Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Nà lữ (hòa an cao bằng) từ thế kỷ IX đến nửa đầu thế kỷ XIX (tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.58 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HẢI

NÀ LỮ (HÒA AN – CAO BẰNG)
TỪ THẾ KỶ IX ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số

: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2009


Công trình đƣợc hoàn thành tại
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NV – ĐHQG HÀ NỘI

Hƣớng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN QUANG NGỌC

Phản biện 1: TS. NGUYỄN THỊ PHƢƠNG CHI
Phản biện 2: PGS.TS ĐÀO TỐ UYÊN

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NV – ĐHQG HÀ NỘI
Vào hồi: ..... giờ, ngày ..... tháng 04 năm 2009

Có thể tìm hiểu luận văn tại:


TRUNG TÂM THƢ VIỆN ĐH QUỐC GIA HÀ NỘI


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nà Lữ là một cánh đồng cổ, nằm trong vùng sản
sinh ra nghề nông trồng lúa nước của các dân tộc Tày –
Thái. Vì thế, con người đến đây tụ cư từ rất sớm.
Trong lịch sử, Nà Lữ là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa, quân sự của Cao Bằng – một tỉnh biên giới
thuộc “nơi phên dậu thứ tư về phương Bắc” nước ta.
Ngay từ thế kỷ IX, Cao Biền đã cho xây dựng thành
Nà Lữ, đưa nơi đây trở thành căn cứ quân sự quan
trọng của nhà Đường nhằm chống lại quân Nam Chiếu.
Vào thế kỷ XI, Nà Lữ lại được chọn là trung tâm cát cứ
của cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao. Năm
1592, sau khi thất thủ ở Thăng Long, vua tôi nhà Mạc
đã chạy lên Cao Bằng tiếp tục củng cố và xây dựng
chính quyền cát cứ, đặt kinh đô ở vùng Nà Lữ, Cao
Bình. Nhà Mạc đổi xã Nà Lữ thành phường, xây dựng
cung điện và tu sửa thành trì. Trong suốt thế kỷ XVII,
Nà Lữ luôn là mục tiêu tấn công của quân Lê – Trịnh,
hòng lật đổ chính quyền họ Mạc. Năm 1677, Nà Lữ thất
thủ, nhà Mạc chạy về Phục Hòa rồi thất bại hoàn toàn,
triều đình Lê – Trịnh trực tiếp cai quản Cao Bằng. Từ


đó, Nà Lữ không còn là trấn thành nhưng vẫn là trung
tâm của châu Thạch Lâm, là căn cứ quân sự của trấn
Cao Bằng.

Có thể nói, trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX
đến giữa thế kỷ XIX, Nà Lữ là khu vực thể hiện tập
trung nhất những biến động chính trị, xã hội cũng như
văn hoá của vùng Cao Bằng. Tìm hiểu Nà Lữ một cách
thấu đáo không chỉ cho ta có cái nhìn sâu sắc về mảnh
đất nơi biên viễn mà còn bổ sung nguồn tư liệu quan
trọng trong việc tìm hiểu về vấn đề Nùng Tồn Phúc,
Nùng Trí Cao, Bế Khắc Thiệu, vấn đề nhà Mạc ở Cao
Bằng, cuộc chiến tranh Trịnh – Mạc giai đoạn 1592 1677... Đồng thời, nó giúp chúng ta có cái nhìn khoa
học về những giá trị kinh tế, văn hóa truyền thống của
Nà Lữ, từ đó, có những chính sách phát triển phù hợp,
góp phần phát huy nguồn nội lực trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Việc nghiên cứu Nà Lữ trong giai đoạn từ thế kỷ
IX đến giữa thế kỷ XIX sẽ cung cấp nguồn tư liệu quan
trọng, phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu
Lịch sử địa phương, Nhân học, Văn hóa …


Vì những lý do trên, chúng tôi chọn “Nà Lữ (Hòa
An – Cao Bằng) từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX”
làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch
sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi được
thừa hưởng rất ít kết quả nghiên cứu của các học giả đi
trước. Bởi lẽ, chưa có một công trình nào lấy Nà Lữ
làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, ở từng lĩnh vực
và từng khía cạnh khác nhau, các học giả đã ít nhiều đề
cập đến một cách trực tiếp hay gián tiếp.

Đầu tiên là cuốn Cao Bằng thực lục của tác giả
Bế Hựu Cung viết năm Gia Long thứ 9 (1810) do Cao
Huy Giu dịch. Bế Hữu Cung (1757 - 1820) quê ở xã
Bắc Khê, tổng Xuất Tính, châu Thạch Lâm, trấn Cao
Bằng (nay thuộc xã Canh Tân, huyện Thạch An, tỉnh
Cao Bằng). Ông là người học rộng, biết nhiều, từng
được bổ nhiệm là Hữu thiêm đô ngự sử, lãnh chức
Tổng trấn Cao Bằng. Cao Bằng thực lục ghi chép tỉ mỉ
về núi sông, truyền thuyết dân gian, các thần tích,
phong tục tập quán, cung cấp nhiều tư liệu lịch sử địa
phương từ thời cổ đến đầu triều Nguyễn. Trong đó, tác


giả giới thiệu về thành Nà Lữ, về việc vua Lê Thái Tổ
lên dẹp Bế Khắc Thiệu và cho xây dựng sinh từ của
mình ở đó.
Cuốn thứ hai là Cao Bằng tạp chí của Bế
Huỳnh. Bế Huỳnh (1857 - 1930) quê ở xã Tĩnh Oa,
tổng Tĩnh Oa, châu Thạch Lâm (nay là xã Dân Chủ,
Hòa An, Cao Bằng). Ông là người có tư chất thông
minh, học rộng, được bổ làm Huấn đạo Trùng Khánh
phủ, sau là Tri châu Hà Quảng. Ông để tâm sưu tầm
nghiên cứu về lịch sử, văn hóa địa phương và viết Cao
Bằng tạp chí vào năm 1921, gồm 3 tập. Nhật tập (tập
1) có 6 chương viết về địa danh, sông núi, hang động,
nguồn gốc sắc tộc và phong tục. Nguyệt tập (tập 2)
gồm 3 chương viết về chiến tranh xảy ra ở Cao Bằng
từ cổ cho đến khi Pháp bảo hộ. Tinh tập (tập 3) gồm 6
chương viết về thần từ cổ tích (nói về các đền miếu), dị
đoan lục (chuyện mê tín dị đoan), nhân vật lục (các

danh nhân địa phương), kỹ nghệ thổ sản và chỉ dẫn về
phương pháp giải độc. Qua bộ sách này, Bế Huỳnh nêu
lên một số vấn đề liên quan đến Nà Lữ như việc cát cứ
của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao; việc Lê Thái Tổ
đem quân lên đánh Bế Khắc Thiệu ở Nà Lữ; chiến


tranh giữa nhà Mạc với Lê – Trịnh…, hiện tượng
“Kinh già hóa Thổ”, phong tục tập quán… nhưng rất
sơ lược.
Thứ ba là cuốn Cao Bằng thủ hiến liệt phương
danh của Mông Tô Trần sao lục năm 1955. Đây là
cuốn sách tác giả sưu tầm được khi đi điền dã tại Cao
Bằng, do ông Mông Văn Bút (con trai của ông Mông
Tô Trần) ở xã Phong Châu, huyện Trùng Khánh, tỉnh
Cao Bằng cung cấp. Hiện nay, bản gốc của cuốn sách
này đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cao Bằng. Cao
Bằng thủ hiến liệt phương danh vừa là sự sao chép một
số cuốn sách của các nhà nghiên cứu trước như Cao
Bằng tạp chí, Cao Bằng Tam trung sự tích biên chí, …
vừa là kết quả nghiên cứu của tác giả Mông Tô Trần.
Tác phẩm gồm 49 đầu mục, 72 tờ chữ Hán Nôm đã
cung cấp cho người đọc những hiểu biết cơ bản về diên
cách, điều kiện tự nhiên, dân cư, phong tục tập quán,
thần từ cổ tích, phương pháp chữa bệnh, … ở Cao Bằng,
đặc biệt là các chức quan của huyện Thượng Lang, phủ
Trùng Khánh và các chức quan đứng đầu tỉnh Cao Bằng
trong giai đoạn 1885 -1943. Tác phẩm đã cung cấp cho
chúng ta một vài tư liệu mới về thành cổ Nà Lữ và Đền



Vua Lê như chỉ rõ rằng sau khi Lê Thái Tổ đánh thắng
Bế Khắc Thiệu đã để lại một tấm áo bào và một thanh
kiếm sắc để nhân dân thờ phụng. Sau này, khi tiêu diệt
quân Mạc, vua Lê Hy Tông lại ban áo bào và kiếm báu
để thờ như cũ, đồng thời cho thờ Lê Tuân, Lê Tải trong
đền... Từ những chi tiết như thế, chúng ta có được những
hiểu biết rõ ràng hơn về vùng đất Nà Lữ trong lịch sử.
Thứ tư là tập kỷ yếu hội thảo Văn hóa dân gian
Cao Bằng do Hội văn nghệ Cao Bằng xuất bản năm
1993. Đây là một cuộc hội thảo có sự góp mặt của rất
nhiều nhà văn hóa dân gian nổi tiếng như GS. Tô Ngọc
Thanh, PGS. Vũ Ngọc Khánh, GS. Trần Quốc
Vượng,… Các tham luận đã cung cấp cho người đọc
những hiểu biết cơ bản về Folklore Cao Bằng. Đặc
biệt, báo cáo Cao Bằng dưới cái nhìn dân gian về sự
giao hòa văn hóa Tày – Việt của GS Trần Quốc Vượng
đã đề cập đến vấn đề giao thoa văn hóa giữa người Tày
và người Việt mà Nà Lữ là một điển hình.
Thứ năm là cuốn Địa chí Cao Bằng được xuất
bản năm 2000, đề cập đến các vấn đề lịch sử, chính trị,
kinh tế, xã hội Cao Bằng từ nguyên thủy cho đến
những năm 90 của thế kỷ XX. Song những nghiên cứu


về Nà Lữ rất hạn chế, nhất là vào thế kỷ XVII – XIX,
chủ yếu đề cập đến di tích lịch sử đền Vua Lê và thành
Nà Lữ.
Thứ sáu là Luận văn Thạc sĩ Văn hóa dân tộc Tày
ở huyện Hòa An (Cao Bằng) của tác giả Lô Việt

Thắng. Tác giả là người ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung,
huyện Hòa An. Luận văn được hoàn thành năm 2006,
đề cập đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
cư dân Hòa An cũng như Nà Lữ nhưng tiếc rằng, tác
giả chưa chỉ ra những yếu tố truyền thống, sự biến đổi
của nó và đặc biệt là sự giao thoa văn hóa Tày Việt ở
khu vực nghiên cứu.
Cuối cùng là cuốn Địa chí các xã huyện Hòa An
xuất bản năm 2008, trong đó có phần viết về xã Hoàng
Tung (tức là xã Nà Lữ xưa), đề cập đến vị trí địa lý
hành chính, kinh tế, văn hóa - xã hội nhưng chủ yếu là
những vấn đề từ đầu thế kỷ XX đến năm 2007.
Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu về Nà Lữ (Hòa An, Cao Bằng) từ thế kỷ IX
đến giữa thế kỷ XIX. Hầu hết các tác phẩm nêu trên
chỉ đề cập đến thời điểm xây dựng và một vài sự kiện
lịch sử liên quan đến thành Nà Lữ và đền Vua Lê.


Nhiều vấn đề như chế độ sở hữu ruộng đất, tình hình
kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa của cư dân
phường Nà Lữ cùng những biến động lịch sử trong
khoảng thời gian đã giới hạn chưa được làm sáng tỏ.
Mặc nhiên, thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước
không chỉ dẫn dắt chúng tôi đến với Nà Lữ, mà còn gợi
mở nhiều ý kiến quý báu cho chúng tôi tiếp tục đi sâu
tìm hiểu về vùng đất này trong giai đoạn từ thế kỷ IX
đến giữa thế kỷ XIX.
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi và nội dung
nghiên cứu

Chọn đề tài “Nà Lữ (Hòa An, Cao Bằng) từ thế
kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX”, chúng tôi mong muốn
dựng lại một cách chân thực lịch sử Nà Lữ, qua đó có
thể bổ sung nguồn tư liệu, góp phần lý giải một số vấn
đề lịch sử Việt Nam thời phong kiến như vấn đề Nùng
Trí Cao, Bế Khắc Thiệu, vấn đề nhà Mạc ở Cao Bằng;
chiến tranh Trịnh – Mạc giai đoạn 1592 – 1677; vấn đề
giao thoa văn hóa xuôi ngược và hiện tượng “Kinh già
hóa Thổ”. Đó là những vấn đề lâu nay các nhà nghiên
cứu chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu.


Đề tài của chúng tôi tập trung nghiên cứu về Nà
Lữ với tư cách là một xã, đóng vai trò là trung tâm
chính trị, quân sự của Cao Bằng trong giai đoạn lịch sử
từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX. Trong giai đoạn đó,
Nà Lữ không ngừng được mở rộng, ban đầu là một
làng, sau đó được phân tách thành nhiều làng, xóm
khác nhau. Do hạn chế về nguồn tư liệu, chúng tôi
không thể khảo sát một cách đầy đủ về quá trình thay
đổi diên cách của Nà Lữ mà chỉ xác định lãnh thổ của
phường Nà Lữ vào nửa đầu thế kỷ XIX thông qua tư
liệu địa danh, địa chí, địa bạ. Do đó, luận văn tập trung
nghiên cứu Nà Lữ theo lãnh thổ đã xác định được, bao
gồm các xóm Làng Đền, Nà Lữ, Bản Giài, Nà Riềm,
Khau Luông, Bó Lếch, Bản Chạp, Bến Đò, Kế Nông
thuộc xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng
hiện nay, trong đó, Nà Lữ được coi là làng gốc. Các
làng, xóm còn lại của Hoàng Tung chỉ được nghiên
cứu ở mức độ cần thiết để đối sánh và bổ sung cho khu

vực chính.
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về vị trí địa lý
và điều kiện tự nhiên và xã hội của Nà Lữ, quá trình
lịch sử của vùng đất này cũng như đời sống kinh tế và


xã hội của cư dân Nà Lữ trong giai đoạn từ thế kỷ IX
đến giữa thế kỷ XIX. Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn
tư liệu, nên chúng tôi chưa thể khôi phục diện mạo Nà
Lữ một cách đầy đủ, nhất là giai đoạn trước thế kỷ
XVII. Vì thế, khi nghiên cứu về đời sống kinh tế và
văn hóa, chúng tôi chỉ tập trung vào giai đoạn tồn tại
của phường Nà Lữ từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ
XIX.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Nghiên cứu về một địa phương cụ thể nên chúng
tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu,
nhất là một địa phương ở xa trung tâm đất nước như
Nà Lữ. Một vài sự kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa của
Nà Lữ đã được nhắc đến trong các bộ sử thời phong
kiến như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Việt
thông sử, Lịch triều tạp kỷ… Các bộ sử và ghi chép
của các học giả Việt Nam đương đại đã cung cấp cho
chúng tôi những nét khái quát về bối cảnh kinh tế, xã
hội, làm cơ sở cho việc đi sâu khảo sát về Nà Lữ.


Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi nhận

thấy các sách địa lý lịch sử như: Dư địa chí (Nguyễn
Trãi), Đại Nam thống nhất chí, Đồng Khánh dư địa
chí, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (Lê Quang
Định), Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy
Chú)… hay các sách viết về Cao Bằng như: Cao Bằng
thực lục (Bế Hựu Cung), Cao Bằng tạp chí (Bế
Huỳnh), Cao Bằng sự tích (Nguyễn Đức Nhã), Cao
Bằng thành hãm sử ký (Nguyễn Đình Tông), Cao Bằng
ký lược (Phạm An Phủ) … cũng cung cấp cho chúng
tôi những tư liệu cụ thể về tình hình chính trị, xã hội,
văn hóa ở địa phương có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến Nà Lữ. Tuy nhiên, tài liệu về Nà Lữ do những
cuốn sách trên mang đến rất sơ lược.
Kết hợp với các nguồn tài liệu trên, tư liệu địa bạ
của phường Nà Lữ và 11 địa bạ khác thuộc tổng Hà
Đàm được lập vào năm Gia Long 4 (1805) và Minh
Mệnh 21 (1840) cũng được chúng tôi khai thác triệt để
nhằm tìm hiểu rõ hơn về tình hình sở hữu ruộng đất
của địa phương nửa đầu thế kỷ XIX.
Sau khi thực dân Pháp chiếm nước ta, nguồn tư
liệu ghi chép về Cao Bằng của các viên quan đô hộ và


các học giả người Pháp tăng lên nhiều, tiêu biểu nhất là
cuốn La haute région du Tonkin et officier colonial:
Cercle de Cao Bang (Vùng cao Bắc kỳ và viên chức
thuộc địa: hạt Cao Bằng) của Paul Marabail. Cuốn
sách khảo khá kỹ về Cao Bằng với nhiều lĩnh vực như
kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của các tộc người
… Điều đó ít nhiều đã cung cấp những hiểu biết cơ bản

về yếu tố kinh tế, văn hóa truyền thống của Cao Bằng
nói chung và Nà Lữ nói riêng.
Mặc dù chúng tôi đã cố gắng khai thác triệt để các
tài liệu thư tịch nhưng vẫn chưa đủ để nhận thức toàn
diện về Nà Lữ. Để khắc phục khó khăn đó, chúng tôi
tiến hành thu thập tư liệu từ điều tra thực địa tại Nà Lữ
và các vùng lân cận. Kết quả, nguồn tài liệu thu được
rất phong phú, góp phần quan trọng trong việc hoàn
thành đề tài nghiên cứu này. Chúng tôi tạm thời chia
thành ba loại như sau:
- Nguồn tài liệu thư tịch sưu tầm được gồm văn
bia, câu đối đền Vua Lê, gia phả các dòng họ, quy định
của các hội hữu ước trong làng xã, sách Then …
Những tài liệu này phản ánh cụ thể tình hình kinh tế,


tín ngưỡng, phong tục tập quán… của cư dân địa
phương.
- Nguồn tài liệu vật chất: Bao gồm các di tích như
thành Nà Lữ, đền Vua Lê, gạch ngói nhà Mạc, đạn đá
thời nhà Mạc, nhà cửa, các công cụ sản xuất, … Đây là
những chứng tích vật chất còn lại giúp chúng ta nhận
thức đúng đắn hơn về Nà Lữ trong quá khứ.
- Nguồn tài liệu truyền miệng: Bao gồm các
truyền thuyết dân gian, ca dao, tục ngữ, hát ru, đồng
dao, các cách giải thích địa danh của Nà Lữ … Những
tư liệu này tuy mang tính ước lệ, thiếu độ chính xác
nhưng nếu biết so sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu
khác một cách nghiêm túc thì nó lại cung cấp cho
chúng ta nhiều thông tin bổ ích để nghiên cứu về Nà

Lữ.
Nguồn tư liệu khảo sát thực địa sau khi được xử
lý theo phương pháp khoa học là nguồn tài quan trọng
bổ sung cho tài liệu thư tịch, giúp chúng tôi bước đầu
khôi phục diện mạo của Nà Lữ trong lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, trước hết chúng tôi chú ý
khai thác tài liệu thư tịch, kể cả những tài liệu của nhà


nước phong kiến và tư nhân còn được lưu giữ đến ngày
nay. Nhưng không phải lúc nào nguồn tư liệu gốc cũng
có sẵn. Để khắc phục sự khuyết thiếu đó, chúng tôi sử
dụng phương pháp hồi cố, lấy kết quả từ quá trình điều
tra thực địa với mong muốn khôi phục diện mạo Nà Lữ
trong giai đoạn từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ XIX.
Ngoài phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp
lôgic, tác giả còn sử dụng phương pháp liên ngành như
văn hóa học, văn hóa dân gian, nhân học, địa lý học …
để nghiên cứu Nà Lữ một cách tổng thể, mang tính
toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa. Đồng thời, phương pháp định tính và định
lượng cũng được tác giả sử dụng để phân tích, xử lý
địa bạ, kết hợp với phương pháp thống kê, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu với các nguồn tư liệu khác, các địa
phương khác để làm nổi bật những luận điểm khoa học
đưa ra.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về Nà
Lữ (Hòa An, Cao Bằng) trong giai đoạn từ thế kỷ IX

đến giữa thế kỷ XIX. Dựa trên nguồn tư liệu khai thác
được, luận văn bước đầu khôi phục một cách có hệ


thống về lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa cũng như
những biến động về dân cư của vùng đất này trong lịch
sử.
Kinh đô nhà Mạc cũng như hệ thống quân sự,
chính sách tích cực phát triển kinh tế, xã hội của vương
triều Mạc ở Nà Lữ nói riêng và Cao Bằng nói chung
được chúng tôi bước đầu tái hiện. Đồng thời, chúng tôi
cũng cung cấp những hiểu biết cơ bản về cuộc chiến
tranh Trịnh – Mạc diễn ra ở Cao Bằng, trong đó, Nà
Lữ là một trong những chiến trường ác liệt nhất.
Lần đầu tiên tài liệu địa bạ phường Nà Lữ lập vào
đầu triều Nguyễn được đưa ra phân tích, từ đó cho
thấy, ruộng đất tư hữu ở Nà Lữ đã chiếm ưu thế hoàn
toàn (gần 100%). Đây là kết quả của sự biến động về
chính trị, dân cư và định chế khai hoang của các triều
đại phong kiến. Sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Nà Lữ
trong giai đoạn đầu thế kỷ XVII đã góp phần phá vỡ
quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội truyền thống.
Luận văn đã bước đầu công bố nguồn tư liệu về
các dòng họ Tày gốc Kinh ở Nà Lữ và một số địa
phương lân cận trong vùng Hòa An, góp phần làm sáng
tỏ hiện tượng “Kinh già hóa Thổ”. Đồng thời, dựa trên


nguồn tư liệu điền dã, tác giả đã chứng minh Nà Lữ là
một trong những vùng giao thoa văn hóa Tày – Việt

đặc trưng và điển hình nhất.
Luận văn được hoàn thành sẽ trở thành nguồn tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về Cao Bằng
và sinh viên khi học bộ môn Lịch sử địa phương, Nhân
học, Văn hóa học…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết kuận, luận văn được chia
thành 4 chương:
- Chương 1: Nà Lữ: Mấy nét khái quát về vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội. Chương này tập
trung làm rõ duyên cách và vị trí địa lý phường Nà Lữ
cũng như nguồn gốc dân cư và quá trình tộc người diễn
ra ở đây trong giai đoạn từ thế kỷ IX đến giữa thế kỷ
XIX.
- Chương 2: Quá trình lịch sử. Chương này làm
rõ lịch sử Nà Lữ từ thời nguyên thủy cho đến giữa thế
kỷ XIX, nhằm cung cấp những hiểu biết cơ bản về
những biến động chính trị, xã hội đã xảy ra ở vùng đất
này.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1.Đào Duy Anh (1996), Đất nước Việt Nam qua các
đời, Nxb Thuận Hoá, Huế.
2. Nguyễn Thị Mai Anh (2008), Huyện Phú Lương
(Thái Nguyên) nửa đầu thế kỷ XIX, Đề tài
NCKH, trường ĐHSP Thái Nguyên.
3. Triều Ân (1994), Ca dao Tày Nùng, Nxb Văn hoá
Dân tộc, Hà Nội.

4. Triều Ân (2005), Văn học chữ Hán dân tộc Tày,
Nxb Văn học, HN.
5. Đỗ Bang (chủ biên-1997), Tổ chức bộ máy nhà nước
triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
6. Ban Khoa học tỉnh Cao Bằng (1971), Đặc điểm khí
hậu Cao Bằng, tài liệu lưu hành nội bộ.
7. Ban Liên lạc họ Mạc (2007), Hợp biên thế phả họ
Mạc, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
8. Bảo tàng Cao Bằng (1994), Lý lịch di tích Đền vua Lê,
xã Hoàng Tung (Hòa An).
9. Bảo tàng Cao Bằng (2006), Lý lịch di tích thành Nà
Lữ.
10. Bảo tàng Cao Bằng (2002), “Những phát hiện về
khảo cổ học Cao Bằng năm 2001”, Những phát


hiện mới về Khảo cổ học năm 2001, Viện KCH,
H.
11. Bia Đền Vua Lê, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng.
12. Hoàng Thị Cành (1995), Đồng dao Tày, Nxb Văn
hóa Dân tộc, H.
13. Câu đối Cao Bằng, tài liệu Thư viện tỉnh Cao
Bằng.
14. Nông Minh Châu, Vi Quốc Bảo (1973), Dân ca đám
cưới Tày Nùng, Nxb Việt Bắc.
15. Phan Huy Chú (1997), Hoàng Việt địa dư chí, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
16. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại

chí, tập I, Nxb GD, H.
17. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại
chí, tập II, Nxb GD, H.
18. Trình Năng Chung, Đào Quý Cảnh (2004), Báo
cáo Khảo cổ học Cao Bằng năm 2003, tài liệu
Viện Khảo cổ học, H.
19. Trình Năng Chung, Đào Quý Cảnh (2006), Báo
cáo Khảo cổ học Cao Bằng năm 2005, tài liệu
Viện Khảo cổ học, H.


20. Trình Năng Chung (2002), “Bia ma nhai “Câu bi
thủy kí” ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng”,
Thông báo Hán Nôm học năm 2001, tr.60-65
21. Trình Năng Chung, Lê Hải Đăng (2004), Phát hiện
di tích đá cũ ở thềm sông Gâm, tỉnh Cao Bằng,
trong “Những phát hiện mới về Khảo cổ học
năm 2003”, Viện Khảo cổ, H.
22. Nguyễn Hữu Cung (1810), Cao Bằng thực lục, Bản
dịch tại Viện Sử học.
23. Nguyễn Hữu Cung (1810), Cao Bằng thực lục, bản
dịch tại Thư viện tỉnh Cao Bằng.
24. Đại Nam nhất thống chí Cao Bằng tỉnh (1967),
dịch giả Đông Minh - Đặng Chu Kình, Nha
Văn Hoá, Bộ Văn hoá Giáo dục xuất bản.
25. Đại việt sử ký tiền biên (1997), Nxb KHXH, H.
26. Lê Quang Định (2005), Hoàng Việt nhất thống dư
địa chí, Nxb Thuận Hóa, Huế.
27. Lê Quý Đôn (2006), Đại Việt thông sử, Nxb Văn
hóa Thông tin, H.

28. Lê Quý Đôn (2006), Vân đài loại ngữ, Nxb Văn
hoá Thông tin, H.
29. Đường tộc Nông Văn Vân, do ông Nguyễn Thiên Tứ
ở Hưng Đạo, Hòa An cung cấp


30. Gia phả họ Bế Nguyễn, do Bế Viết Thức, Bế Xuân
Trường, phố Cao Bình, xã Hưng Đạo, huyện
Hòa An cung cấp.
31. Gia phả họ Lê, do ông Lê Duy Kế ở Nà Giưởng
(Hồng Việt - Hòa An) cung cấp.
32. Hoàng đường tộc phả, do ông Hoàng Triều Ân ở
Lam Sơn, xã Hồng Việt, huyện Hòa An cung
cấp
33. Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt- Lịch sử
ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nxb KHXH,
H.
34. Hội văn nghệ Cao Bằng (1993), Văn hoá dân gian
Cao Bằng.
35. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu
văn hoá Việt Nam, tập 1, Nxb KHXH, H.
36. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nhất tập, Tư liệu Viện
dân tộc học, KH: TLD.271
37. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nhất tập, Tư liệu Thư
viện tỉnh Cao Bằng.
38. Bế Huỳnh, Cao Bằng tạp chí nguyệt tập, Tư liệu
Thư viện tỉnh Cao Bằng
39. Nông Quốc Huy (2008), Huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc
Kạn thế kỷ XIX, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại
học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên.



40. Vũ Thị Minh Hương, Nguyễn Văn Nguyên,
Philippe Papin (1999), Địa danh và tài liệu lưu
trữ về làng xã Bắc Kỳ, Viện Viễn Đông Bác cổ,
H.
41. Lam Sơn thực lục (bản mới phát hiện), Nguyễn
Diên Niên khảo chứng, Lê Văn Uông chú dịch,
Ty văn hóa Thanh Hóa, 1976.
42. Ngô Cao Lãng (1975), Lịch triều tạp kỷ, tập 1, Nxb
KHXH, H.
43. Ngô Cao Lãng (1975), Lịch triều tạp kỷ, tập 2, Nxb
KHXH, H.
44. Nguyễn Thị Lâm (2005), “Đốc trấn Đinh Nho
Hoàn và mười bài thơ vịnh cảnh đẹp Cao
Bằng”, Thông báo Hán Nôm học năm 2004,
tr.296-304.
45. Phan Huy Lê - Nguyễn Phan Quang (1979), “Các
dân tộc miền núi phía Bắc trong cuộc đấu tranh
bảo vệ biên cương của Tổ quốc ở thế kỷ XVII
– XVIII”, Tạp chí Dân tộc học, số 4.
46. Phan Huy Lê - Nguyễn Phan Quang (1980), “Các
dân tộc miền núi phía Bắc trong cuộc đấu tranh
bảo vệ biên cương của Tổ quốc ở thế kỷ XVII
– XVIII”, Tạp chí Dân tộc học, số 1.


47. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên,
Đinh Xuân Lâm (1960), Lịch sử chế độ phong
kiến Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, H.

48. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan
Phương Thảo (1995), Địa bạ Hà Đông, Nxb
KHXH, H.
49. Phan Huy Lê, Nguyễn Đức Nghinh, Vũ Minh
Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo
(1996), Địa bạ Thái Bình, Nxb Thế giới, H.
50. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập I,
Nxb KHXH, H.
51. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập II,
Nxb KHXH, H.
52. Ngô Sĩ Liên (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập
III, Nxb KHXH, H.
53. Lã Văn Lô (1963), “Xung quanh vấn đề Thục Phán
An Dương Vương hay là truyền thuyết "Cẩu
chúa cheng vùa" của đồng bào Tày”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 50, tr.48 – 57.
54. Lã Văn Lô (1963), “Xung quanh vấn đề Thục Phán
An Dương Vương hay là truyền thuyết "Cẩu
chúa cheng vùa" của đồng bào Tày”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, số 51, tr.58 - 62.


55. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược
giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở
Việt Nam, Nxb KHXH, H.
56. Lã Văn Lô, Lê Bình (1965), “Lịch sử nguyên thuỷ
của người Tày qua truyền thuyết "Pú Lương
quân”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 65, tr.5763.
57. Lã Văn Lô, Bảy dòng họ thổ Ty Lạng Sơn, tài liệu
Viện Dân tộc học.

58. Cung Văn Lược (1996), “Vài đặc điểm của Then
nhìn từ góc độ văn bản nôm Tày – Nùng”,
Thông báo Hán Nôm học năm 1995, tr.177 191.
59. Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc (2000), Hội
Sử học Hải Phòng xuất bản
60. Mấy vấn đề then Việt Bắc (1978), Nxb Văn Hoá,
H.
61. Morita Kentaro (2008), “Tình hình Quảng Châu
sau cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao”, Kỷ yếu
Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3, tiểu ban 1.
62. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Văn Quân (Cb-2007),
Địa chí Cổ Loa, Nxb Hà Nội.
63. Nguyễn Đức Nhã, Sự tích tỉnh Cao Bằng, tài liệu
Viện Sử học.


×