lợng.

Máu là tổ chức lỏng, lu thông trong hệ tuần hoàn. Trong 1 kg thể trọng, có 75
- 80ml máu. Trẻ sơ sinh có 100ml máu /kg cân nặng, sau đó khối lợng máu giảm
dần. Từ 2 -3 tuổi trở đi khối lợng máu lại tăng dần lên, rồi giảm dần cho đến tuổi
trởng thành thì hằng định. Một ngời trởng thành, bình thờng máu chiếm 7 - 9%
trọng lợng cơ thể. Một ngời nặng 50kg có khoảng 4 lít máu. Ngời ta có thể xác
định khối lợng máu chính xác bằng nhiều phơng pháp khác nhau: phơng pháp
tiêm các chất có màu vào máu, chất này ít bị lọc ra khỏi thận, phân huỷ nhanh
và không độc hại hoặc dùng các chất đồng vị phóng xạ đánh dấu hồng cầu.
Khối lợng máu tăng lên sau khi ăn, uống, khi mang thai, khi truyền dịch...
Khối lợng máu giảm khi cơ thể ra nhiều mồ hôi, nôn mửa, ỉa chảy, chấn thơng
có chảy máu bên trong hoặc bên ngoài cơ thể ... Nếu khối lợng máu tăng lên
trong cơ thể, dịch từ máu sẽ vào khoảng gian bào của da và các mô, sau đó nớc
đợc bài xuất dần theo nớc tiểu. Nếu khối lợng máu giảm trong cơ thể, dịch từ
khoảng gian bào vào máu làm cho khối lợng máu tăng lên. Trong nhiều trờng
hợp mất máu cấp diễn (mất máu ở các tạng lớn, các xơng lớn, mất máu đờng
động mạch ...) khối lợng máu bị giảm đột ngột, cơ thể không có khả năng tự bù
trừ; nếu không cấp cứu kịp thời, cơ thể sẽ không sống đợc.

2. Thành phần.


68


Máu gồm hai thành phần: thể hữu hình (huyết cầu) và huyết tơng. Các thể hữu
hình của máu là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, chiếm 43 - 45% tổng số máu,
chỉ số này đợc gọi là hematocrit. Hồng cầu là thành phần chiếm chủ yếu trong
thể hữu hình. Huyết tơng chiếm 55 - 57% tổng số máu. Huyết tơng chứa nớc,
protein, các chất điện giải, các hợp chất hữu cơ và vô cơ, các hocmon, các
vitamin, các chất trung gian hoá học, các sản phẩm chuyển hoá ... Huyết tơng
chứa toàn bộ các chất cần thiết cho cơ thể và toàn bộ các chất cần đợc thải ra
ngoài. Huyết tơng bị lấy mất fibrinogen thì đợc gọi là huyết thanh.
3. Chức năng sinh lý của máu.

Máu có rất nhiều chức năng , dới đây là những chức năng cơ bản của máu:
3.1. Chức năng dinh dỡng.
Máu mang trong mình toàn bộ các chất dinh dỡng để nuôi cơ thể. Các chất
dinh dỡng đợc đa từ ngoài vào qua đờng tiêu hoá. Ngoài ra bạch cầu còn vào
lòng ống tiêu hoá nhận các chất dinh dỡng theo kiểu "ẩm bào" và "thực bào", rồi
lại vào lòng mạch mang thêm một phần các chất dinh dỡng cho máu.
3.2. Chức năng bảo vệ.
Máu có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng nhờ cơ chế thực bào, ẩm
bào và cơ chế miễn dịch dịch thể, miễn dịch tế bào. Máu cũng có khả năng tham
gia vào cơ chế tự cầm máu, tránh mất máu cho cơ thể khi bị tổn thơng mạch máu
có chảy máu.
3.3. Chức năng hô hấp.
Máu mang 0xy từ phổi tới tế bào và mô, đồng thời máu mang cacbonic từ tế
bào và mô tới phổi.
3.4. Chức năng đào thải.
Máu mang các chất sau chuyển hoá, chất độc, chất lạ tới các cơ quan đào thải
(thận, bộ máy tiêu hoá, phổi, da ) để thải ra ngoài.

3.5. Chức năng điều hoà thân nhiệt.

69


Máu mang nhiệt ở phần "lõi" của cơ thể ra ngoài để thải vào môi trờng hoặc
giữ nhiệt cho cơ thể nhờ cơ chế co mạch da.
3.6. Chức năng điều hoà các chức phận cơ thể.
Bằng sự điều hoà tính hằng định nội môi, máu đã tham gia vào điều hoà toàn
bộ các chức phận cơ thể bằng cơ chế thần kinh và thần kinh - thể dịch.
4. Đặc tính của máu.

Máu có tính hằng định. Tính hằng định của máu đợc đánh giá qua các chỉ số
sinh lý, sinh hoá của máu. Các chỉ số này, trong điều kiện sinh lý bình thờng là
rất ít thay đổi hoặc chỉ thay đổi trong một phạm vi rất hẹp. Vì vậy chúng đợc coi
nh là một hằng số. Kiểm tra các chỉ số sinh lý, sinh hoá của máu là một việc làm
vô cùng quan trọng và rất cần thiết để đánh giá những rối loạn chức năng của cơ
thể.
Hồng cầu
1. Hình dáng và kích thớc.

Hồng cầu trởng thành, lu thông trong máu là tế bào không có nhân. ở điều
kiện tự nhiên, nó có hình đĩa lõm hai mặt, đờng kính khoảng 7,2àm, bề dày ở
ngoại vi là 2,2àm, ở trung tâm là 1àm (hình 3.1).
Thể tích một hồng cầu là
83àm3 (83femtolit). Nhờ có tính
đàn hồi tốt mà hồng cầu dễ dàng
thay đổi hình dạng khi đi qua các
mao mạch. Diện tích bề mặt hồng
cầu lớn (do có hai mặt lõm), vì

vậy khi hồng cầu biến dạng màng
hồng cầu không bị căng và vỡ ra.
Nếu tính diện tích toàn bộ màng
Hình 3.1. Hình dáng và kích thớc của hồng cầu.
hồng cầu trong cơ thể cộng lại, có
thể lên đến 3000m2.
2. Thành phần.

70


Tỷ lệ thành phần của hồng cầu
%

Các thành phần

67,00
28,00
0,30
2,00

Nớc
Hemoglobin
Lipid các loại (lecitin, cholesterol)
Những chất khác có chứa nitơ (enzym, protein,
glutation)
Urê
Các chất vô cơ (K+)

0,02

1,20

Hồng cầu có một cấu trúc đặc biệt với nhiều thành phần khác nhau. Nó gồm
một nền do protein và lipid tạo nên. Đa số lipid đều kết hợp với protein tạo thành
lipoprotein. Trong nền còn có glucose, clorua, phosphat... Nền và màng chiếm 2
-5% trọng lợng hồng cầu. Giữa các mắt của nền có hemoglobin. Hai thành phần
quan trọng nhất của hồng cầu đợc nghiên cứu nhiều đó là màng hồng cầu và
hemoglobin. Màng hồng cầu mang nhiều kháng nguyên nhóm máu.
Hemoglobin là thành phần quan trọng trong sự vận chuyển khí của máu.
3. Số lợng.

Ngời trởng thành, ở máu ngoại vi có 3,8 x 1012 hồng cầu/lít (đối với nữ); 4,2
x1012 hồng cầu/lít (đối với nam). Trẻ mới sinh, ở ngày đầu số lợng hồng cầu rất
cao (5,0 x1012 hồng cầu/lít). Sau đó, do hiện tợng tan máu, số lợng hồng cầu
giảm dần. Trẻ em dới 15 tuổi có số lợng hồng cầu thấp hơn ngời trởng thành 0,1
- 0,2 x 1012 hồng cầu/lít. Số lợng hồng cầu ổn định ở tuổi trởng thành.
Số lợng hồng cầu tăng lên sau bữa ăn, khi lao động thể lực, sống ở trên núi
cao 700 - 1000m, khi ra nhiều mồ hôi, đái nhiều, ỉa chảy, bỏng mất huyết tơng,
trong bệnh đa hồng cầu, bệnh tim bẩm sinh.... Số lợng hồng cầu giảm lúc ngủ,
khi uống nhiều nớc, cuối kỳ hành kinh, sau đẻ, đói lâu ngày, ở nơi có phân áp
oxy cao, các loại bệnh thiếu máu, suy tuỷ, nhiễm độc, chảy máu trong, chảy máu
do vết thơng...
4. Quá trình sinh hồng cầu

4.1. Nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của hồng cầu

71


Những tuần đầu của thai nhi hồng cầu có nhân đợc lá thai giữa sản xuất. Từ

tháng thứ hai trở đi gan, lách, sau đó là hạch bạch huyết cũng sản xuất ra hồng
cầu có nhân. Từ tháng thứ 5 của kỳ phát triển thai, tuỷ xơng bắt đầu sản xuất
hồng cầu và từ đó trở đi, tuỷ xơng là nơi duy nhất sinh ra hồng cầu. Sau tuổi 20
các tuỷ xơng dài bị mỡ hoá, còn tuỷ xơng xốp nh xơng sống, xơng sờn, xơng ức,
xơng chậu sản xuất hồng cầu. Vì vậy tuổi già dễ bị thiếu máu hơn.
Tế bào tuỷ xơng là tế bào gốc vạn năng có khả năng duy trì nguồn cung cấp tế
bào gốc và phát triển thành tế bào gốc biệt hoá để tạo ra các dòng khác nhau của
tế bào máu (theo thuyết một nguồn gốc). Tế bào gốc biệt hoá sinh ra hồng cầu đợc gọi là đơn vị tạo cụm của dòng hồng cầu: C.F.U.E (Colony forming unit
erythrocyt). Sau đó các tế bào dòng hồng cầu trải qua các giai đoạn sau đây.
Tiền nguyên hồng cầu (proerythoblast)
Nguyên hồng cầu a kiềm( normoblast a kiềm)
Nguyên hồng cầu đa sắc (normoblast đa sắc)
Nguyên hồng cầu (normoblast)
Hồng cầu lới (reficulocyt)
Hồng cầu trởng thành (erythrocyt)
Nhân của nguyên hồng cầu mất đi khi nồng độ hemoglobin trong bào tơng
cao > 34%. Hồng cầu chính thức không có nhân xuyên mạch rời bỏ tuỷ xơng
vào hệ tuần hoàn chung. Hồng cầu lới cũng có khả năng vào máu nh hồng cầu
trởng thành nhng tỷ lệ rất thấp chỉ chiếm 1% tổng số lợng hồng cầu ở máu ngoại
vi, khoảng 1-2 ngày sau hồng cầu lới trở thành hồng cầu trởng thành. Hồng cầu
sống trong máu khoảng 120 ngày (ngời da trắng), gần 120 ngày (ngời Việt).
Hệ thống enzym nội bào hồng cầu luôn luôn tổng hợp ATP từ glucose để duy
trì tính đàn hồi của màng tế bào, duy trì vận chuyển ion qua màng, giữ cho sắt
luôn luôn có hoá trị 2, đồng thời ngăn cản sự oxy hoá protein trong hồng cầu.

72


Trong quá trình sống, hệ thống enzym giảm dần, hồng cầu già cỗi, màng hồng
cầu kém bền và dễ vỡ.

Một phần hồng cầu tự huỷ trong máu, còn đại bộ phận hồng cầu bị huỷ trong
tổ chức võng - nội mô của lách, gan, tuỷ xơng. Hemoglobin đợc giải phóng ra bị
thực bào ngay bởi các đại thực bào lách, gan, tuỷ xơng. Đại thực bào giải phóng
sắt vào máu và nó đợc vận chuyển dới dạng ferritin. Phần porphyrin của hem
trong đại thực bào đợc chuyển thành sắc tố bilirubin giải phóng vào máu, rồi qua
gan để bài tiết theo mật.
4.2.Các nguyên liệu cần thiết cho quá trình sinh hồng cầu
Để tạo thành hồng cầu, trong cơ thể có hai quá trình song song: sự tạo
thành tế bào hồng cầu và sự tổng hợp hemoglobin. Đây là những quá trình rất
phức tạp, đòi hỏi nhiều nguyên liệu nh protein, cholin, thymidin, acid nicotinic,
thiamin, pyridoxin, acid folic, vitamin B12, Fe ++, nhiều enzym và chất xúc tác
cho quá trình tổng hợp này.
Vitamin B12 và acid folic rất cần cho quá trình tổng hợp
thymidintriphosphat, một trong những thành phần quan trọng của DNA. Thiếu
vitamin B12 và acid folic sẽ làm giảm DNA, tế bào sẽ không phân chia và không
trởng thành đợc.Lúc này các nguyên hồng cầu trong tuỷ xơng có kích thớc lớn
hơn bình thờng, đợc gọi là nguyên bào khổng lồ. Tế bào to ra là vì lợng DNA
không đủ nhng lợng RNA lại tăng dần lên hơn bình thờng, tế bào tăng tổng hợp
hemoglobin hơn và các bào quan cũng nhiều hơn. Các hồng cầu trởng thành sẽ
có hình bầu dục không đều, màng mỏng hơn và đời sống sẽ ngắn hơn (chỉ bằng
1/3 - 1/2 thời gian của hồng cầu bình thờng).
Vitamin B12 qua đờng tiêu hoá kết hợp với yếu tố nội (tế bào viền tuyến dạ
dày bài tiết). Phức hợp này gắn vào receptor màng tế bào niêm mạc hồi tràng và
vitamin B12 đợc hấp thu theo cơ chế ẩm bào. Vitamin B12 vào máu, dự trữ ở
gan. Nhu cầu vitamin B12 là 1 - 3 àg/24h. Trong khi đó sự dự trữ vitamin B12
của gan có thể gấp 1000 lần nhu cầu của cơ thể trong một ngày.
Thành phần thứ hai không kém phần quan trọng là sắt. Sắt đợc hấp thu theo
đờng tiêu hoá vào máu. Trong máu, sắt đợc kết hợp với một globulin là
73



apotransferrin để tạo thành transferrin vận chuyển trong huyết tơng (vì sắt liên
kết với globulin rất lỏng lẻo). Sắt đợc vận chuyển tới các mô đặc biệt: tổ chức
võng - nội mô và gan. Tại đây, sắt đợc giải phóng ra và đợc tế bào hấp thu.
Trong bào tơng, sắt kết hợp với một protein là apoferritin để tạo thành
ferritin là dạng dự trữ sắt. Một lợng nhỏ sắt đợc dự trữ ở dạng hemosiderin trong
tế bào. Đặc tính duy nhất của transferrin là nó gắn rất mạnh với receptor màng tế
bào nguyên hồng cầu. Trong tế bào, transferrin giải phóng sắt vào ty lạp thể. Tại
đây diễn ra quá trình tổng hợp hem. Mỗi ngày một ngời trởng thành cần 1mg
sắt. Phụ nữ cần sắt nhiều gấp đôi so với nam giới vì bị mất máu qua máu kinh
nguyệt. Sắt bị thải hàng ngày qua phân và mồ hôi.
Sắt đợc hấp thu ở ruột nhờ apoferritin do gan sản xuất, bài tiết theo mật vào
tá tràng. Apoferritin gắn với sắt tự do hoặc với sắt của hemoglobin, myoglobin
để tạo thành transferrin.Transferrin gắn vào receptor tế bào niêm mạc ruột, rồi
vào máu. Sắt đợc hấp thu rất chậm và rất ít, mặc dù sắt đợc ăn vào theo thức ăn
là khá nhiều. Khi apoferritin trong cơ thể bão hoà sắt thì transferrin không giải
phóng sắt cho các mô và cũng không nhận sắt từ ruột, hấp thu sắt bị ngừng lại.
Khi cơ thể thừa sắt, gan giảm sản xuất apoferritin làm cho apoferritin trong
máu và mật giảm và cũng làm giảm hấp thu sắt. Trong trờng hợp ăn quá nhiều
sắt, sắt vào máu nhiều dẫn đến lắng đọng hemosiderin trong các tế bào võng nội mô, gây độc hại cho tế bào này.

4.3. Sự điều hoà quá trình sinh hồng cầu
Số lợng hồng cầu ở máu ngoại vi đợc điều hoà hằng định nhằm cung cấp đủ
oxy cho tế bào hoạt động. Sự tăng trởng và sinh sản của các tế bào gốc đợc kiểm
soát bởi các protein kích thích tăng trởng, ví dụ nh interleukin 3.
Các tế bào gốc biệt hoá đến lợt mình lại chịu sự kích thích tăng trởng của các
chất gây biệt hoá, mà các chất này lại đợc rất nhiều cơ quan nh thận, gan... sản
xuất khi chúng bị thiếu oxy.
74



Bệnh nhân bị thiếu máu do mất máu, bị giảm chức năng tuỷ xơng khi bị chiếu
xạ, những ngời sống ở vùng núi cao có nồng độ oxy trong không khí thấp hơn
bình thờng, bệnh nhân bị suy tim, các bệnh về phổi có giảm trao đổi khí ở phổi...
đều gây ra thiếu oxy ở các mô làm cho quá trình oxy hoá ở các mô bị giảm đi.
Khi các mô bị thiếu oxy chúng sản xuất ra erythropoietin. Erythropoietin là
một glucoprotein có TLPT là 34000. Bình thờng 80-90% erythropoietin là do
thận sản xuất, còn lại là do gan sản xuất. Một số mô khác cũng sản xuất
erythropoietin, nhng không đáng kể. Vì vậy chúng ta có thể gặp bệnh nhân thiếu
máu do suy thận mãn tính. Khi thận và gan thiếu oxy, erythropoietin sẽ đợc sản
xuất sau vài phút hoặc sau vài giờ.
Erythropoietin do thận sản xuất ở dạng cha hoạt động gọi là erythogenin. Nhờ
kết hợp với một globulin (do gan sản xuất) erythogenin chuyển thành
erythropoietin hoạt động. Erythropoietin có tác dụng: kích thích quá trình
chuyển C.P.U.E thành tiền nguyên hồng cầu và kích thích chuyển nhanh các
hồng cầu non thành hồng cầu trởng thành.
5. Sức bền hồng cầu

Màng hồng cầu là một màng bán thấm. Nớc có thể qua màng hồng cầu khi
áp xuất thẩm thấu bên trong và bên ngoài hồng cầu khác nhau. Ngời ta xác định
sức bền hồng cầu bằng dung dịch muối NaCl nhợc trơng có nồng độ khác nhau
từ 0,02% một ( phơng pháp Hamberger).
Hồng cầu trong dung dịch muối NaCl nhợc trơng bị trơng to lên và vỡ ra do
nớc từ dung dịch muối vào trong hồng cầu.Khi hồng cầu vỡ, hemoglobin giải
phóng vào dung dịch và làm cho nó có màu hồng. Một số hồng cầu bắt đầu vỡ
trong dung dịch muối NaCl nhợc trơng 0,44%. Nồng độ muối NaCl 0,44% đợc
gọi là sức bền tối thiểu của hồng cầu. Toàn bộ hồng cầu vỡ hết trong dung dịch
NaCl nhợc trơng 0,34%. Nồng độ muối NaCl 0,34% đợc gọi là sức bền tối đa
của hồng cầu.
Sức bền của hồng cầu giảm trong bệnh vàng da huỷ huyết, tăng lên sau cắt

lách.

75


6. Tốc độ lắng hồng cầu

Máu đợc chống đông, đặt trong ống nghiệm, hồng cầu lắng xuống dới, huyết
tơng nổi lên trên. Điều đó xảy ra là do tỷ trọng của hồng cầu (1,097) cao hơn tỷ
trọng của huyết tơng (1,028). Khi có quá trình viêm diễn ra trong cơ thể làm
hàm lợng các protein máu thay đổi, cân bằng điện tích protein huyết tơng thay
đổi, điện tích màng hồng cầu cũng bị biến đổi theo, hồng cầu dễ dính lại với
nhau hơn và làm cho nó lắng nhanh hơn.
Nh vậy tốc độ lắng máu càng cao thì quá trình viêm đang diễn ra trong cơ thể
càng mạnh. Chỉ số tốc độ lắng hồng cầu là chiều cao cột huyết tơng tính bằng
mm trong 1h, 2h và 24h.
7. Hemoglobin

7.1. Cấu trúc của Hemoglobin.
Hemoglobin (Hb) là 1 protein màu, phức tạp thuộc nhóm chromoproteid màu
đỏ, có nhóm ngoại là hem. Hb là thành phần chủ yếu của hồng cầu, chiếm 28%
và tơng ứng với 14,6g trong 100 ml máu. TLPT của Hb là 64.458.
Hb gồm 2 phần: hem và globin. Mỗi phân tử Hb có 4 hem và 1 globin. Nó đợc tạo thành từ 4 dới đơn vị. Mỗi dới đơn vị là 1 hem kết hợp với globin.
Globin có cấu trúc là các chuỗi polypeptid. ở ngời lớn, 4 chuỗi polypeptid
giống nhau từng đôi một: 2 chuỗi và 2 chuỗi . các dới đơn vị liên kết với
nhau bằng liên kết yếu: liên kết ion, liên kết hydro, tạo nên cấu trúc bậc 4 của
phân tử Hb (hình 3.2). ở chuỗi polypeptid của mỗi dới đơn vị có 1 hốc chứa
hem. Trung tâm của phân tử Hb có 1 hốc rỗng gọi là hốc trung tâm (hình 3.3).
Hốc trung tâm tiếp nhận phân tử 2,3 diphosphoglycerat (2,3 DPG) và sự kết hợp
của hốc trung tâm với 2,3 DPG có vai trò điều hoà ái lực của Hb với 0xy.

Thành phần thứ 2 của Hb là hem. Sắc tố hem thuộc loại porphyrin là những
chất có khả năng kết hợp với nguyên tử kim loại. Hem ở ngời là porotophyrin IX
kết hợp với Fe++. Hem có 4 nhân pyrol liên kết với nhau bằng cầu nối menten
(-CH=). Vòng porphyrin có gắn các gốc metyl (-CH3) ở vị trí 1, 3, 5, 8; các gốc
vinyl (-CH=CH2) ở vị trí 2,4; các gốc propionyl (-CH 2 - CH2 - C00H) ở vị trí 6,7.

76


Fe++ gắn với đỉnh phía trong của nhân pyrol bằng hai liên kết đồng hoá trị và hai
liên kết phối trí và với globin qua gốc histidin (hình 3.4).
Porphyrin là phổ biến trong thế giới sinh vật. Porphyrin kết hợp với Mg ++ tạo
thành chất diệp lục của thực vật.
Hem có thể kết hợp với nhiều chất khác nhau. Nếu hem kết hợp với globin thì
tạo thành Hb. Nếu hem kết hợp với albumin, NH 3, pyridin, nicotin... tạo nên chất
gọi là hemochromogen. Hem phản ứng với NaCl trong môi trờng acid tạo ra
chloruahem (hemin). Phản ứng này đợc sử dụng trong pháp y.
7.2 Các loại hemoglobin ở ngời.
Hemogobin khác nhau ở phần cấu tạo globin. Hb của thai nhi là HbF. Globin
của HbF gồm hai chuỗi và hai chuỗi . Hb của ngời lớn là HbA. Globin của
HbA gồm hai chuỗi và hai chuỗi (vị trí thứ 3 của chuỗi là glutamin đợc
thay bằng threonin ở chuỗi ). Hb của bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu có hồng
cầu hình lỡi liềm là HbS (HbB) vị trí thứ 6 của chuối là valin đợc thay bằng
glutamin. Loại hồng cầu này rất dễ vỡ khi qua mao mạch nhỏ. HbC và HbD là
các Hb bình thờng gặp ở một số chủng tộc ngời Châu Phi.
Có nhiều phơng pháp định lợng Hb, kể cả các phơng pháp không chảy máu.
Bình thờng ngời Việt có Hb là 14,6g (đối với nam) và 13,3g (đối với nữ) trong
100ml máu. Đếm số lợng hồng cầu và định lợng Hb là những xét nghiệm quan
trọng trong đánh giá sự thiếu máu, thiếu máu đẳng sắc (giá trị hồng cầu =1),
thiếu máu u sắc (giá trị hồng cầu >1) và thiếu máu nhợc sắc (giá trị hồng cầu

<1).
7.3. Chức năng của hemoglobin.
- Hemoglobin kết hợp với oxy tạo thành oxyhemoglobin (Hb02). Khả năng kết
hợp lỏng lẻo và thuận nghịch tạo điều kiện cho việc Hb nhận oxy ở phổi rồi vận
chuyển đến mô giải phóng oxy cho tế bào. Oxy kết hợp với Hb ở phần Fe ++ của
hem.
Mỗi Hb có 4 hem, mỗi hem có 1Fe++ . Nh vậy về mặt lý thuyết một phân tử Hb
có thể kết hợp bão hoà với 4 phân tử oxy. Thực tế trong cơ thể điều này rất khó
77


xảy ra vì không bao giờ có sự bão hoà 100% Hb02. Sự kết hợp giữa oxy với Fe++
xảy ra nh sau: Khi một phân tử oxy gần tới Fe ++ (do oxy khuyếch tán từ phế
nang vào máu, từ máu vào trong hồng cầu) thì cùng một lúc xảy ra hai mối liên
kết: Fe++-02- và Fe++-N+- (nitơ của nhóm imidazol). Lúc này oxy mang điện tích
âm vì nhận điện tử của nitơ. Fe++ lúc này trở thành một acid yếu. Vì một lý do
nào đó mà không có mối liên kết Fe ++-N+-, lúc này oxy không liên kết với Fe ++
mà lại nhận điện tử của Fe++ , Hb chuyển thành methemoglobin, làm cho Hb mất
khả năng vận chuyển oxy. Imidazol định hớng trên bề mặt hem là nguyên nhân
tạo ra mối liên kết Fe++-N +- .
Sự kết hợp và phân ly Hb02 chịu ảnh hởng của p02, pC02, pH, nhiệt độ máu.
- Hemoglobin kết hợp với carbonic tạo thành carbohemoglobin (HbC02). Đây
cũng là một phản ứng thuận nghịch. Sự kết hợp xảy ra ở mô, sự phân ly xảy ra ở
phổi. Carbonic kết hợp với Hb ở nhóm amin của globin nên gọi là phản ứng các
carbamin. Carbonic đợc vận chuyển ở dạng HbC02 không nhiều, chỉ chiếm 6,5%
tổng số C02 vận chuyển trong máu.
- Hemoglobin kết hợp với carbonmonocid tạo thành Carboxyhemoglobin
(HbC0). HbC0 rất bền vững và không còn khả năng vận chuyển oxy vì ái lực của
Hb với C0 rất cao, gấp 210 lần ái lực của Hb với 0 2, thậm trí C0 còn đẩy đợc 02
ra khỏi Hb02. Khi ngộ độc C0, cần cho thở 02 phân áp cao để tái tạo lại

oxyhemoglobin
- Hemoglobin có tính chất đệm. Hệ đệm hemoglobin là một trong các hệ đệm
quan trọng của máu, đó là hệ đệm HHb/KHb và hệ đệm HHbC02/KHb02.
Khả năng đệm của Hb là đáng kể vì hàm lợng Hb trong máu khá cao và
chiếm khoảng 35% dung tích đệm của máu.
- Trong quá trình chuyển hoá Hb, cơ thể tạo ra sắc tố mật. Sắc tố mật không
có chức năng sinh lý nhng nó là chất chỉ thị màu đối với các nhà lâm sàng, nó
cho ta biết mật có mặt ở đâu, qua đó đánh giá chức năng gan mật.
8. Chức năng của hồng cầu.
8.1. Chức năng vận chuyển khí oxy và carbonic.

78


Hồng cầu vận chuyển khí oxy từ phổi đến mô và vận chuyển khí carbonic từ
mô đến phổi nhờ chức năng của hemoglobin.
Mặt khác C02 ở mô sau khi khuyếch tán vào trong hồng cầu thì tại đây đã diễn
ra quá trình C02 + H20 H2C03 nhờ men xúc tác carboanhydrase (men này có
nhiều trong hồng cầu). Sau đó H 2C03 phân ly H+ + HC03- . Nhờ hiệu ứng
Hamburger mà HC03- đợc khuyếch tán rất nhiều từ trong hồng cầu chuyển sang
huyết tơng tạo ra dạng vận chuyển C02 quan trọng nhất của máu (C02 đợc vận
chuyển dới dạng HC03- ). Nh vậy hồng cầu đã đóng vai trò quan trọng bậc nhất
trong sự vận chuyển C02 ở dạng HC03- của huyết tơng.
8.2. Chức năng điều hoà cân bằng acid - base của máu.
Chức năng này do hệ đệm hemoglobinat đảm nhiệm. Đồng thời với hệ đệm
của Hb, hồng cầu còn tạo ra HC03- trong qúa trình vận chuyển C02, nên nó đã
tạo ra hệ đệm bicarbonat HC03/H2C03, hệ đệm quan trọng nhất của máu.
8.3. Chức năng tạo độ nhớt của máu.
Hồng cầu là thành phần chủ yếu tạo độ nhớt của máu, nhờ độ nhớt mà tốc độ
tuần hoàn, nhất là tuần hoàn mao mạch, hằng định. Tốc độ tuần hoàn hằng định

là điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi vật chất giữa tế bào và máu. Khi độ nhớt
của máu thay đổi sẽ gây ra thay đổi tốc độ tuần hoàn và làm rối loạn trao đổi vật
chất của tế bào.
9. Rối loạn lâm sàng của hồng cầu.

9.1. Thiếu máu.
Thiếu máu là giảm Hb trong máu dới mức bình thờng. Theo W.H.O ngời bị
thiếu máu là ngời có hàm lợng Hb máu giảm:
< 13gHb trong 100ml máu (đối với nam)
< 12g Hb trong 100ml máu (đối với nữ)
< 14g Hb trong 100ml máu (đối với trẻ sơ sinh)
Thiếu máu là do mất máu, do máu bị huỷ nhanh hơn trong cơ thể hoặc do tuỷ
xơng giảm sản xuất.
- Thiếu máu do mất máu cấp tính hoặc mạn tính.
79


- Thiếu máu do suy nhợc tuỷ vì bị nhiễm xạ, nhiễm độc (chất độc hoá học
công nghiệp, chiến tranh).
- Thiếu máu do thiếu acid folic, thiếu vitamin B12 hoặc thiếu yếu tố nội vì cắt
bỏ dạ dày viêm teo dạ dày, viêm loét dạ dày- tá tràng.
-Thiếu máu do thiếu sắt, do thiểu dỡng.
- Thiếu máu do thiếu các yếu tố kích thích tăng sinh, tăng trởng hồng cầu
erythropoietin (suy thận, gan mạn tính).
- Thiếu máu do tan máu, do đời sống hồng cầu quá ngắn. Một số bệnh của
hồng cầu do màng hồng cầu kém bền dễ vỡ nh bệnh thiếu máu có hồng cầu hình
lỡi liềm, bệnh thiếu máu có hồng cầu hình cầu (kích thớc hồng cầu rất nhỏ, hình
cầu).
9.2. Đa hồng cầu.
- Đa hồng cầu thứ phát do sống ở vùng núi cao, do suy tim, do bệnh đờng hô

hấp... đây là đa hồng cầu do thiếu oxy ở các mô.
- Đa hồng cầu thật sự do tuỷ xơng tăng sản xuất hồng cầu (có kèm theo tăng
bạch cầu và tiểu cầu). Hậu quả là quá tải chức năng tuần hoàn, độ nhớt máu
tăng, rối loạn tuần hoàn mao mạch.

Nhóm máu và truyền máu
1. Nhóm máu.

Sự hiểu biết về kháng nguyên nhóm máu là vô cùng cần thiết cho công tác
truyền máu. Truyền máu đã đợc áp dụng từ lâu trong cấp cứu và điều trị. Khi
truyền máu đã gặp nhiều tai biến rất nguy hiểm, mặc dù truyền máu lần đầu.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rằng nguyên nhân tai biến là do sự có mặt cuả
kháng thể tự nhiên trong cơ thể. Các kháng thể này chống lại các kháng nguyên
với tính miễn dịch cao có trên bề mặt hồng cầu.

80


Trên bề mặt hồng cầu ngời có nhiều kháng nguyên khác nhau ngời ta đã tìm
đợc khoảng 30 kháng nguyên thờng gặp và hàng trăm kháng nguyên khác nhng
đều là kháng nguyên có tính miễn dịch yếu, thờng chỉ dùng để nghiên cứu gen.
Các kháng nguyên xếp thành hệ thống các nhóm máu AB0, Rh, Lewis, MNS s, P,
Kell, Lutheran, Duffy, Kidd... Trong số này có hai hệ thống nhóm máu AB0 và
Rh đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong truyền maú.
1.1. Hệ thống nhóm máu AB0.
Năm 1901, Landsteiner phát hiện ra hiện tợng: huyết thanh của ngời này làm
ngng kết hồng cầu của ngời kia và ngợc lại. Sau đó nguời ta đã tìm đợc kháng
nguyên A và kháng nguyên B, kháng thể ( chống A) và kháng thể ( chống B).
Kháng nguyên A và B có mặt trên màng hồng cầu; kháng thể và có mặt
trong huyết tơng. Kháng thể sẽ làm ngng kết hồng cầu mang kháng nguyên A,

kháng thể sẽ làm ngng kết hồng cầu mang kháng nguyên B.
Do cơ thể có trạng thái dung nạp với kháng nguyên bản thân, nên trong huyết
tơng không bao gời có kháng thể chống lại kháng nguyên có trên bề mặt hồng
cầu của chính cơ thể đó. Từ đó hệ thống nhóm máu ABO đợc chia làm 4 nhóm:
nhóm A, nhóm B, nhóm AB và nhóm O. Ký hiệu nhóm máu biểu thị sự có mặt
của kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu.
Cơ thể nhóm máu A có kháng nguyên A trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể
(chống B) trong huyết tơng .
Cơ thể nhóm máu B có kháng nguyên B trên bề mặt hồng cầu và có kháng thể
(chống A) trong huyết tơng
Cơ thể nhóm máu AB có kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu và không
có kháng thể và trong huyết tơng.
Cơ thể nhóm máu 0 không có kháng nguyên Avà B trên bề mặt hồng cầu,
trong huyết tơng có cả kháng thể và .
Ngời ta cũng biết rằng các kháng thể và là những kháng thể xuất hiện tự
nhiên trong huyết thanh. Sự phân bố các kháng nguyên, kháng thể thuộc hệ
thống nhóm máu AB0 nh sau:
81


Genotypes

Nhóm
máu

Kháng
nguyên

Kháng
thể


Tỷ Lệ %
Ngời da
trắng

Ngời Việt

00

0

-



47

43

0A hoặcAA

A

A



41

21,5


0B hoặc BB

B

B



9

29,5

AB

AB

A và B

-

3

6

Nhóm A đợc chia thành hai phân nhóm A1 và A2. Vì vậy số lợng nhóm máu
đã trở thành 6 nhóm: A1, A2, B, A1B, A2B và 0. Một số ngời có kháng nguyên A1,
có kháng thể chống A2. Một số ngời có kháng nguyên A2, có kháng thể chống
A1. Các kháng thể này yếu nên ít gây nguy hiểm, nhng trong thực tế có thể gây
tai biến nghiêm trọng khi truyền nhóm máu A2 nhầm tởng là nhóm máu 0 và

nhóm máu A2B nhầm tởng là nhóm B cho bệnh nhân nhóm máu B.
Các kháng nguyên thuộc hệ ABO do một locus kiểm soát với 3 alen AB0
trong đó A và B là trội. Việc phát hiện ra cấu trúc kháng nguyên nhóm máu
thuộc hệ AB0 đã làm thay đổi quan niệm trớc đây cho rằng: kháng nguyên A là
sản phẩm trực tiếp của gen A, kháng nguyên B là sản phẩm trực tiếp của gen B.
Ngời ta cho rằng tham gia hình thành kháng nguyên nhóm máu trong hệ AB0 có
các hệ gen Hh và hệ thống gen AB0. Các hệ thống gen này di truyền độc lập.
Ngời có nhóm máu 0 chỉ có gen H mà không có gen A và B nên không có enzym
biến chất H thành kháng nguyên A hoặc B, do đó chỉ có chất H chiếm toàn bộ bề
mặt hồng cầu. Ngời có nhóm máu A có cả gen H và gen A nên có enzym biến
chất H thành kháng nguyên A do đó trên bề mặt hồng cầu có cả chất H và cả
kháng nguyên A. Với sự giải thích tơng tự, ngời có nhóm máu B, trên bề mặt
hồng cầu có cả chất H và kháng nguyên B. Ngời có nhóm máu AB, trên bề mặt
hồng cầu có cả chất H, kháng nguyên A và kháng nguyên B.

82


Đại bộ phận ngời là có gen H. Một số ít ngời không có gen H (cơ thể đồng
hợp tử hh), không có chất H trên bề mặt hồng cầu. Ngời không có gen H, dù có
gen A hoặc gen B thì cũng không có kháng nguyên A hoặc kháng nguyên B, vì
các kháng nguyên này chỉ xuất hiện từ chất H. Khi thử máu bằng kỹ thuật ngng
kết, ngời không có gen H đều đợc ghi nhận là nhóm máu O, nhng họ (cơ thể
đồng hợp tử hh) có thể tạo ra kháng thể chống H khi truyền máu của ngời nhóm
máu O thật sự (có chất H) vì thế có thể gây tai biến. Ngời có nhóm máu này đợc
gọi là nhóm máu O Bombay.
Đa số ngời (80%), kháng nguyên nhóm máu còn có mặt trong các dịch tiết: nớc bọt, dịch vị...
Ngay sau khi ra đời, kháng thể có nồng độ rất thấp. Từ tháng thứ 2 trở đi,
kháng thể tăng dần lên và cao nhất từ 8 -10 tuổi, sau đó giảm dần trở về bình thờng ở tuổi trởng thành rồi giảm dần theo tuổi tác. Kháng thể là globulin, hầu
hết là IgM, sau đó là IgG. Giống các kháng thể miễn dịch khác IgM và IgG cũng

do các lympho bào sản xuất.
1.2. Hệ thống nhóm máu Rh.
Năm 1940 Landsteiner và Wiener nhận thấy: nếu lấy hồng cầu khỉ Macacus
Rhesus gây miễn dịch cho thỏ thì huyết thanh miễn dịch thỏ ngoài việc gây ngng
kết hồng cầu khỉ còn gây ngng kết hồng cầu ngời. Lúc đầu xếp những ngời có
hồng cầu bị ngng kết bởi huyết thanh này vào nhóm Rh + những ngời có hồng
cầu không bị ngng kết vào nhóm Rh-. Nhng sau này thấy hệ thống kháng
nguyên Rh không đơn giản nh vậy. Trong hệ thống Rh có nhiều kháng nguyên,
phần lớn chúng có tính phản ứng chéo và sinh miễn dịch yếu. Do đó kháng thể
không gây ngng kết mạnh nh hệ thống AB0.
Kháng nguyên hệ Rh phân bố tha thớt trên bề mặt hồng cầu. Có 3 loại kháng
nguyên chính: kháng nguyên D (Rh0), kháng nguyên C (Rh'), kháng nguyên E
(Rh''). Chỉ có kháng nguyên D có tính kháng nguyên mạnh và có tính sinh miễn
dịch cao. Vì vậy khi có kháng nguyên D thì đợc gọi là Rh+. Những nhóm máu
khác thuộc hệ Rh đều có tính kháng nguyên rất yếu, ít đợc chú ý nh Rh1, Rh2,
Rhz, Rhy, rh. Tỷ lệ Rh+ của ngời da trắng là 85%, ngời Mỹ da đen là 95%, ngời

83


Phi da đen là 100%, ngời Việt là 99,92%. Nói một cách khác là tỷ lệ Rh- của ngời Việt là 0,08% gần nh không đáng kể.
Kháng nguyên hệ thống nhóm máu Rh là di truyền, còn kháng thể chống Rh
chỉ xuất hiện ở cơ thể Rh- khi đợc miễn dịch bằng hồng cầu có kháng nguyên D
(Rh+ ). Kháng thể này thờng là IgG. Nếu một ngời Rh- , cha hề đợc truyền máu
Rh+ bao giờ thì việc truyền máu Rh+ cho họ sẽ không bao giờ xảy ra phản ứng
tức thì nào. Tuy nhiên sau khi truyền máu Rh+ từ 2-4 tuần sau, lợng kháng thể
chống Rh đã tơng đối cao đủ để gây ngng kết hồng cầu Rh+ của ngời cho vẫn
tồn tại trong máu ngời nhận. Phản ứng này chậm và rất nhẹ. Sau 2-4 tháng
truyền máu Rh+, nồng độ kháng thể chống Rh trong máu ngời Rh- mới đạt tối
đa. Nếu truyền máu Rh+ cho những ngời này ở lần thứ 2, có thể gây ra tai biến

truyền máu nặng, chẳng kém gì tai biến nh hệ AB0. Sau vài lần truyền máu Rh +
cho ngời Rh-, ngời Rh- trở nên rất mẫn cảm với kháng nguyên Rh, tai biến khi
truyền máu là cực kỳ nguy hiểm. Đó là lý do tại sao ta phải cần lu ý tới ngời đã
đợc truyền máu nhiều lần. Cần phải xác định nhóm máu hệ Rh cho họ, sợ rằng
họ là ngời Rh-.
Trờng hợp thứ hai là ngời mẹ Rh-, bố Rh+. Đứa trẻ đợc di truyền Rh+ từ bố.
Hồng cầu Rh+ của thai và sản phẩm phân huỷ hồng cầu Rh + của thai sang máu
mẹ. Ngời mẹ sẽ có quá trình tạo kháng thể chống Rh, các kháng thể này qua
nhau thai làm ngng kết hồng cầu thai. Nếu ngời mẹ có thai lần đầu thì cơ thể ngời mẹ cha sản xuất đủ kháng thể để gây nguy hiểm cho thai nhi. Khoảng 30% số
thai thứ hai Rh+ có triệu chứng tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ
huyết và tỷ lệ mắc bệnh tăng dần lên và triệu chứng bệnh cũng nặng hơn cho
những thai sau.
Nhiều ngời bố Rh+ dị hợp tử, do đó có khoảng 25% số con cái là Rh -. Vì vậy
sau khi đẻ đứa con trớc bị vàng da huỷ huyết, tăng nguyên hồng cầu, không nhất
thiết đứa trẻ sau cũng bị bệnh này. Những đứa trẻ mắc bệnh tăng nguyên hồng
cầu bào thai thấy các mô sinh máu đều tăng sinh hồng cầu; gan, lách to ra và sản
xuất hồng cầu kỳ bào thai. Hồng cầu này xuất hiện nhiều trong máu. Trẻ thờng
chết do thiếu máu nặng. Nếu sống sót trẻ thờng thiếu trí tuệ, tổn thơng vỏ não
vận động do lắng đọng bilirubin trong các neuron. Cũng có thể kháng thể chống
Rh còn tấn công một số tế bào khác của cơ thể.
84


Trờng hợp thứ hai mà ta cần lu ý trên đây chính là ngời phụ nữ có tiền sử sảy
thai, đẻ non, đẻ con có tăng nguyên hồng cầu bào thai, vàng da huỷ huyết.
Những ngời này nếu cần truyền máu, phải xét nghiệm nhóm máu Rh. Ngời ta sợ
rằng ngời mẹ này máu Rh- và trong máu đã có kháng thể chống Rh. Nếu truyền
máu Rh+ cho họ thì sẽ có tai biến rất nguy hiểm xảy ra.
1.3. Các hệ thống nhóm máu khác.
Trong các hệ thống nhóm máu còn lại thì hệ Kell chiếm vị trí hàng đầu.

Kháng nguyên Kell rất nguy hiểm. Năm 1947 ngời ta đã phát hiện tai nạn do
kháng nguyên này gây ra, từ đó về sau tai nạn do kháng nguyên này vẫn đợc
theo dõi.
Kháng nguyên Fya thuộc hệ Duffy cũng đợc quan tâm. 1950 lần đầu tiên
Mollison phát hiện kháng thể chống Fya trong huyết tơng bệnh nhân bị tan máu
đợc truyền máu nhiều lần. Trong vòng 20 năm đó ngời ta đã miêu tả nhiều trờng
hợp tơng tự. Năm 1951 có một tai biến chết ngời do Fya.
Kháng nguyên S thuộc hệ MNSs có thể gây ra miễn dịch sau truyền máu và
xuất hiện tai nạn tan máu.
Những kháng thể lạnh đặc hiệu tự nhiên nh kháng thể chống Lea , Leb (thuộc
hệ Lewis), M, N, P chỉ gây ra phản ứng ở một nhiệt độ nhất định và không nguy
hiểm.
2. Truyền máu.

Trong thực hành truyền máu, ngoài những qui định về những xét nghiệm phát
hiện các virut lây theo đờng máu, về kỹ thuật bảo quản... chúng ta cần phải thực
hiện đúng qui tắc về nhóm máu, qui tắc cơ bản là: không để kháng nguyên và
kháng thể tơng ứng gặp nhau trong máu ngời nhận. Đối với hệ thống nhóm máu
ABO, thoả mãn qui tắc trên là phải truyền cùng nhóm.
Dựa vào kháng thể đã biết của huyết thanh mẫu (antiA, antiB, antiAB) ngời
ta xác định chính xác kháng nguyên A và B trên bề mặt hồng cầu. Đồng thời với
việc xác định nhóm máu thuộc hệ ABO, cần phải làm các phản ứng chéo: trộn
hồng cầu ngời cho với huyết thanh máu ngời nhận và ngợc lại trộn hồng cầu ng85


ời nhận với huyết thanh máu ngời cho. Các phản ứng trên không có hiện tợng
ngng kết hồng cầu thì máu đó mới đợc truyền.
Có một số tác giả đề nghị rằng, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, tốt nhất là
truyền máu tự thân. Đối tợng đợc lấy máu lúc khoẻ mạnh và đợc bảo quản trong
ngân hàng, khi cần thì lấy chính máu của họ truyền cho họ. Hiện nay cha có

điều kiện ký thuật để bảo quản máu đợc lâu (đặc biệt là các nớc đang phát triển)
cho nên điều này cha thực hiện đợc. Để khắc phục tai biến truyền máu và tình
trạng lây nhiễm bệnh qua truyền máu, các nhà khoa học đã nghiên cứu sản xuất
ra máu nhân tạo để làm dịch truyền thay thế máu. Song phạm vi ứng dụng máu
nhân tạo cha đợc rộng rãi vì giá thành còn quá đắt.
Trong trờng hợp cần truyền máu mà lại không có máu cùng nhóm, ngời ta có
thể truyền theo một qui tắc tối thiểu: không để xảy ra ngng kết hồng cầu của ngời cho trong máu của ngời nhận. Nếu để xảy ra tai biến này thì chỉ cần truyền
nhầm 2ml máu đã có thể gây chết ngời do tắc mạch, rối loạn trao đổi khí của
máu, tan máu, suy thận cấp... Nh vậy có thể truyền máu khác nhóm, nhng bắt
buộc phải theo sơ đồ sau:
O

A

B

AB

Nhóm O truyền đợc cho nhóm A,B và AB. Nhóm A và B truyền đợc cho nhóm
AB. Nhóm AB không truyền đợc cho nhóm O, A và B. Trong trờng hợp truyền
máu khác nhóm nh vậy, chỉ đợc truyền khoảng 250ml máu (một đơn vị máu),
với tốc độ rất chậm. Tai biến do truyền máu rất khó xảy ra vì kháng thể trong
máu ngời cho ngay lập tức bị pha loãng trong máu của ngời nhận do đó nồng độ
kháng thể rất thấp. Các kháng thể này sau đó sẽ bị các enzym phân giải. Tuy
vậy, ngày nay nhờ sự hiến máu nhân đạo đợc phổ cập nên sự truyền máu theo
qui tắc tối thiểu ít đợc ứng dụng.
86


Đối với hệ thống Rh, kháng thể chống Rh chỉ hình thành ở ngời Rh- khi đợc

miễn dịch bằng hồng cầu Rh+. Tỷ lệ Rh- của ngời Việt lại rất thấp, cho nên thực
tế ngời ta chú ý hai trờng hợp cần xét nghiệm nhóm máu hệ Rh đó là ngời đã đợc truyền máu nhiều lần và ngời phụ nữ có tiền sử xảy thai, đẻ non, đẻ con có
hội chứng vàng da huỷ huyết. Việc xét nghiệm nóm máu hệ Rh cũng dựa trên
kháng thể của huyết thanh mẫu để tìm kháng nguyên. Nếu ngời cần đợc truyền
máu là Rh+ thì truyền máu Rh+ hoặc Rh- đều đợc. Nếu ngời cần đợc truyền máu
là máu Rh- thì nhất thiết phải đợc truyền máu là Rh-.

Bạch cầu.
1. Hình dáng và số lợng.

Bạch cầu là các tế bào có nhân, hình dáng và kích thớc rất khác nhau tuỳ từng
loại. Bạch cầu không phải chỉ lu thông trong máu, mà nó còn có mặt ở nhiều nơi
trong cơ thể: bạch huyết, dịch não tuỷ, hạch bạch huyết, các tổ chức liên kết...
Thành phần bạch cầu rất phức tạp, gồm nhiều chất hữu cơ và vô cơ. Bào tơng
của bạch cầu chứa nhiều sắt, calci, lipid (cholesterol, triglycerid và acid béo).
Các lipid này liên quan tới vai trò chống nhiễm trùng của bạch cầu. Bạch cầu
chứa nhiều lipid đợc xem nh tiên lợng tốt chống nhiễm trùng (Boyd,1973). trong
bạch cầu còn có nhiều acid ascorbic, hạt glycogen. Hạt glycogen nhiều lên trong
quá trình tiêu hoá và mắc bệnh đái tháo đờng. Bạch cầu có một hệ thống enzym
rất phong phú (oxydase, peroxydase, catalase, lipase, amylase) và một số chất
diệt khuẩn.
Trên màng tế bào bạch cầu có rất nhiều thụ thể liên quan tới chức năng của
bạch cầu. Dựa vào các thụ thể này, nhờ các kỹ thuật hiện đại, ta có thể phân loại
đợc bạch cầu và theo dõi các giai đoạn phát triển của bạch cầu.
Trên bề mặt lympho bào có hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ chức. Mặc dù
một số kháng nguyên có mặt trên tế bào của nhiều mô, nhng chúng lại bị phát
hiện dễ dàng trên lympho bào. Do đó tất cả kháng nguyên phù hợp tổ chức chủ
yếu của ngời đợc ký hiệu là HLA (humanlymphocyt antigen). Tất cả HLA hợp
87



thành hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ chức của ngời, còn gọi là hệ thống
HLA, chia thành 5 nhóm. Nhóm HLA-A, nhóm HLA-B, nhóm HLA-C, nhóm
HLA-D và nhóm HLA-DR. Dới các nhóm này có rất nhiều phân nhóm đã đợc
đặt tên. Hệ thống kháng nguyên HLA di truyền và rất có ý nghĩa trong đáp ứng
miễn dịch thải ghép.
Trong 1lít máu ngoại vi có 7,0 x 109 bạch cầu (đối với nam) 6,2 x109 bạch cầu
(đối với nữ), nhìn chung vào khoảng 5,0 x 109 đến 9,0 x 109 bạch cầu (đối với
ngời trởng thành). Trẻ sơ sinh có số lợng bạch cầu rất cao: 20,0 x109 bạch
cầu/1lít máu ngoại vi. Lúc một tuổi còn 10,0 x 109 bạch cầu/1lit máu. Từ 12 tuổi
trở đi số lợng bạch cầu trở về ổn định bằng ngời trởng thành.
Số lợng bạch cầu tăng lên khi ăn uống, khi lao động thể lực, tháng cuối của
thời kỳ mang thai, sau khi đẻ. Đặc biệt số lợng bạch cầu tăng lên khi nhiễm
khuẩn, bệnh bạch cầu. Một số hormon và một số tinh chất mô cũng làm tăng số
lợng bạch cầu nh: hormon tuyến giáp, adrenalin, estrogen, tinh chất gan, tinh
chất lách, tuỷ xơng. Số lợng bạch cầu giảm khi bị lạnh, khi bị đói, khi già yếu,
suy nhợc tuỷ, nhiễm virus, nhiễm độc, nhiễm trùng quá nặng, hoặc điều trị bằng
các hormon corticoid, insulin kéo dài...
2. Phân loại bạch cầu.

Về mặt đại thể, với kỹ thuật kinh điển, dựa vào hình dáng, kích thớc tế bào,
hình dáng nhân, sự bắt màu của hạt trong bào tơng. Ngày nay nhờ kỹ thuật hiện
đại còn phát hiện đợc các thụ thể bề mặt tế bào bạch cầu v.v...; ngời ta có thể
phân loại bạch cầu thành bạch cầu hạt (bạch cầu đa nhân) và bạch cầu không hạt
(bạch cầu đơn nhân). Bạch cầu đa nhân đợc chia làm 3 loại: trung tính, a acid và
base. Bạch cầu đơn nhân đợc chia làm 2 loại: monocyt và lymphocyt. ở ngời
bình thờng, tỷ lệ các bạch cầu trong máu ngoại vi nh sau:
Bạch cầu hạt a acid (E):
2,3%
Bạch cầu hạt a base (B):

0,4%
Bạch cầu monocyt (M) :
5,3%
Bạch cầu hạt trung tính (N):
62,0%
Bạch cầu lymphocyt (L):
30,0%

88


Các nhà lâm sàng thờng gọi tỷ lệ % các loại bạch cầu ở máu ngoại vi là công
thức bạch cầu phổ thông. Công thức thay đổi khi ăn uống, khi lao động, khi có
kinh nguyệt, khi có thai trên 4 tháng, khi đẻ. Trẻ sơ sinh có tới 70% là bạch cầu
đa nhân, từ tháng thứ 3 trở đi chỉ còn 35% là các bạch cầu đa nhân (lúc này chủ
yếu là lympho bào). Công thức bạch cầu dần ổn định đến sau tuổi dậy thì mới
bằng ngời trởng thành.
Ngày nay nhờ kỹ thuật cao chúng ta có thể phân loại bạch cầu một cách chi
tiết hơn với mục đích tìm hiểu chức năng của từng loại bạch cầu phục vụ cho
nghiên cứu khoa học, chẩn đoán và điều trị. Tuy vậy việc xác định công thức
bạch cầu phổ thông và số lợng bạch cầu vẫn đợc coi là xét nghiệm thờng quy
của bệnh viện vì nó vẫn còn giá trị thực tiễn. Đồng thời với xác định giá trị tơng
đối (là tỷ lệ % của từng bạch cầu), các nhà lâm sàng còn xác định giá trị tuyệt
đối (số lợng từng loại bạch cầu có trong 1lít máu). Chỉ số này rất cần cho sự tiên
lợng bệnh.
Bạch cầu đa nhân trung tính (N) tăng >70% trong các trờng hợp nhiễm khuẩn
cấp, quá trình làm mủ, viêm tĩnh mạch, nghẽn mạch, nhồi máu cơ tim, nhồi máu
phổi. Nó còn tăng trong co giật động kinh, đa protein vào trong cơ thể, chảy
máu phúc mạc nhẹ. Đồng thời với N tăng còn có bạch cầu đũa (stab) tăng.
- Bạch cầu đa nhân trung tính giảm <60% trong các trờng hợp nhiễm trùng tối

cấp, nhiễm virus kỳ toàn phát, sốt rét, cờng lách, nhiễm độc, suy nhợc tuỷ.
- Bạch cầu đa nhân a acid (E) tăng nhẹ và thoáng qua gặp trong hồi phục sau
nhiễm trùng, khử độc protein. E tăng liên tục trong các bệnh giun sán, dị ứng,
bệnh chất tạo keo.Bạch cầu đa nhân a acid giảm trong sốc, trong hội chứng
Cushing, trong giai đoạn điều trị bằng corticoid.
- Bạch cầu đa nhân a base (B) tăng trong một số trờng hợp viêm mạn tính kéo
dài, viêm hồi phục. B còn thay đổi trong một số trờng hợp nhiễm độc.
- Bạch cầu đơn nhân monocyt (M) tăng trong nhiễm trùng, bệnh bạch cầu,
nhiễm virus. M giảm trong một số trờng hợp nhiễm độc.
- Bạch cầu đơn nhân lymphocyt (L) tăng do tăng sinh trong nhiễm khuẩn mạn
tính, nhiễm virus, giai đoạn lui bệnh của nhiễm trùng.

89


3- Đời sống của bạch cầu.

Nh đã phân loại ở phần trên, bạch cầu đợc chia ra thành 3 dòng: dòng bạch
cầu hạt, dòng monocyt và dòng lymphocyt. Ba dòng bạch cầu này đợc sinh ra từ
tế bào gốc vạn năng trong tuỷ xơng.
Dòng bạch cầu hạt: tế bào gốc phát triển qua nhiều giai đoạn trở thành
myeoblat promyelocyt myelocyt metamyelocyt bạch cầu đa nhân trởng thành. Từ myelocyt, bạch cầu chia thành ba loại bạch cầu đa nhân (bạch cầu
hạt) khác nhau: bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt a acid, bạch cầu hạt a base.
Dòng lymphocyt: tế bào gốc vạn năng phát triển qua nhiều giai đoạn để biệt
hoá và đợc "xử lý" ở các mô đặc biệt rồi thành lympho trởng thành dự trữ trong
các mô bạch huyết lu thông máu các mô mô bạch huyết v.v... chu kỳ xảy
ra liên tục.
Dòng monocyt: tế bào gốc vạn năng phát triển qua nhiều giai đoạn biệt hoá
thành monocyt.
Cha biết chính xác thời gian sống của bạch cầu trong máu là bao lâu vì bạch

cầu có mặt ở khắp mọi nơi. Bạch cầu vào các cơ quan rồi từ các cơ quan quay
trở lại máu. Thời gian bạch cầu có mặt trong máu chẳng qua là thời gian vận
chuyển bạch cầu từ nơi sản xuất đến nơi sử dụng. Vì vậy thời gian sống của bạch
cầu trong máu là rất ngắn.
Nếu ngừng sản xuất bạch cầu đột ngột (bằng cách chiếu tia ) trong 3 đến 6
ngày đầu máu ngoại vi không còn bạch cầu đa nhân trung tính. Thời gian bạch
cầu sống trong máu khỏang 4-5 ngày. Thời gian bạch cầu sống cả trong và ngoài
mạch khoảng 8-12 ngày. Thời gian bạch cầu tồn tại trong tuỷ xơng khoảng 4-8
giờ. Khó có thể xác định chính xác thời gian sống của bạch cầu monocyt vì nó
luôn luôn qua lại giữa các mô. Thời gian lu thông của monocyt trong máu
khoảng 10-20 giờ. Thời gian sống của monocyt trong các ổ viêm dài hơn bạch
cầu đa nhân trung tính. Lympho bào vào hệ tuần hoàn liên tục qua ống ngực. Số
lợng lympho bào trong ống ngực vào hệ tuần hoàn chung trong 24 giờ thờng là
gấp nhiều lần số lợng lympho bào máu ở một thời điểm. Điều đó chứng tỏ thời
gian lympho bào sống trong máu là rất ngắn (24h). Bạch cầu lympho từ cơ quan

90


bạch huyết vào máu, từ máu tới mô, từ mô lại vào cơ quan bạch huyết, rồi lại vào
máu... chu kỳ cứ thế diễn ra liên tục.
Bạch cầu bị tiêu diệt ở khắp mọi nơi trong cơ thể khi bị già cỗi, nhng chủ yếu
là trong lòng ống tiêu hoá, phổi và lách. Bạch cầu (đặc biệt là các đại thực bào,
bạch cầu hạt trung tính) bị tiêu diệt ở các ổ viêm, các vùng và các diện của cơ
thể dễ bị vi khuẩn đột nhập nh da, phổi, niêm mạc.
4. Đặc tính của bạch cầu.
Bạch cầu có những đặc tính chung sau đây:
4.1. Xuyên mạch.
Bạch cầu M và N có khả năng thay đổi hình dạng, xuyên qua vách giữa các tế
bào để tới những nơi cần thiết.

4.2. Chuyển động theo kiểu a mip.
Bạch cầu M và N có khả năng chuyển động bằng chân giả (theo kiếu amip)
với tốc độ: 40àm/min.

4.3. Hoá ứng động và nhiệt ứng động
Có một số chất do mô viêm sản xuất, do vi khuẩn tạo ra hoặc những chất hoá
học đa từ ngoài vào cơ thể thu hút bạch cầu tới (hoá ứng động dơng tính) hoặc
xua đuổi bạch cầu ra xa hơn (hoá ứng động âm tính). Tơng tự, với nhiệt cũng nh
vậy, bạch cầu cũng có nhiệt ứng động dơng tính và âm tính. Các đặc tính này
chủ yếu là của bạch cầu M và N.
4.4. Thực bào.
Bạch cầu M và N có khả năng thực bào, ẩm bào. Những điều kiện thuận lợi
cho thực bào là:
+ Bề mặt của vật rộng và xù xì.

91


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×