Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Skkn một số kinh nghiệm để giúp học sinh lớp 2a viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.66 KB, 16 trang )

1

PHÒNG GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO ĐẠI LỘC

TRƯỜNG TIỂU HỌC TRƯƠNG HOÀNH

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài:

“MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC
SINH LỚP 2 VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN
VĂN NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU”
Năm học: 2012 – 2013
Giaó viên: Lê Thị Nguyệt Nga
Chức vụ: TTCM tổ 2
Đơn vị: Trường Tiểu học Trương Hoành


2

“MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HS
LỚP 2A VIẾT ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN
NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn
trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một
phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn
hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện, hoàn cảnh
sống của học sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện
để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá


chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập
nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em đựơc
làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Trong
quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm bài
chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết
không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng
viết không đủ ý.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế
nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng
để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh của lớp
mình. Đây là lý do tôi chọn và áp dụng “Một số kinh nghiệm để giúp học sinh
lớp 2A viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu”. Sau đây, tôi xin trình bày
một số giải pháp mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập làm
văn là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng
dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Như chúng ta đã biết, Tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu
học. Nếu học sinh viết tốt bài Tập làm văn, đủ số lượng câu, đủ ý, diễn đạt rõ
ràng, hấp dẫn người đọc thì học sinh đó có điều kiện học tập tốt hơn môn Tiếng
Việt và nhờ vậy mà kết quả học tập sẽ đạt cao hơn. Vì vậy, việc dạy học sinh


3

viết tốt một đoạn văn ngay từ còn ở những lớp nhỏ cũng là xây dựng cho các em
một nền móng vững chắc để tạo hứng thú hơn trong việc học Tập làm văn cũng
như trong việc học tốt môn Tập làm văn các lớp sau này. Hơn thế nữa, học tốt

phân môn Tập làm văn sẽ học tốt hơn môn Tiếng Việt. Đó cũng chính là rèn cho
các em sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ,
các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách của con người.
Nhà văn Võ Thị Hảo đã nói: “ Theo tôi, trước hết cần thay đổi cái “vòng
kim cô” đang đè nặng lên cách soạn giáo trình và dạy Văn theo lối “công cụ” gây
tổn hại cho nhân tính lâu nay, để môn Văn thực sự là môn học hấp dẫn và cập
nhật. Mục đích của việc dạy Văn phải là khuyến khích và huấn luyện con người
khả năng cảm thụ, tự do bộc lộ suy nghĩ, biểu cảm, kỹ năng sống, biết yêu
thương, có trách nhiệm và gắn kết với cộng đồng.”
Thật vậy, trong quá trình công tác, tôi nhận thấy, dạy học sinh viết văn tốt
sẽ góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Ta dạy cho các em viết
đúng yêu cầu, viết đủ số lượng câu, viết gọn, rõ ràng, mạch lạc và sáng tạo là
góp phần rèn luyện cho các em ý thức học tập, tính kỷ luật, tính cẩn thận, thận
trọng trong công việc, lòng tự tin của bản thân… Đồng thời, học tốt môn Tập
làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác nhằm thực hiện
đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra nhằm đào tạo con người mới.
III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực trạng:
Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nông thôn, điều kiện kinh tế
khó khăn nên việc học của các em ít được phụ huynh quan tâm. Do vậy, gây
không ít khó khăn cho giáo viên, đòi hỏi người giáo viên phải tìm mọi cách để
giúp đỡ các em. Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi
nhận thấy rằng, muốn học sinh viết tốt đoạn văn, trước hết học sinh phải viết
đúng yêu cầu và nhận thức được tầm quan trọng của môn Tập làm văn.
Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp đúc rút từ kinh
nghiệm của bản thân về việc giúp học sinh viết đoạn văn ngắn từ 3- 5 câu để
cùng trao đổi với đồng nghiêp, hi vọng sẽ góp một phần nhỏ bé của mình đem lại
kết quả khả quan cho học sinh. Để từ đó, giúp các em học sinh lớp 2A Trường
Tiểu học Trương Hoành ngày càng học giỏi phân môn Tập làm văn hơn, góp
phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục.

Trong thực tế hiện nay, việc rèn cho học sinh viết đoạn văn tốt chưa được
giáo viên chú tâm nhiều. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài còn viết bừa,
viết cẩu thả, không đúng yêu cầu, viết lan man, không đủ số câu, sai ý, trình bày
ý lộn xộn, thiếu tự nhiên, sai nhiều chính tả, … Hơn thế nữa, một số em thiếu tự


4

tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết
tâm trong học tập. Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi người giáo viên phải có
kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy, phải thật kiên trì và nhẫn nại, giúp học
sinh nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Từ đó, giáo dục cho các em ý
thức rèn luyện bài viết của mình đạt yêu cầu cao hơn.
Nếu vận dụng tốt một số giải pháp mà tôi đưa ra dưới đây thì việc “ Giúp
học sinh lớp 2A viết được một đoạn văn ngắn từ 3- 5 câu” sẽ đem lại nhiều kết
quả khả quan hơn. Từ đó, rèn luyện cho các em tính cẩn thận, thận trọng trong
công việc, lòng tự tin của bản thân. Đồng thời, phân môn Tập làm văn chính là
cơ sở, là nền tảng để giúp các em học tốt các môn học khác.
VI. NỘI DUNG THỰC HIỆN
Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu của
đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau:
Vận dụng phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
a) Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo
gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo
viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật
của đối tượng, mục đích là giúp học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên
cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn học sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm
nhận một cách có cảm xúc về sự vật.
b) Phương pháp thực hành giao tiếp

Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng nói,
trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều
chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tôi thường tổ
chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm (HS có thể kết nhóm
theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc trong
nhóm).
c) Phương pháp phân tích ngôn ngữ
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng


5

cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập
làm văn. Sử dụng phương pháp này để giáo viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra
cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ
hiểu.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai – là
gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những
vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/
Như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết
câu.
d) Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập
làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa

chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử
dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp
thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
Ví dụ:
Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau,
Giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy
giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của
em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của
mình đối với bạn bè; viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa
như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ,
sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt,
đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa… Giáo viên cần chuẩn bị kỹ với
mỗi bài để hướng dẫn học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết.
V. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Về kỹ năng
Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá
nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để
viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.


6

a) Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ.
Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn bị,
đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học khi ở
nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, giáo viên có
thể soạn, cung cấp cho các em.
Ví dụ:
ö Bài viết về một người thân:

- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
ö Bài viết về một loại quả:
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
- Hình dáng bên ngoài ra sao? Bên trong như thế nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
ö Bài viết về một loài hoa:
- Loài hoa ấy có tên là gì? Em đã thấy ở đâu?
- Hoa có những đặc điểm gì ( màu sắc, các bộ phận: cánh hoa, nhụy, hương
thơm…)
- Vì sao em thích loài hoa ấy?
ö Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm:
- Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (hoặc bạn ấy) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm (hoặc thấy bạn làm) việc tốt đó?
ö Bài viết kể về gia đình em:
- Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
- Kể từng người trong gia đình em.
- Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
- Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
b) Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết(Có thể diễn đạt bằng một
câu).
- Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý có
thể diễn đạt 2, 3 câu tùy theo năng lực học sinh.


7


- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì? Nó sống ở đâu?
- Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật? Nó đem lại lợi ích gì?
- Tình cảm của em đối với con vật đó?
Câu mở đầu: Giới
thiệu con chó

Nhà em có nuôi một con chó tên là Ki Ki.

Phát triển: Kể về con
Nó có bộ lông màu vàng mượt như tơ. Đôi
chó
mắt của nó rất sáng và đôi tai vểnh lên trông
mới đáng yêu làm sao! Nó thường nằm
trước cửa để giữ nhà.
Câu kết thúc: Tình
Hằng ngày, em thường cho nó ăn. Em rất
cảm của em đối với yêu quý con chó của nhà em.
con chó này.
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các
em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động
hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và
đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, luôn tái hiện và lặp lại kiến
thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho

việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
2. Về kiến thức
a) Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh
Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập
cho học sinh. Có thể tập hợp từ chương trình một số đề bài sau đây:


8

Viết một đoạn văn ngắn về:
 Gia đình
 Một người thân
 Cô giáo cũ (hoặc thầy giáo cũ) của em
 Về trường của em
 Các mùa trong năm
 Một loài chim
 Một con vật
 Tả ngắn về biển
 Tả ngắn về một loài cây
 Tả về một loài hoa
 Viết về Bác Hồ
 Kể về một em bé
 Kể một việc làm tốt
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
b) Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức
có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về

sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ
ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có
hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “ Ông bà”, “Cha mẹ”, “Anh em” (từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình,
cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của
mình là những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thông
qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài,
hướng cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn
cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ
ngữ phù hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp
tới (viết về người thân), tôi luôn nói với các em sự cần thiết phải học thuộc và
lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn, khơi gợi
và kích thích tinh thần học tập của các em.


9

3. Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý
ä Các bước hình thành:
Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi.
Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng; cung cấp và gợi ý để các
em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ ngữ các bạn đã dùng, có thể hướng
dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động
hơn (khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối
tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn
mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh, cách nhân hóa nhưng không đưa những

thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2).
Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để
hoàn chỉnh bài làm miệng.
Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết
liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn ngắn đảm bảo số câu theo yêu cầu.
Hướng dẫn các em cách trình bày một đoạn văn; bên cạnh đó cũng không
quên nhắc nhở các em viết chữ rõ ràng, sạch, đẹp. Chú ý không để sai chính tả.
Kể cả việc chọn màu mực khi viết bài cho đẹp hơn.
Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích
thích tinh thần học tập của học sinh.
4. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều
chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập
nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi
sai. Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết
lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay
nhưng chưa hoàn chỉnh, giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho
bài văn được hấp dẫn hơn.
Khi sửa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước,
hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo. Từ đó, giúp
các em nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em
hiểu rằng, những bài làm thể hiện sự suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được
khích lệ và tôn trọng.
4. Phối hợp với phụ huynh học sinh


10

Để học sinh học phân môn Tập làm văn của lớp đạt kết quả tốt, giáo viên
cần làm tốt công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh để cùng xây dựng tốt

nề nếp tự học và chuẩn bị bài ở nhà. Cụ thể như sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi thông báo kết quả học tập cũng
như kết quả khảo sát của các em về mọi mặt nhất là việc học phân môn Tập làm
văn của từng em, sau đó tôi tuyên truyền cho phụ huynh biết về vai trò quan
trọng của phân môn Tập làm văn nói riêng cũng như môn Tiếng Việt nói chung.
- Hướng dẫn phụ huynh trong việc mua sắm đồ dùng học tập của học sinh
về bút, vở viết, sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo cũng như việc đọc thêm
sách, báo ở nhà.
- Phổ biến cho phụ huynh biết các tiêu chuẩn cụ thể khi xếp loại học lực
của học sinh từng học kỳ, cả năm học đối với môn Tiếng Việt mà phân môn Tập
làm văn đóng vai trò quan trọng.
- Hướng dẫn phụ huynh dựa vào các câu hỏi gợi ý giúp học sinh quan sát,
tìm hiểu bài, chuẩn bị bài ở nhà. Phụ huynh kiểm tra và thường xuyên quan tâm
sửa chữa các sai sót về bài viết cho con em mình.
- Yêu cầu phụ huynh tạo góc học tập yên tĩnh, có đủ ánh sáng, bàn ghế
đúng với tầm của các em khi ngồi học ở nhà. Phụ huynh biết khích lệ tinh thần
học tập của các em, …
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân
môn Tập làm văn của lớp tôi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi
đến phân môn Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Các
em rất tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Với
niềm đam mê đó, bài viết của các em đạt yêu cầu rất cao. Nhiều em diễn đạt trôi
chảy, gãy gọn, rõ ràng và hấp dẫn, phong phú hơn trong môn Tập làm văn.
Nhiều em học giỏi hơn và chất lượng môn Tiếng Việt rất khả quan. Cụ thể trong
từng năm học như sau:
Năm học
Sĩ số
Giỏi
Khá

Trung bình
Yếu
2010-2011
29
20
7
2
0
2011-2012
25
22
3
0
0
HKI(2012-2013)
32
25
5
2
0
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau:


11

- Hình thành cho các em thói quen học tập, làm việc một cách khoa học: Đọc kỹ
đề bài, xác định yêu cầu của đề bài, quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học,
câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
- Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển

tư duy, khơi gợi niềm say mê ở các em, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
- Sử dụng nhiều hình thức thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực
học tập.
VII. KẾT LUẬN
Bất kì mỗi ai nhìn đoạn văn của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp,
sạch sẽ, diễn đạt đủ số câu, ý phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc thì cả cha
mẹ và thầy cô đều dấy lên một niềm vui, sự hãnh diện và thiện cảm. Chúng ta
như đặt niềm tin vào tương lai con trẻ. Việc dạy cho học sinh biết cách học tốt
phân môn Tập làm văn còn là môi trường quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những
phẩm chất tốt như: tính cẩn thận, chịu khó, tự tin, óc tư duy, sáng tạo.… Qua đó,
nhằm bồi dưỡng cho các em thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng. Bên
cạnh đó, tôi nhận thấy rằng, những em tiếp thu chậm, việc viết đoạn văn sạch sẽ,
rõ ràng là yêu cầu không quá cao, nhưng muốn viết hay thì yêu cầu trẻ phải kiên
nhẫn, gắng công khổ luyện nhiều hơn.
Tôi nghĩ rằng, để gặt hái được nhiều thành công trong mọi việc đều phải
có lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. Chính vì vậy, ngoài những biện
pháp trên thì người giáo viên còn phải khơi dậy ở các em lòng say mê học tập.
Giáo viên phải thổi vào học sinh luồng sinh khí mới với những ước mơ cao đẹp,
khơi gợi lên ở các em lòng say mê, ham thích học văn. Giáo viên liên tục nhắc
nhở, động viên, khích lệ ở lớp những em học tốt môn học này nhằm động viên
phong trào học tập ngày một tốt hơn trong nhà trường hiện nay.
Cần giữ mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, vì cha mẹ học sinh
là yếu tố thứ hai sau cô giáo chủ nhiệm, giúp các em thực hiện tốt việc học tập.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong giảng dạy phân môn
Tập làm văn. Tôi nhận thấy học sinh có tiến bộ trong từng năm học. Giải pháp
này được áp dụng cho giáo viên giảng dạy lớp 2 và có thể thực hiện cho các lớp
khác ở bậc tiểu học.
VIII. ĐỀ NGHỊ
Nhà trường cần khích lệ, tuyên dương học sinh học giỏi phân môn Tập
làm văn hằng tháng, học kỳ.

Đối với học sinh từ lớp Một, cần luyện nói theo chủ đề trong sách Học vần
để rèn tính tự tin và diễn đạt trôi chảy hơn cho các em khi các em lên lớp 2.


12

Nhà trường phối hợp cùng với giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh
đẩy mạnh phong trào học tốt phân môn Tập làm văn hơn.
Trên đây là “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 2A viết được một
đoạn văn ngắn từ 3- 5 câu” mà bản thân tôi đã vận dụng vào dạy học đạt hiệu
quả. Rất mong nhận được sự đóng góp chia sẻ của đồng chí, đồng nghiệp! Tôi
xin chân thành cảm ơn và ghi nhận sự giúp đỡ của Hội đồng Khoa học các cấp.
Đại Nghĩa, ngày 25 tháng 02 năm 2013
Người viết

Lê Thị Nguyệt Nga


13

IX. PHỤ LỤC
Một số bài viết của học sinh các năm học làm tư liệu:
1. Kể về một con vật:
a) Bài viết của em: Trần Lê Hoài Ân - Lớp 2C- Năm học: 2009-2010
Nhà em có nuôi một con chó tên là Ki Ki. Nó có bộ lông màu vàng mượt như
tơ. Đôi mắt của nó rất sáng và đôi tai vểnh lên trông mới đáng yêu làm sao! Nó
thường nằm trước cửa để giữ nhà. Hằng ngày, em thường cho nó ăn. Em rất yêu
quý con chó của nhà em.
b) Bài viết của em: Nguyễn Hiền Vi- Lớp 2B- Năm học: 2010-2011
Con mèo tam thể của nhà em tên là Mi Mi. Nó có bộ lông màu vàng có pha

trắng và đen mượt như nhung. Đôi mắt của nó rất sáng và tròn như hai viên
ngọc. Nó thường bắt chuột để giữ đồ đạc trong nhà. Hằng ngày, em thường vuôt
ve và cho nó ăn. Con mèo tam thể ấy như người bạn thân thiết của em.
c) Bài viết của em: Lê Thị Thùy Trâm - Lớp 2B- Năm học: 2011-2012
Nhà em có nuôi một con gà trống tía. Nó có bộ lông màu đỏ có pha đen. Đôi
mắt của nó rất sáng và cái mào đỏ tươi trông mới oai vệ làm sao! Mỗi sáng, nó
thường gáy vang báo cho mọi người thức dậy làm việc. Hằng ngày, em thường
cho nó ăn thóc. Em rất yêu quý con gà trống của nhà em.
2. Kể về cô giáo cũ của em:
a) Bài viết của em: Nguyễn Thùy Trang- Lớp 2B- Năm học: 2010-2011
Cô giáo dạy em năm lớp Một tên là Đặng Thị Bích Xinh. Cô rất yêu thương
và quý mến học sinh. Em nhớ nhất giọng giảng bài của cô rất rõ ràng, dễ hiểu.
Em nguyện suôt đời lễ phép và kính trọng cô. Hình ảnh của cô luôn in đậm mãi
trong trái tim em.
b) Bài viết của em: Lê Thị Thanh Trúc- Lớp 2A- Năm học: 2012-2013
Cô Nguyễn Thị Hồng Loan là cô giáo dạy em năm lớp Một. Cô rất yêu
thương và tận tụy với học sinh. Em nhớ nhất bàn tay của cô sửa cho em từng nét
chữ. Dù không còn học cô nữa nhưng em vẫn nhớ mãi lời dặn của cô. Hình ảnh
của cô không bao giờ phai nhạt trong tâm trí em.
3. Kể về một người thân của em:
a) Bài viết của em: Lê Thị Thùy Phước- Lớp 2B- Năm học: 2011-2012
Trong gia đình em, bà nội là người em kính trọng nhất. Bà nội em đã sáu mươi
tuổi rồi. Tóc bà đã bạc trắng vì vất vả một đời nuôi con cháu. Bà thường làm


14

việc để giúp các cháu học bài. Em thích được bà ôm vào lòng và nghe bà kể
chuyện cổ tích. Bà thường dạy em những điều hay, lẽ phải. Em cố gắng học thật
giỏi để làm bà vui lòng.

b) Bài viết của em: Lê Thị Thanh Vân- Lớp 2A- Năm học: 2012-2013
Mẹ là người em yêu quí nhất. Mẹ em năm nay đã ba mươi tuổi. Mẹ có mái
tóc như rễ tre nhưng sao mà em yêu đến thế! Hằng ngày, mẹ vác cuốc ra đồng
làm việc đến khi trời tối mịt mới về. Thế mà mẹ phải đi chợ, nấu ăn, giặt đồ, bày
cho em học đến tận khuya. Mẹ ơi! Con sẽ cố gắng học thật giỏi để không phụ
công ơn trời biển của mẹ.
4. Kể về các mùa trong năm:

a) Bài viết của em: Lê Thị Kim Thoa- Lớp 2B- Năm học: 2011-2012
Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Không khí trở nên ấm áp. Cây cối trong
vườn đâm chồi, nảy lộc, ra hoa. Cây mai trước sân nhà em cũng khoe sắc vàng
rực rỡ. Vào mùa xuân, em được đón Tết, được mặc quần áo mới, được đi thăm
ông bà. Mùa xuân thật là thú vị!
b) Bài viết của em: Nguyễn Thị Hồng Mỹ- Lớp 2A- Năm học: 2012-2013
Mùa hè bắt đầu từ tháng tư. Không khí trở nên nóng bức, oi nồng. Cái nắng
của mùa hè làm cho trái ngọt, hoa thơm. Cây mận trước sân nhà em khoe những
chùm quả đổ ối trên cây. Vào hè, em được nghỉ học, Em về quê thăm ông bà,
được đọc truyện, thả diều, ngắm cảnh thiên nhiên thỏa thích. Em rất thích mùa
hè!


15

X. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học (Nhà xuất bản GD);
2. Vở Bài tập Tiếng Việt lớp 2- Tập 1- Tập 2(Nhà xuất bản Giáo dục);
3. Sách Hướng dẫn Tiếng Việt lớp 2(Sách giáo viên) - Nhà xuất bản GD);
4. Các tài liệu BDTX môn Tiếng Việt Tiểu học(Nhà xuất bản Giáo dục);
5. Những bài văn mẫu lớp 2 (Nhà xuất bản Giáo dục);
6. Những bài văn hay của học sinh trong những năm học trước.



16

MỤC LỤC
STT
I
II
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
X
XI
XII

Tiêu đề từng phần
Tên đề tài
Đặt vấn đề
Cơ sở lý luận
Cơ sở thực tiễn
Nội dung thực hiện
Giải pháp thực hiện
Kết quả nghiên cứu
Kết luận
Đề nghị
Phụ lục

Tài liệu tham khảo
Mục lục
Phiếu đánh giá, xếp loại

Trang
1
2
2
3
4
5
10
11
11
13
15
16
17



×