Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Các phương diện văn hóa của địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở tây thừa thiên huế (tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.73 MB, 14 trang )

CÁC PHƯƠNG DIỆN VẰN HÓA
CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỎN GỐC NGÔN NGỮ
DÂN TỘ C T H IÊ U SỐ Ở TẲV THỪ A T H IÊ N H UẾ
Trần Văn Sáng'
1. Dẩn n h ập
Ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mọi đặc trưng
cia /ăn hoá được biểu hiện qua ngôn ngữ còn ngôn ngữ phản ánh những đặc trưng
cia 'ăn hoá. Là m ột thành tố của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt.
Brilẽ, "ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, ph á t triển
Ví h ạ t động của những thành to khác trong văn hoả. Ngôn ngữ là m ột trong những
thinh tố đặc trưng nhất cùa bất cứ nền văn hoả dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ
đt.c điểm của nền văn hoả dân tộc được lưu giữ lại rõ ràng nhất" [Nguyễn Đức
T»n. 2008, tr. 47]. Có thể khẳng định rằng không thể nghiên cứu m ối liên quan giữa
vài hoá với ngôn ngữ mà lại bỏ qua vấn đề nhận thức, tư duy của những người
thiộ; một cộng đồng văn hoá - ngôn ngữ đang được nghiên cứu. Nghiên cứu đặc
tntig ngôn ngữ - văn hóa của địa danh cũng vậy.
Văn hoá gắn liền với mọi phương diện, mọi lĩnh vực của cuộc sổng con người,
biểu hiện trong cách ứng xử, sự hiểu biết đồng thời nó cũng tiềm ẩn trong các
lĩíh vực của cuộc sống m à đôi khi rất khó nắm bắt. N ghiên cứu ngôn ngữ từ góc
3( vẫn hoá trong địa danh không thể không quan tâm đến các phương diện liên
4^arí đến chủ thể văn hóa, không gian văn hóa và tiến trình văn hóa được thể
tiiỉn qua địa danh.
Văn hoá phát triển liên tục trong không gian và thời gian. Các tên gọi địa lí
lêj phản ánh những đặc trưng văn hoá nhất định (về vật chất hay tinh thần) của
/ùig miền nơi nó được tạo ra, trong đó có những tên gọi hàm chứa những suy nghĩ,
rcc vọng... của con người thuộc thế hệ khác nhau đã sản sinh ra chúng.
Nghiên cứu địa danh dưới góc độ ngôn ngữ - văn hoá là xem xét các hiện
ư?ng văn hoá được phản ánh như thế nào qua các địa danh. Mỗi địa danh phải
;hing có thể được coi như một tấm bia văn hoá của đối tượng địa lí mà nó biểu thị.
' r>ng bài viết này, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu các đặc trưng văn hóa được kí thác


S., Đại học Phú Xuân - Huế.


CÁC PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA CỦA Đ ỊA DANH CÓ NGUỒN GỖ3.

qua địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Thừa Thê
Huế như Bru-Vân Kiều, Pa-cô, Tà-ôi, Cơ-tu, qua đó, phác họa bức tranh toàn cin
về vùng đất và con người cư trú trên dãy Bắc Trường Sơn, nơi ghi dấu sự hội tụ
giao thoa ngôn ngữ - văn hóa đặc sắc của các tộc người nhóm ngôn ngữ Katuic,ch
Môn - Khmer, ngừ hệ Nam Á.
2. Đặc trư ng văn hóa địa danh thể hiện qua các th à n h tố ngôn ngữ
2.1. Đặc trim g văn hóa thể hiện qua y ếu tố tổng loại
Yếu tổ tổng loại (YTTL), còn gọi thành tố chung, thường phản ánh một iặ
trưng địa lí ở một vùng lãnh thổ nhất định. Với 50 YTTL được thống kê và piâi
chia theo các nguồn gốc ngôn ngữ, chủng phản ánh bức tranh địa danh sinh động V
dặc trưng địa hình địa vật, không gian văn hóa các DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế.
2.1.1. YTTL phản ánh đặc trưng địa - văn hóa về vùng đấí mà địa danh chào đời
về đặc điểm địa hình, bức tranh cảnh quan thiên nhiên của vùng núi Tây Tầừi
Thiên Huế được khắc họa một cách rõ nét qua 109 ngọn núi (kooh, koóh, kakoong,
ỉ 7 ngọn đồi (pakkong, pangkong, bôl), 20 động (ghơớp, akúp), 10 con đèo, i ờ
(mnâk, tangkứh, triot), 33 con sông (dak, daq, kaning), 43 con suối (toóm, SOI,
tuởm ), 78 ngọn khc (ahơar, tơớm), 7 con thác (achúh, a/.ủh), / gò (bônh), 4 cần
(pik), 2 hồ (tarlúng/ tarloóng), 2 vực (azeh azah).
về đặc điểm địa vật, địa danh phản ánh rõ quá trình tụ cư lập làng, thôn, bải
của các cư dân DTTS trên chính mảnh đất núi rừng Trường Sơn. Với 143 thôn bảt
(vil, vcel), nơi cư trú của cả người Cơ-tu, người Tà-ôi, người Pa-cô cho thấy cảni
quan môi trường sống dọc theo các sườn đồi, ngọn suối, con sông, một tập quái
sinh hoạt cộng đồng của người miền núi có từ lâu đời. Bên cạnh đó, các Y lT^
trong địa danh gốc DTTS còn được xem là tẩm bản đồ giao thông, quân sự diễn rỉ
trên địa bàn cư trú. Có 30 con đường (kallâng, kama, killâng) để đi lại, 24 chiếc cái

Oihung, parrang, panoong) nối những bờ sông, ngọn suối, 2 cửa khẩu (mong karléi,
m ong karlân) giao thông với nước bạn Lào, 2 khu chợ (tang, chơq) đảm bảo văn hóa
s inh hoạt, 4 sân bav (ntang papăr) chiến đấu, 2 trận địa (tranqdiaq), 11 khu di tỉài
(mtóng, phiắt hinua) quân sự, 5 địa đạo (kama hóngtóng) huyết m ạch... Tất cả vén
c òn giữ nguyên hình nguyên dạng như thời bom đạn chiến tranh trên mảnh đất miôi
n úi Thừa Thiên Huế anh hùng.
2.1.2. YTTL phản ảnh không gian cư trú đặc trimg các tộc ngiĩời
Các YTTL không chỉ được dùng để xác định loại hình địa danh mà còn d o
biết đặc điềm cư trú và nguồn gốc tộc người trên một vùng lãnh thổ nhất định. Ncu
trong địa danh có các YTTL được gọi ten bằng "núi. sông, động, đồi, khe, suờ,
8S5


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

thác, đèo, làng, xã, thôn, xóm, cầu, đường,..." thì được xác định là không gian cư
trú của người Việt (Kinh); các YTTL là "êa, krông, dlỉê, buôn, bon, dak, nâm,
bu,..." là không gian cư trú của cư dân Nam Đảo và Nam Á bản địa khu vực Tây
Nguyên; các YTTL "nậm, nặm, chải, mường, chiềng, só c..." lại là không gian cư
trú của các tộc người thiểu số Tây Bắc. Phải có một lí do đủ sức thuyết phục thì nhà
nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Phạm Đức Dương, khi nghiên cứu địa danh Hòa
Bình mới lưu ý rằng "dấu ẩn được bảo lưu trong địa danh của người Tày Thái
chính là địa danh "nà" (ruộng). Ở đâu có "nà" là ở đẩy có người Thải, người Tày.
Địa danh "nà" như là biểu tượng của người Thái vì nó gắn với nền văn hỏa lúa
nước" [Phạm Đức Dương, 2007, tr. 865]. Qua nghiên cứu địa danh gốc DTTS ở
Tây Thừa Huế, chúng tôi cũng chỉ ra được không gian cư trú của từng DTTS trên
địa bàn. Ở đâu có địa danh mà các YTTL là "koóh, soq, daq, tarlúng, pangkong,
tangkửh, panong, karna, veel" thì ở đó là không gian cư trú của người Pa-cô; ở đâu
mà địa danh có các YTTL là "bôl, tơởm, vil, kakoong, karung, triot, ạịủh, kỉlâng,
phiẳt hinua, ghơớp" thì ở đó là không gian cư trú của người Cơ-tu, còn các YTTL

"kooh, dak, bônh, toóm, tang, ntỏng, kallâng, achủh, ahơar, pakkong" lại xác định
rõ không gian địa danh của người Tà-ôi.
Đặc biệt, các YTTL còn chi ra sự tri nhận thế giới hiện thực khách quan ở mỗi
tộc người nói ngôn ngữ khác nhau là không giống nhau. Cùng chỉ đối tượng địa lí
sơn danh mà người Việt gọi là núi thì người Tà-ôi gọi là kooh, người Pa-cô gọi là
koỏh, người Cơ-tu lại gọi là kakoong; hay đối tượng địa lí m à người Cơ-tu gọi là
karung, người Tà-ôi gọi là dak, người Pa-cô là daq thỉ người Việt lại gọi là sông,
hà, giang, rào. Như vậy, các dân tộc khác nhau có sự phân chia thế giới hiện thực
khách quan bằng ngôn ngữ cũng khác nhau. Chẳng hạn, có những yếu tố không
tương đương với tiếng Việt khi biểu thị loại hình địa danh [ví dụ: tơớm trong tiếng
Cơ-tu tương đương với cả khe và suối trong tiếng Việt; vil trong tiếng Cơ-tu, veel
trong tiếng Pa-cô, Tà-ôi tương đương với cả làng và thôn, xóm trong tiếng Việt].
Ngoài ra, các YTTL trong địa danh gốc DTTS ờ Tây Thừa Thiên Huế ít có trường
hợp cùng chỉ một đối tượng địa lí mà có nhiều từ ngữ đồng nghĩa như sông, giang,
hà, rào; rú, núi, rừng, động, non trong địa danh tiếng Việt.
2.2. Đặc trưng văn hóa thể hiện qua các chế định ngôn ngữ - văn hóa
Nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố cấu tạo nên địa danh đã hàm chứa trong
nó những chế định về đặc điểm ngữ nghĩa, sự phản ánh tư duy ngôn ngữ của chủ thể
định danh. Các chế định ngôn ngữ - văn hóa này thể hiện ở cách sử dụng các yếu tố
ngôn ngữ khác nhau dùng để định danh mang ý thức của chủ thể định danh. Điểm
nổi bật về sự chế định ngôn ngữ ở đây là kiểu chế định ngôn ngữ của địa danh gốc
DTTS nhóm ngôn ngữ Katuic. Bởi lẽ, cả người Tà-ôi, người Cơ-tu, người Pa-cô đều
896


CÁC PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC...

Sống cận kề nhau, có nhiều nét tương đồng về ngôn ngữ, văn hóa và đặc điểm địa
hình cư trú. Kiểu chế định này thể hiện qua các đặc điểm sau: (1) Địa danh gốc
ITITS mang màu sắc dân dã, thể hiện lối tư duy trực quan, cụ thể và đơn giản.

Người DTTS nhìn nhận sự vật, hiện tượng như thế nào thì phản ánh và gọi tên như
vậy, chủng thường được cấu tạo bằng các từ ngữ đơn nghĩa, chủ yếu mang ý nghĩa
từ vựng - mô tả. Ví dụ: núi Ta Vi (T: kooh Taviar - núi có nhiều cây giang mọc),
khe Cà Xinh (T: ahơar Kaséenh - khe có nhiều con rắn),... Kiểu chế định ngôn ngữ
này cũng có thể tìm thấy trong các địa danh thuần Việt. Ví dụ: khe Su, khe Bàu, Khe
Trái,... ở Thừa Thiên Huế; (2) Người Tà-ôi, Cơ-tu, Pa-cô thường lựa chọn đặc
trưng về hình dáng, kích thước, phương v ị..., những đặc trưng "đập vào mắt" để
định danh. Những đặc trưng ấy dựa vào đặc điểm của chính bản thân đối tượng địa
lí hay dựa vào các sự vật, hiện tượng có liên quan đến đối tượng định danh. Ví dụ:
đồi Đon Pa N í (T: pakkong Dol Parnis - đồi có hình cán chổi), thôn Ỷ Rỳ (P: veel Iri
- thôn có cây đa), thôn Ky Ré (K: v/7 Kireq - thôn có nhiều cây mây). Kiểu chế định
ngôn ngừ định danh này cũng là nét đặc trưng trong địa danh thuần Việt. Ví dụ: hòn
Voi (hòn to như con voi), cồn Hen (cồn có nhiều hến), hói Dừa (hói trồng nhiều cây
d ừ a ),... trong địa danh Thừa Thiên Huế, nhưng khác với kiểu chế định của địa danh
Hán Việt với lối tư duy mang tính chất suy lí, liên tưởng và lối định danh cỏ tính
chất hàm ý. Phải có một kiến thức uyên bác, chuyên sâu về chữ nghĩa thì mới hiểu
hết được ý nghĩa sâu xa ẩn chứa sau mồi địa đanh Hán Việt. Ví dụ: Hiền Lương,
Đức Trọng, Phủ Lễ, An Thuận, Phước Yên, Vĩnh An,...
Như vậy, địa danh là kết quả của các chế định ngôn ngữ - văn hóa. Kiểu chế
định của địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế tạo ra những tên gọi mộc mạc,
phản ánh những tri nhận trực quan về sự vật, hiện tượng, đối tượng được định danh.
3.
Đặc trưng văn hóa địa danh thể hiện qua ngữ nghĩa của yếu tố loại
biệt (YTLB)
3.1. S ự phản ánh phương diện không gian văn hoả trong địa danh
Địa danh ra đời trong một khoảng không gian và thời gian nhất định, nó ghi lại
rõ nét nhất những đặc điểm về địa lí tự nhiên của một vùng đất. Không gian văn hoá
của địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế thể hiện qua các bình diện: đặc
điểm địa hình tự nhiên, thế giới động - thực vật gắn với vùng đất chứa địa danh.
3.1.1. Phản ảnh đặc điểm địa hình tự nhiên

Địa danh sinh ra ờ môi trường nào sẽ phản ánh tính chất, đặc điểm của môi trường
ấy. Đối với loại địa danh chỉ địa hình tự nhiên (ĐHTN) thì điều này càng thể hiện rõ hơn
cà. Với 330 địa danh chi ĐHTN, chúng ta biết thêm những thông tin về đặc điểm địa thế,
hình dáng, vị trí địa lí riêng cùa vùng đất miền núi ITiừa Thiên Huế.

897


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ TƯ

về địa thế, khu vực Tây Thừa Thiên Huế là nơi cư ngụ của các DTTS với địa
thế hiểm trờ, cách núi cách sông, đèo cao, sông dài, khe suối chàng chịt. Đặc điểm
tự nhiên này được phán ảnh vào trong mỗi địa danh với những nét chấm phá khá
chân thực. Địa hình ấy có hình dáng phong phú [ví dụ: núi A Hô (K: kakoong Ahỗq
- núi há miệng), núi A Pi Lat (T: kooh Aplat - núi có hình dáng lép), đồi Đon Pa Ni
(T: pakkong Dol Parnis - đồi có hình cán chổi)], có kích thước, cấu trúc đa dạng [vỉ
dụ: núi Cà Lương (K: kakoong Kalương - đồi trọc), suối Cơ Rang Gấp (T: toóm
Kroang Krấp - suối nhiều đá lởm chởm )],... tạo nên không gian địa lí, diện mạo
cảnh quan rõ nét và đa dạng. Trong khi đó, theo khảo sát của chúng tôi, các địa
danh thuần Việt và Hán Việt ở Thừa Thiên H uế nghiêng về phản ảnh môi trường
sông nước: sông, núi, biển, ao, hồ, khe, suối. Nhiều tên làng mang các yếu tố "khe",
"bàu", "hỏi": Khe Su, Ba Bàu, H ói Dừa, ', nhiều địa danh mang yếu tố "hải", "thuỷ",
"hà", "giang". Ví dụ: Phú Hải; Thưỳ Dương, ThưỳXuân; H à Giang,...
v ề vị tr i và p h ư ơ n g hướng, các địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế
giúp định vị rõ không gian cư trú của các tộc người trên chính địa hình đó. Chẳng
hạn, núi B ơ Lạch (K: kakoong Parleech - núi nằm ở điểm cuối), núi A Rum Cà
Lưng (T: kooh Arum Karrứm - núi nằm dưới mặt trăng),... Đặc biệt, có những địa
danh đánh đấu vị trí cư trú bằng yếu tố "Tu" (ngọn, đầu nguồn) chỉ vị trí đầu các
nguồn nước. Ví dụ: thôn Tu Krung (K: v/7 Tu Krung - thôn nằm đầu ngọn sông), khe
Tu Tôm (K tơởm Tu Tơớm - suối nằm đầu nguồn nước), cầu Tu Krung (K: jh u n g Tu

Karung - cầu ở đầu ngọn sông),... Trong địa danh thuần Việt và Hán Việt ở Thừa
Thiên Huế, sự phản ánh địa hình qua địa danh cỏ tính chất hệ thống về ý niệm
không gian qua các yếu tổ "đông, tây, nam, bắc, thượng, trung, hạ". Ví dụ: Lê Xá
Đông, Bác Vọng Tây, Hoà Bắc, Thai Dương Thượng, Cao X ả Hạ, Lê X á Trung...
về m àu sẳc của m ôi trường tự nhiên, địa danh cũng phản ánh những nét đặc
sắc riêng trong không gian văn hoá Huế, sự tri nhận về màu sắc của cư dân bản địa.
Chẳng hạn, núi Bò Ky Hạ (K: kakoong Proók - núi trắng), sông Sal (T: dak Sal - sông
xanh), khe Bơ Rông (K; tơớm Bhrông - khe có màu đỏ)... Trong địa danh tiếng Việt,
sự phản ánh màu sắc cùa địa hình cư trú có phần trang trọng hơn nhờ vào các tên gọi
Hán Việt. Ví dụ: Thanh Hà (sông trong), Thanh Đàm (đầm trong), Thanh Thuỷ (nước
trong), Thanh Khê (khe trong), Bạch Thạch (đá trắng), Ô Sa (cát đen),...
3.1.2. Phản ánh tên các loài thực vật có trên địa bàn cư trú
Thế giới thực vật được phản ánh một cách phong phú qua địa danh gốc DTTS
ờ Thừa Thiên Huế. Lối định danh có sử dụng các từ ngữ chi tên gọi thực vật chiếm
số lượng lớn nhất, với 98 địa danh và 90 loài cây được sử dụng vào việc định danh
các địa danh gốc DTTS. Đó có thể là loài cây lấy gỗ, ví dụ: thôn A Ngo (T: veel
Ango - thôn, cây thông), núi Tà Lu (K: kakoong Talu - núi, cây gỗ talu), đồi Tháp
898


CÁC PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC...

(K: bỏl Súp - động, trầm), thôn Ka Chê (K: v/7 Kichê - thôn, cây gỗ kichê), thôn A
Xăng (K: v/7 Axăng - thôn, cây gỗ giống lim ),...; có thể là cây lấy củ, quả, ví dụ: núi
A Túc (P: koóh Atủk - núi, cây vả), thôn Ba Rít (T : veel Paris - thôn cây riềng), thôn
Priêng (P: veeỉ Priêng - thôn cây ổi), thôn Tâm Mu (P: veel Tâmmu - thôn, cây đào
rừng),...; có thể là cây rau, ví dụ: thôn Căn Sâm (K: vil Kansâm - thôn, rau thơm),
thôn A Sam (P: veel Asam - thôn, rau sam), thôn A Đèn (T: veel Adên - thôn rau
dền), thôn A Mứt (K: vỉl Amứt - thôn, rau A m ứt),...; có thể là cây rừng, ví dụ: núi
A Lau (T: kooh Rlau - núi, cầy tiêu rừng), núi A Chét (T: kooh Acheat - núi, cây

tranh), thôn A Min (T: veel Amin - thôn, cây mây), núi A Tin (K: kakoong Atin - núi,
cây lá dong), núi Chà Tàng (K: kakoong Chitang - núi, cây chi tang),...; hoặc là
những loài cây gắn với đời song sinh hoạt, sản xuất của người dân, ví dụ: núi Ta Vi
(T: kooh Taviar - núi, cây giang), thôn Ky Rẻ (K: vil Kireq - thôn, cây mây), thôn
Ta Vác (K: vỉl Tavac - thôn, cây đoác),... và cũng có thể là những loài cây không
mang lại lợi ích gì cho con người, ví dụ: đồi A Đon (P: pangkong Adon - đồi, cây
môn ngứa), doc A Năm (T: nnấk Arìăm - dốc, cây rêu), thôn Tà Vài (P: veel Tavai íhôn, cây hoa dại),...
Điềm đặc biệt đáng lưu ý là, đa số những loài cây được sử dụng vào việc định
danh đều là những cây rừng và/hoặc cỏ liên quan, cận kề với rừng. Điều này chứng
tỏ một cảm quan, cảm thức về rừng của các DTTS ở ITiừa Thiên Huế, cũng như
phản ánh rõ cảnh quan sinh thái, đặc điểm cư trú, sinh hoạt của cộng đồng nơi đây.
Chúng tôi nhận thấy có rất nhiều loại cây được gọi bằng ngôn ngữ bản địa, được
cộng đồng tri nhận bằng chính ngôn ngữ bản địa, thật khó để giải thích cặn kẽ và
chuyển dịch tuyệt đối sang tiếng Việt, đặc biệt là nhóm địa danh gốc tiếng Cơ-tu.
[Ví dụ: soq Asoom (suối cây asoom), veel Kavin (thôn cây kavin, cùng họ với đoác),
kakoong Talu (núi cây gồ talu), kakoong Adeen (núi cây gỗ adeen), karung Bhrang
(sông cây gỗ bhrang), tơớm Ghiri (suối cây ghiri), tơớm Arăng (suối cây arăng),
tơớm Chanum (suối cây chanum), vil Kichê (làng cây kichê),...].
3.1.3. Phản ánh tên các loài động vật có trên địa bàn cư trú
So với các địa danh thuần Việt và Hán Việt eọi theo tên động vật ở Thừa
Thiên Huế [ví dụ: núi Chúc Mao, cầu Bạch Ho, cồn H en, núi Bạch Mã, hòn
V oi,... Ị, địa danh gốc DTTS gọi tên theo tên các loài vật chiếm số lượng đáng kể và
có nét đặc trưng hem, phản ánh rõ nét hơn về văn hoá dân dã của các DTTS bản địa.
Với 40 loài động vật được sử dụng để gọi tên 49 địa danh, chúng có thể được
xếp thành các tiểu nhóm sau: Những loài vật sổng trên cạn, gắn liền với đời sống
sinh hoạt của đồng bào DTTS [Ví dụ: dak Alim (P: sông, châu chấu), khe Cà Xĩnh
(T: ahơar Kaseẻnh - khe, con răn), thôn A Đớt (T: veel A dơơ - thôn, con khỉ),...];
Những loài vật sống dưới nước, gắn liền với đời sống sản xuất của đồng bào DTTS
899



VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

[Ví dụ: núi A Rur (T: kooh Abrur - núi, cá trám), khe Ka Rách (K: íơớm Kạịrach - khe.
cá cơm), thôn A Ka (K: vil Aka - thôn, cá suối),...]. Ngoài ra, có những loài động vật
được dùng định danh thể hiện được cảm quan khác nhau của chủ thể định danh. Đó có
thể là những loài vật cụ thể nhtmg khó quan sát [ví dụ: đèo A Ko Ợ : nnâk Ako - đèo.
con thằn lằn), sông A Ling (P: daq Aling - sông, con kiến),.. hay được đặt từ những
con vật có tính trừu tượng hóa cao [ví dụ: sông Pling (P: daq Pling - sông, chim
phượng), núi Ki Kaaỉ (P: koóh K i Kaa.1 - núi, rắn không độc Ki Kaal), suối Hu (P: soq
Hu - suối, con vật đầu lợn mình chó),...]. Điểm nổi bật trong trường địa danh động vậl
là đều bắt nguồn từ đặc điểm môi trường sinh thái núi rừng - m ột nét văn hóa cư trú
và sinh hoạt chính yếu của các cư dân DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế.
3.2. S ự phản ánh các phương diện văn hóa lịch sử trong địa danh
Nếu "văn hoá là cải còn lại khi người ta đã quên đi tất cả", theo cách nổi của
Edouart Herriot, thì cũng có thể nói địa danh là một trong những "cái còn lại" đó.
trở thành "vật hoá thạch" lưu giữ nhiều thông tin lịch sử văn hoá của một thời đại.
3.2.1. Phản ảnh quá trình di trú của các tộc người trong lịch sử
Mỗi địa danh ra đời trong một hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định. Dựa vào
những tài liệu lịch sử và địa chí phản ánh hiện thực vùng đất Thừa Thiên Huế ngày
nay, chúng ta có thể nêu lên giả thuyết rằng những địa danh được cấu tạo bằng các
yếu tố không phải Hán Việt và thuần Việt là những chứng tích ghi lại dấu vết cư trú
của người Chăm và/hoặc cư dân Môn - Khmer bản địa. Bằng cách truy tìm từ
nguyên các địa danh, chủng ta có thể lí giải nguồn gốc các địa danh: sông Ô Lâu,
Thành Lồi có nguồn gốc từ ngôn ngữ Chăm cổ; các địa danh Sịa, Truồi, nơi hiện đa
số người Kinh sinh sống, lại có nguồn gốc từ các ngôn ngữ nhóm Môn - K hm er...
Những sự kiện lịch sử này được kí thác qua địa danh càng làm sáng tỏ nhiều vấn đề
tụ cư lập làng của cư dân Thuận Hóa, phản ánh những chặng đường lịch sử của các
DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế. Có những địa danh được hình thành theo con đường
di dân của người Kinh sau năm 1975 lên vùng núi sinh sống được gọi tên bằng ngôn

ngữ DTTS. Chẳng hạn, huyện Nam Đông có nguồn gốc từ cách nói "Năm Dống" (năm
nhà, năm hộ), trong đỏ "năm" là tò tiếng Việt, "dổng" là từ tiếng Cơ-tu có nghĩa là
"nhà, hộ"; hay trường hợp veel Quảng Mai (làng Quảng Mai) ở A Lưới lại do ghép địa
danh để tạo nên tên gọi mới, trong đó yểu tố "Mai" có nguồn gốc từ tiếng Tà-ôi là
"karmai" (cái vá), còn yểu tố "Quảng" do nói tát của "Quảng Thọ" mà thành.
3.2.2. Phản ánh các biến cố, sự kiện lịch sử đã xảy ra trên vùng đất chứa
địa danh
Địa danh được xem là "đài kỷ niệm", là "tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về
thời đại của mình". Do vậy, địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế cho chúng

900


CÁC PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC..

ta biết được các biến cố - sự kiện lịch sử đã xảy ra trên vùng đất cao nguyên miền
ỉrung. Nhắc đến đồi A Bia (pangkong Abiah) thuộc huyện A Lưới, chúng ta liên
tưởng ngay đến những trận đánh khốc liệt trong thời kì kháng chiến chống Mỹ năm
1969. Đồi A Bia (Pangkong Abiah) được người Mỹ gọi là "Đồi thịt băm"
(Hamburger Hill) cũng do tính khốc liệt nói trên. Cũng có những sự kiện, biến cố
trong đời sống hằng ngày được ghi lại trong mỗi tên làng, tên núi, tên sông một
cách chi tiết và cảm xúc. Ví dụ: thôn Pơ Nghi (veel Parnghí) có ý nghĩa là "động
đất, sạt lở" xảy ra ở đây; núi Ka Đẩu (kakoong Kalâu), nơi có 200 liệt sĩ chết ở đây,
tư kalâu có nghĩa là "khóc" trong tiếng Cơ-tu; di tích Tà Pát (Ntóng Tapát) có nghĩa
"bị rát bỏng, cháy bỏng", ghi nhớ lại bom đạn đốt cháy nơi đây một thời.
3.2.3. Phản ánh những thay đổi về địa giới hành chính trên địa bàn
Qua địa danh, chúng ta biết thêm những thay đổi về địa giới và các đom vị
hành chính của vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân. Thừa Thiên Huế đã phải chứng
kiến nhiều lần thay đổi qua các giai đoạn và triều đại thống trị khác nhau. Theo "Ớ
Châu cận lục" (1555) của Dương Văn An, Thừa Thiên Huế thời điểm đó có 170 xã,

21 thôn, 89 sách; trong "Phủ biên tạp lục" (1776), Lê Quý Đôn thống kê được 23
tổng, 234 xã, 23 thôn, 84 phường, 9 giáp, ấp, sách, trang. N hững năm 1810 - 1818,
Gia Long cho lập địa bạ dinh Quảng Đức, sách "Đại Nam nhất thống c h ĩ' thống kê
đưực 20 tổng, có khoảng 354 xã, thôn. Sự thay đổi, hình thành các đom vị hành
chính mới cho thấy sự phát triển lớn mạnh của cư dân, mang trong mình những
"trầm tích văn hoá" ghi lại dấu vết con đường hình thành và phát triển của mảnh đất
cố đô.
Trong cứ liệu địa danh gốc DTTS mà chúng tôi thu thập được, sự phản ánh
những thay đổi về địa giới hành chính chi xảy ra đối với những địa danh thôn làng.
Phần lớn chúng được cấu tạo bàng cách ghép hai yếu tố của hai địa danh có trước.
Chẳng hạn, thôn Rung Gênh được ghép từ hai thôn: vil Tu Krung và vil Geenh; thôn
Bá Tang được ghép từ vil Lapar và vil Chitang-, thôn Ra Đ ang cũng được tạo nên
bằng cách ghcp hai thôn v/7 Aka và v/7 Bhađang, thôn Ga Hình do vi/ Yahin ghép
với vil Grhing. Hai địa danh Nam Đông, A Lưới cũng đã có một quá trình thay đổi
trong lịch sử mới trở thành tên gọi chính thức. Trước khi trở thành tên chính thức
huyện A lưới và huyện Nam Đông như bây giờ, hai đơn vị hành chính này đều được
dùng để chỉ một thôn nhỏ của tộc người Pa-cô [thôn A Lưới (veel Alơơaiq)] và thôn
đầu tiên của tộc người Cơ-tu [thôn Năm Đông (vil Năm Dống)].

3.3. Sự phản ảnh phương diện văn hoả các tộc người - chủ thể định danh
Mỗi địa danh đều được ra đời và hình thành gắn liền với đặc điểm văn hoá của
chù thổ tạo nên chúng. Do vậy, địa danh phản ánh các đặc điểm về văn hoá - tâm lí tộc
người, nguồn gốc dân cư cùa một vùng văn hoá, chủ thổ tạo nên các địa danh đó.

901


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẰN THỨ TƯ

3.3.1. Địa danh phản ánh các truyền thống văn hỏa của chủ thể định danh

Từ xa xưa, người Việt đã rất thích lấy tên người, tên dòng họ đặt cho tên làng,
tên sông, suối nơi mình cư trú để ghi nhớ những người đã có những đóng góp cio
đồng bào, quê hương, tổ quốc, thể hiện trên mấy khía cạnh sau:
(1) Địa danh gốc DTTS đặt theo tên những vị anh hùng của cộng đồng, là
nhân vật trong các truyền thuyết, sử thi hay những người có công khai phá làng bẻn,
thôn xóm. Đó có thể là những tấm gương về truyền thống lịch sử cách mạng cia
dân tộc mình. Ví dụ: núi Quỳnh Trên (ikooh Koonh Trên - núi mang tên bí thư huyện
A Lưới), núi Quỳnh Tang (kakoong Koonh Tang - núi mang tên cán bộ cách mạig
huyện Nam Đông), đồi Kăn Rơn (pangkong Kăn Rơâng - đồi mang tên nữ dân côig
người Pa-cô); đó là những tấm gương anh hùng trọng nghĩa được ghi lại ứoig
truyền thuyết, cổ tích. Ví dụ: thác A Nô (achúh Anôr - thác m ang tên nhân vật aih
hùng trong sử thi người Tà-ôi), thôn A Lưới (yeel Alơơaiq - thôn mang tên nhân Tật
anh hùng trong sử thi người Pa-cô),...; đó cũng có thể là những con người bhh
thường, giản dị nhưng luôn có công bảo vệ, xây đắp cuộc sống cho thôn làng. Ví
dụ: thôn La Hia (vil Lahiar - thôn mang tên người hay giúp đỡ làng xóm), stối
Quỳnh Pảt {tơớm Koonh Pảt - suối mang tên người đàn ông tốt bụng).
Ngay cả những người không phải là những tấm gương noi theo vẫn được đồng
bào sử dụng đặt tên cho địa danh nhằm nhắn gửi về những điều không hay xảy ra. Ví
dụ: v/7 Riaham (thôn mang tên người xấu số nằm chết ở khe), vil Aloóch (thôn maig
tên người đàn ông Cơ-tu ác tính, hay đánh người nên khi chết bị treo trên c ây ...
(2) Phản ánh đặc điểm văn hóa sinh hoạt sản xuất của cư dân DTTS, nhất là đính
dấu thời điểm, cách thức khai thôn, lập làng, tất cả đều ghi dấu qua địa danh. Các lịa
danh sau được đặt theo tên người đến sinh sống đầu tiền tại đối tượng được đinh
danh. Ví dụ: sông Quỳnh Rác (karung Koonh Arac - sông anh Quỳnh Arac ở tầu
tiên), sông Quỳnh Minh (karung Koonh Minh - sông anh Quỳnh Minh đến sống cầu
tiên), sông Quỳnh Hom (karung Koonh Hom- sông anh Quỳnh Hom đến ở đầu tiêi).
Có thể nói, địa danh mang tên người là lối định danh phổ biến trong nhều
ngôn ngữ trên thế giới. Mỗi địa danh là những bài học ngắn gọn viết nên nhũng
trang sử vẻ vang của dân tộc, là "tấm gương", "đài tưởng niệm" cho thế hệ con cláu
noi theo. Đó cũng là truyền thống văn hóa lâu đời của các DTTS nơi đây.

3.3.2. Địa danh phản ánh đặc điếm văn hóa dòng họ cùa các tộc người
Sự có mặt tên các dòng họ qua địa danh đã để lại những "dấu tích" về thời đểm
hình thành làng xã của cư dân trên địa bàn cư trú, phản ánh trên mấy khía cạnh:
-

Một làng/thôn có thể có nhiều dòng họ sinh sống, song khi làng/thôn đó

mang tên dòng họ thì điều đó nói lên rằng làng/thôn này chỉ có một dòng họ anh
902


CÁC PHƯƠNG DIÊN VẢN HÓA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC..

sòng hoặc dó là dòng họ tiêu biêu của người DTTS sống trên làng/thôn đó. Ví dụ:
thôn Ta (veel Ta - thôn, làng mang tên dòng họ kiêng làm tấm ván), thôn Kê (veel
Kê thôn, làng mang tên dòng họ kiêng con sóc), thôn A Roàng (Vỉ/ Aroang - thôn,
lang mang tên dòng họ kiêng ăn con trút), thôn Pi Re (veel P ired - thôn, làng mang
tên dòng họ kiêng làm cối xay). Những địa danh mang tên dòng họ DTTS ở Tây
Thừa Thiên Huế đều rất cổ xưa, là các "trầm tích văn hóa" cần được bảo lưu. Nhờ
vậy, qua địa danh, tên một sổ dòng họ mãi không mất đi theo thời gian, dù chủ thể
mang tên dòng họ ấy không còn.
Địa danh mang tên các dòng họ phản ánh văn hóa kỵ húy của các DTTS nơi
đây, có thể coi đó là một hình thức "totem" trong việc đặt tên dòng họ của cư dân
Môn - Khmer bản địa. Ví dụ: sông Y Reo (dak Ireau - sông m ang tên dòng họ kiêng
ăn con bìm bịp), suối Ven (itoóm Vean - suối mang tên dòng họ kiêng ăn thịt chó), thôn
Tu Vay (veel Tuvăi - thôn mang tên dòng họ kiêng chặt mây nước). Mỗi địa danh ra
đời gắn với các tích truyền trong truyện kể dân gian đậm chất văn hóa tộc người.
3.3.3. Địa danh phản ánh các đặc điểm tâm lí tộc người
Địa danh là những cứ liệu rất quan trọng phản ánh những đặc trưng tâm lí của


các chủ thể định danh thể hiện qua ý nghĩa được gửi gắm trong tên gọi, ẩn chứa
những nguyện vọng, mong ước của con người trong cuộc sổng. Đối với các DTTS ở
Tây Thừa Thiên Huế, những mong ước, nguyện vọng ấy rất giản dị, đơn sơ, thể
hiện tâm lí tri nhận hết sức trực quan. Ví dụ: núi Cô Pung (kooh Kapúng - núi ôm
ấp, che chở người dân), núi Cù Mông (kooh Kammóng - núi siêng năng, chăm chỉ),
thôn Cha Đu (vil Chadu - thôn để che chở, ẩn nấp), thôn Tân H ối (veel Tanghooiq
(thôn có nhiều người uyên bác, thông minh), thôn A Sóc (veel A soỏk - thôn có nhiều
người biết làm ăn),... Trong khi đó, các địa danh Hán Việt thể hiện sự phong phú,
đa dạng hơn về tâm lí tộc người. Đó là ước vọng sự giàu có, bình an, thịnh vượng
[Ví dụ: Đ ại Phú, An Lộc, Mỹ Lợi, Vinh Hưng]; mong ước về m ột vùng đất hoà bình,
yên ổn, cuộc sống trường tồn [Ví dụ: Bình An, Vĩnh An, Phước Thọ, Phú Cường].
Mỗi tên đất, tên làng đều ký thác tâm nguyện, hoài bão về những điều tốt lành từ
sâu thẳm tâm hồn.

3.4. Sự phản ánh các phưomg diện xã hội - ngôn ngữ học
Dịa danh là sản phẩm của tư duy con người thông qua ngôn ngữ. Trong quá
trình hình thành và chuvển biển, địa danh chịu sự tác động mạnh mẽ của quy luật
ngôn ngừ. Chúng được xem là "những tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thời đại
của mình". Mồi địa danh ký thác những thông tin ngôn ngữ học khác nhau. Ngôn
ngữ tạo địa danh có thể mất đi, thay đổi nhưng địa danh vẫn được bảo tồn nguyên
vẹn những giá trị ngôn ngữ học như thuở ban đầu mới đặt tên. Vì vậy, địa danh là

903


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẰN THỨ T ư

nguồn ngữ liệu quý giá để nghiên cứu ngôn ngữ trên phương diện xã hội - ngôn ngữ
học đặc thù.
3.4.1.

địa bàn

Đ ịa danh cung cẩp các ngữ liệu từ vựng p h ư ơ n g ngữ, thổ ngữ trên

- Phản ánh các nhóm từ vựng cơ bản trong các ngôn ngữ Katuic như nhóm tò
vựng chi núi non [ví dụ: núi (kooh, kakoong, koỏh), đồi (bôỉ, pakkong, pangkong),
động (gơớp, akúp)\, nhóm từ vựng chỉ sông nước [ví dụ: sông {dak, daq, karung),
suối {tơớm, toóm, soq), thác (achúh, ạịúh), khe (ahơar), đầm (pik)]; nhóm từ vựng
chỉ đom vị hành chính - dân cư [ví dụ: vil, veel, xăq, huyênq]; nhóm từ vựng chỉ màu
sắc [ví dụ: Bhoỏk (trắng), Sal (xanh), Aso (đỏ), Bhrông (hồng)]; nhóm từ vựng chỉ
hình đáng - kích thước [ví dụ: Mooqơcm (tròn), Tơgung (cong), Patang (bằng
phẳng), Kruôih (rộng), Talleng (mảnh), D ail (cao), Yếp (thấp), Takêu (cao),
Chomgai (xa)].
- Phản ánh mối quan hệ gần gũi từ vựng giữa các ngôn ngữ ữong nhóm
Katuic, góp phần làm sáng tỏ hơn mối quan hệ nguồn gốc và quan hệ loại hình giữa
các ngôn ngữ. Ví dụ: toóm (Tà-ôi) - tơớm (Cơ-tu), kooh (Tà-ôi) - koóh (Pa-cô),
kilâng (Cơ-tu) - kallâng (Tà-ôi), ạịủh (Cơ-tu) - Achúh (Tà-ôi), pangkong (Pa-cô) pakong (Tà-ôi),...
- Phản ánh hiện tượng đồng âm, đồng tự trong các ngôn ngữ với nhau. Có yếu
tổ đồng âm, đồng tự trong cùng một ngôn ngữ. Ví dụ: veel Talo (thôn Talo), tiếng
Pa-cô vừa có nghĩa là "mun bếp", vừa có nghĩa là "lá cọ"; veel M u (thôn Mu), tiếng
Pa-cô vừa có nghĩa là "cây mây rừng", vừa có nghĩa là "cây ổi"; có yếu tố đồng âm,
đồng tự trong các ngôn ngữ khác nhau trong nhóm Katuic. Ví dụ: veel Tru (thôn
Tru) thì từ "tru" trong tiếng Tà-ôi có nghĩa là "sâu", còn tiếng Bru-Vân Kiều lại có
nghĩa là "cá sấu"; veel Atia (thôn Atia), trong tiếng Pa-cô, "A tia" có nghĩa là "cây
tiêu rừng", trong khi tiếng Bru-Vân Kiều lại có nghĩa là "con vịt"; veel Abung (thôn
Abung) thì trong tiếng Pa-cô, "abung" có nghĩa là "cây lô ô", trong khi tiếng Cơ-tu
lại có nghĩa là "cái vá". Có những yếu tố vừa đồng âm, đồng tự, vừa đồng nghĩa
giữa các ngôn ngữ trong nhóm Katuic. Ví dụ: pangkong Adon (đồi A Đon), trong
tiếng Pa-cô, tiếng Tà-ôi lẫn Bru-Vân Kiều đều có nghĩa là "cây môn nước"; dak
Taham (sông Tà Hàm), cả trong tiếng Pa-cô, Tà-ôi, Cơ-tu, Bru-Vân Kiều, "aham"

đều có nghĩa là "máu".
Như vậy, bằng cách bảo lưu những từ ngữ cổ trong các phương ngữ, thổ ngữ,
địa danh không những cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho ngành phương ngữ học,
ngôn ngữ các DTTS trên địa bàn, mà còn là cầu nối cho các nghiên cứu liên ngành
văn hóa - ngôn ngữ học, xã hội - ngôn ngữ học và ngôn ngữ học nhân chủng.
904


CÁC PHƯƠNG DIÊN VĂN HỐA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC.

3.4.2.
dãn tộc

Địa danh phán ảnh quả trình biến đổi, tiếp xúc ngôn ngữ giữa các

Thừa Thiên Huế !à một tỉnh hội tụ nhiều dân tộc sinh sống nên có sự tiếp xúc
ngôn ngữ và văn hoá với nhau. Qua địa danh, chúng ta có thêm những cứ liệu quan
trọng để nghiên cứu quá trình vay mượn từ vựng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngừ
khác, giúp tìm ra ý nghĩa và nguồn gốc ban đầu có căn cứ. Các địa danh Truồi, Sịa
đều có thể lí giải từ nguồn gổc các ngôn ngữ Môn - Khm er (sịa - séaq, siãq; truồi níruôi, a-truôi).
Quá trình vay mượn, tiếp xúc giữa các ngôn ngữ trên địa bàn là một trong
những nguyên nhân làm nên những biến thể khác nhau của cùng m ột địa danh.
Nhiều địa danh gốc DTTS khi dùng trong văn bản tiến g V iệt hay ghi trên bản
đồ đều đã được "Quốc ngữ hóa" và/hoặc "Pháp hóa" theo những cách khác
nhau. Ví dụ: Aso (gốc DTTS) được người Pháp ghi A sh a u (Pháp hóa), người
Việt ghi dưới dạng Quốc ngữ hóa thành A sầ u (V iệt hóa), tạo nên những tên
sẵn dùng khác nhau.
4. K ết luận
Việc nghiên cứu đặc trưng văn hoá của địa danh gốc DTTS ở Tây Thừa
Thiên Huế đã góp phần đào sâu những tầng văn hoá ẩn chứa trong địa danh qua

các thời kỳ khác nhau trong lịch sử của một vùng đất. Tìm hiểu đặc trưng văn
hóa của địa danh cũng chính là chỉ ra đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị phản ánh
hiện thực của địa danh. Có thể dùng lời nhận xét sau đây của nhà địa danh học
Natafli Kađmon thay lời kết luận: "Tên gọi địa lí là m ột hiện tượng văn hỏa"
(The geographical name as a cultural phenomenon) [Natafli Kadmon, 2000, tr. 61].
Các địa danh gốc ngôn ngữ DTTS không chi phản ánh các giá trị về địa lí, lịch
sir mà còn phản ánh đặc điếm tâm lí tộc người, giá trị ngôn ngữ học, thể hiện qua
chù thể văn hóa, không gian và tiến trình văn hóa của các DTTS sổng trên khu
vực Tây Thừa Thiên Huế.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Dương Văn An (2001), Ỏ châu cận lục (Trần Dại Vinh, Hoàng Văn Phúc hiệu đính
và dịch chú), Nxb Thuận Hoá, Huế.
2. Supeanskaja A. V. (2002), Địa danh là gì. Maxcơva (Đinh Lan Hương dịch, Nguyễn
Xuân Hoà hiệu đính). Hà Nội.
3 Nguyễn Văn Âu (2002), Một số vấn đề về địa danh Việt A'am, in lần thứ hai, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.

905


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỨ TƯ

4. Hoàng Thị Châu (1964), "Mối liên hệ về nguồn gốc cổ đại ở Đông Nam Á qua mội
vài tên sông", Thông bảo khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 2, Nxb Giáo dục.
5. Phạm Đức Dưomg (2007), Việt Nam - Đông Nam Ả: ngôn ngữ và văn hoá, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Đầu (2005), "Tìm hiểu Thừa Thiên Huế qua sưu tập địa bạ", in ừong
c ố đô Huế, xưa và nay, Nxb Thuận Hóa, Huế, ư. 645-658.
7. Lê Quý Đôn (1977), Phù biên tạp lục, Bản dịch của Viện Sử học, Nxb Khoa học xâ

hội, Hà Nội.
8. Lê Trung Hoa (2006), Địa danh học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Hữu Hoành, Nguyễn Văn Lợi (1998), Tiếng Katu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Vương Hữu Lễ (1997), Từ điển Bru - Việt - Anh, Nxb Thuận Hoá, Huế.
11. Nguyễn Quốc Lộc (chủ biên) (1984), Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, Nxb
Thuận Hoá, Huế.
12. Đoàn Văn Phúc (2009), "Vị trí của tiếng Tà ôi ứong nhóm ngôn ngữ Cơ tu ở Việt
Nam", in ưong Tim hiểu các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr. 294-318.
13. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, bản dịch của
Viện Sử học, Nxb Thuận Hóa, Huế.
14. Trần Văn Sáng (2010), "Giá trị phản ánh hiện thực cùa địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ
dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế", Tạp chí Văn hoá dân gian, số 5,2010, tr. 30-43.
15. Trần Văn Sáng (2011), "Đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa các địa danh có nguồn gốc
ngôn ngữ Pa cô - Ta ôi ở huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1,
201 l,tr. 66-77.
16. Trần Văn Sáng (2013), "Cách phiên chuyển địa danh gốc dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên
Huế sang tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sổng, số 1 và 2,2013, tr. 85-93.
17. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hoá dân tộc cùa ngôn ngữ và tư duy, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Costello N.A. (1991), Katu Dictionary (Katu - Vietnamese - English), Summer
Institute of Linguistics.
19. Mark J. Alves (2006), A grammar o f Pacoh. a Mon-Khmer language o f the central
highlands o f Vietnam, Pacific Linguistics, Research School of Pacific and Asian
Studies, The Australian National University.

906



CÁC PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA CỦA ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC...

20. Paul Sidwell (2006), A Mon - Khmer com parative dictionary, Pacific Linguistics,
Research School of Pacific and Asian Studies, The Australian National University.
21. Naftali Kadmon (2000), Toponymy - the Lore, Laws and Language o f Geographical
Names, Vantage Press Inc., New York.
22. Sir Alan Gardiner (1953), The Theory o f Proper Names, Second edition, Oxford
University Press, London-New York- Toronto.
23. John M. Anderson (2007), The Grammar o f Names, Oxford University Press,
New York.

907



×