Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Quan niệm về con người trong triết học hiện sinh của albert camus (Tóm tắt, trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.96 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ LAN

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ LAN

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Điểu

Chủ tịch hội đồng

Ngƣời hƣớng dẫn

PGS.TS Nguyễn Vũ Hảo



Hà Nội – 2016

TS. Trần Thị Điểu


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Triết học: “Quan niệm về con người
trong triết học hiện sinh của Albert Camus” là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi.

Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn

Dương Thị Lan


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa - người đã tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
những người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập, nghiên cứu tại trường.
Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và
hoàn thành luận văn Thạc sĩ.


Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn

Dương Thị Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................2
Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI
TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS ............................14
1.1. Những điều kiện và tiền đề lý luận ra đời quan niệm về con ngƣời trong
triết học hiện sinh của Albert Camus ....................................................................14

1.1.1. Điều kiện kinh tế và xã hội .................................................................... 14
1.1.2. Tiền đề lý luận ....................................................................................... 20
1.2. Giới thiệu về Albert Camus – cuộc đời và các tác phẩm tiêu biểu.... 34
1.2.1. Giới thiệu chung về Albert Camus ........................................................ 34
1.2.2. Các tác phẩm tiêu biểu của Albert Camus ............................................ 37
Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG
TRIẾT HỌC HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS...............................................44

2.1. Quan niệm về con ngƣời tồn tại trong phi lý của Albert Camus ...... 44
2.1.1. Vấn đề phi lý.......................................................................................... 44
2.1.2. Sự tồn tại phi lý và nhận thức phi lý ..................................................... 48
2.2. Quan niệm về con ngƣời nổi loạn của Albert Camus ......................... 61
2.2.1. Vấn đề nổi loạn ..................................................................................... 61
2.2.2. Hình thức nổi loạn ................................................................................ 67
2.3. Một số đánh giá quan niệm về con ngƣời trong triết học hiện sinh của
Albert Camus .................................................................................................. 70

2.3.1. Về mặt giá trị ...................................................................................................71
2.3.2. Về mặt hạn chế ................................................................................................75
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................82

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Triết học hiện sinh không theo đuổi việc tìm những nguyên nhân cao
nhất của vạn vật nữa, không bàn về những lẽ huyền vi của tạo hóa, mà chỉ chú
trọng đến thân phận con người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết.
Không có gì tha thiết với con người bằng chính con người, những con người
sinh hoạt trong xã hội loài người. Triết học hiện sinh là triết học về ý nghĩa
cuộc nhân sinh, nói cách khác là triết học về con người, là triết học dạy ta suy
nghĩ về thân phận con người, vạch ra vẻ buồn nôn của con người tầm thường,
nhằm thức tỉnh con người trỗi dậy, bỏ cách sống của sự vật để khai mạc cho một
đời sống nhân vị, nhân vị cao cả của con người tự do. Theo các nhà hiện sinh,
tồn tại người không thể tiếp cận bằng con đường duy lý và các phương tiện của
lý tính. Nền tảng của tồn tại người là hiện sinh với tính cách là một thái độ sống
độc đáo, có một không hai, và hiện sinh chỉ có ở con người. Người hiện sinh
không chấp nhận sống theo một khuôn mẫu định sẵn, mà đòi hỏi phải vượt qua
nó để kiến tạo nên chính bản thân mình, khẳng định bản sắc đặc trưng và tính
độc đáo của mình.
Hiện thực bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường ngày nay đã tác
động đến con người theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, khi xã
hội hóa diễn ra mạnh mẽ, khi quá trình công nghiệp hóa đang trên đà phát triển
cực thịnh thì sự tác động ảnh hưởng lên mỗi con người càng rõ rệt hơn. Bên
cạnh việc thúc đẩy tạo nên một lớp người năng động, tích cực và sáng tạo, phù

hợp với xu thế phát triển của xã hội mới thì cũng xuất hiện một bộ phận người
thích sống hưởng thụ, thụ động, ỷ lại, sống theo kiểu nước chảy bèo trôi, anh
sống sao thì tôi sống vậy, không có chính kiến, không có lý tưởng sống cho
riêng mình. Xã hội hiện đại, chúng ta đã phải đối mặt không ít nguy cơ trong
đó có nguy cơ phai nhạt bản chất dân tộc của một bộ phận dân cư, đặc biệt là
2


lớp trẻ dễ đánh mất bản thân mình, đánh mất năng lực cá nhân mà nguy hiểm
hơn là đánh mất nhân cách của mình. Bài học kinh nghiệm của chủ nghĩa hiện
sinh đã chỉ rõ nếu con người chỉ chạy theo giá trị vật chất, quá tin đến mức
giao phó cuộc đời của mình cho những tiến bộ của công nghệ kỹ thuật thì sớm
muộn sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng tha hóa, con người bị phụ thuộc vào
chính những lực lượng mà con người sáng tạo ra. Con người trong chúng ta sẽ
không có bản sắc riêng.
Khai thác tính độc đáo và bản sắc riêng mỗi con người là tinh thần
chung của triết học hiện sinh. Trong đó, quan niệm về con người nổi loạn của
Albert Camus là sự khác biệt mang dấu ấn cá nhân trong tinh thần chung đó.
Nổi loạn là tư tưởng rất đáng tìm hiểu để thấu hiểu sâu sắc hơn và tìm thấy
giải pháp cho đời sống nội tâm, tinh thần con người thời hiện đại. Tuy nhiên
việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này tại Việt Nam dưới góc độ triết học
chưa được rộng rãi.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quan niệm về con
ngƣời trong triết học hiện sinh của Albert Camus” làm đề tài luận văn
chuyên ngành triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Albert Camus là một nhà văn lớn có sức ảnh hưởng sâu rộng những năm
của thế kỷ XX, sáng tạo văn học và triết học của Camus đã được nghiên cứu
rộng rãi. Quan niệm về con người phi lý và con người nổi loạn của Albert
Camus đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu trên thế giới, nhưng do hạn chế

về ngoại ngữ, tác giả của luận văn chỉ khảo cứu một số tác phẩm tiêu biểu
được dịch sang Tiếng Việt. Ở đây, tác giả chỉ xin trình bày khái quát những
tư liệu sau:

3


Trên thế giới.
Đầu tiên, ngay sau khi tiểu thuyết Người xa lạ và tập tiểu luận Huyền
thoại Sisyphe được công bố (tháng 6 - 1942), Jean - Paul Sartre đã viết Cắt
nghĩa “Người xa lạ” đăng trên tạp chí Cahier du Sud tháng 3 - 1943. Bài viết
có những nhận xét tinh tế, sâu sắc, cho đến nay vẫn được đánh giá là bài viết
hay nhất về Người xa lạ, và có thể xem ý kiến của Sartre như một sự gợi dẫn
khi tìm hiểu tác phẩm này. Qua bài viết của Sartre, chúng ta biết Người xa lạ
được dư luận đương thời đánh giá là “cuốn sách hay nhất kể từ thời đình
chiến” [35; 188]. Sartre nhận định cái phi lý vừa là một tình trạng sự vật, vừa
là ý thức sáng suốt của một số người trong tình trạng đó; “Nó không phải là
đối tượng của một khái niệm đơn giản, nó được chiếu sáng bởi một sự bừng
tỉnh đầy luyến tiếc” [35; 190]. Camus không thể hiện cái nhìn khắc khoải như
Kafka, “ông hoàn toàn bình thản giữa những hỗn độn, sự mù quáng bướng
bỉnh của tự nhiên là chỗ dựa cho nó, bảo đảm cho nó, sự bất hợp lý của nó chỉ
là một nghịch âm; người phi lý là người yêu một cái gì mang giá trị nhân bản,
anh ta chỉ biết những điều tốt đẹp của thế giới này” [35; 198]. Người xa lạ đặt
chúng ta trong trạng thái bất an trước sự phi nhân tính của con người. Theo
Sartre, Người xa lạ là một tác phẩm cổ điển, một tác phẩm viết cho sự phi lý
và chống lại sự phi lý. “Khi đọc cuốn sách, người ta không có cảm giác cùng
hiện hữu với cuốn tiểu thuyết mà như chìm trong một điệu hát buồn tẻ, một
khúc hát bằng giọng mũi của người Ả Rập. Người ta có thể tin rằng cuốn sách
giống như một trong những điệu nhạc mà Courteline nói đến, nó đi mất và
không bao giờ trở lại và nó dừng lại bất thình lình mà người ta không hiểu tại

sao” [35; 206].
Alain Robbe - Grillet, thủ lĩnh nhóm Tiểu thuyết Mới những năm 60
của thế kỉ XX ở Pháp, đánh giá rất cao cuốn Người xa lạ, coi đó là một tác
phẩm lớn, bởi vì trong cuốn sách đó Camus đã tạo nên một thế giới mà ông

4


hoàn toàn tin [70; 90]. Nói về cái phi lý trong tác phẩm của A. Camus, Robbe
- Grillet khẳng định: “Sự phi lý là vực thẳm không vượt qua được tồn tại giữa
con người và thế giới, giữa các khát vọng của tinh thần con người và sự bất
lực của thế giới trong việc thỏa mãn chúng. Cái phi lý không ở trong con
người, cũng như trong các sự vật mà ở trong việc không có khả năng thiết lập
giữa chúng một mối quan hệ nào khác ngoài cái xa lạ” [70; 94-95]. Robbe Grillet nhận thấy cái phi lý “luôn kéo theo thất vọng, sự rút lui, sự nổi loạn” và nó
chính là “hình thức của chủ nghĩa nhân văn mang tính bi kịch” [70; 95- 96].
Trong tiểu luận Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỉ XX
1900- 1959 của R.M. Alberes. Tất nhiên Albert Camus đã được nhắc đến
nhiều khi nói về tâm trạng chung của con người trong giai đoạn 1942 - 1959.
R.M. Alberes nhậnxét: “Camus đã mô tả con người mất hướng trong một thế
giới hầu như không phải làm ra cho con người. Ông muốn đạp đổ những ảo
tưởng cổ kính tôn nghiêm đã quả quyết một cách sai lầm rằng đời sống trả lời
đúng ý muốn mà người ta có về cuộc đời. Người xa lạ là cuộc phiêu lưu của
một người cảm thấy rằng con người không thỏa hiệp được với đời sống, rằng
có sự hiểu lầm giữa con người và đời sống” [49; 329]. Cuộc sống không còn
mạch lạc, sáng sủa, cuộc đời vâng theo một mãnh lực phi lý rời rạc, lý trí con
người không thể thấu được sự không trật tự nằm ngoài mọi quy luật ấy.
Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu con người hiện sinh của Albert
Camus xuất hiện khá nhiều. Căn cứ vào bối cảnh lịch sử ảnh hưởng đến những
đánh giá về tư tưởng, tác giả luận văn khảo cứu tài liệu theo hai giai đoạn trước

năm 1986 và sau năm đổi mới 1986.
Trước hết, phải kể đến các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện
sinh và văn học hiện sinh ở miền Nam trước 1986 từ góc nhìn phê phán.

5


Bùi Ngọc Dung trong bài viết Albert Camus với nền văn chương triết
học (1963) đã khái quát “Camus không thuộc một trường phái hay một chủ
nghĩa nào, nhưng ông đề cập đến mọi khía cạnh của mọi vấn đề trong tiểu
thuyết và văn chương”. Với Camus, sự phi lý của nhân loại ngày nay mỗi lúc
một tăng thêm nhiều “chỉ vì con người quá đại lượng và quá chú trọng đến
những khoái lạc về thể xác”. Camus đã đặt vào các nhân vật của ông “một sứ
mạng để phổ biến triết học. Thân phận con người được ông đào sâu tỉ mỉ hơn
lúc nào hết, ông dùng triết học để giải đáp tâm hồn con người thời hậu chiến
vì họ chưa ra khỏi cơn thảm hoạ của chiến tranh. Ta phải công nhận ở Albert
Camus một điều như các nhà văn đồng thời với ông là dùng văn chương để
chở những triết thuyết: thân phận của con người trước vấn đề phi lý, vấn đề tự
tử, vấn đề nổi loạn” [2; 35-41].
Bùi Giáng, đã dịch rất nhiều các tác phẩm của Camus như Ngộ nhận,
Mùa hè sa mạc, Con người nổi loạn, các truyện ngắn in trong tập Sương Tỳ
Hải, các nhận định về Camus của ông chủ yếu nằm trong tập khảo luận và
phê bình Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại. Ông cho rằng, với câu trả lời
cho những câu hỏi không mới: Vũ trụ này, thế giới này là phi lý hay hữu lý?
Cuộc đời chúng ta giữa thế giới này có ý nghĩa gì không? Camus đã “vừa đi
sát với thời đại, vừa bắt tay với những triết gia của nhân loại đã xao xuyến đi
tìm ý nghĩa của vũ trụ và đời người. Không một trang văn nào của Camus
không mang nặng những ưu tư xao xuyến của một đời người, trải qua những
kinh nghiệm gì thì viết văn và bàn chuyện tư tưởng theo những kinh nghiệm
xương máu đó. “Camus là một triết gia chân chính và cương chính, vì thế

giữa ông và những triết gia nhà nghề có một hố thẳm, một bên sử dụng ngôn
từ tài tình du dương trong một hệ thống rành rẽ, logic, phân minh. Một bên
vừa ngập ngừng, vừa mâu thuẫn, cầu mong tìm ra giữa đau thương một niềm
vui” [12; 205].
6


Nguyễn Nam Châu với Tập Sứ mệnh văn nghệ (Đại học xuất bản), đã
bình luận tư tưởng của một số triết gia, nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến
thời đại. Trong đó bài viết về Camus có tựa “Albert Camus, con người công
phẫn”. Tác giả nhấn mạnh, thế hệ của Camus đã tuyệt đối từ chối hết mọi thứ
giá trị luân lý, tôn giáo, chính trị, xã hội, họ công phẫn với cái châu Âu đó,
như lời Camus nói: “Ác thần của châu Âu ngày nay mang danh các triết gia,
họ là Hegel, Marx, Nietzsche, v.v… chúng ta đang sống trong châu Âu của họ
Ông cho rằng: Công phẫn trước thời cuộc nhưng chính Camus cũng đi vào
ngõ bí: Một đằng nói rằng cuộc đời vô nghĩa và người ta được phép làm mọi
sự; một đằng bảo rằng con người đừng làm hại kẻ khác, phải thương hại nó,
tức kìm hãm tự do của mình. Nhưng ta sẽ nhân danh cái gì để thương xót con
người trong khi mà chính con người cũng chẳng có ý nghĩa gì hết. Mặc dù
niềm công phẫn của Camus là không lối thoát, nhưng dẫu sao Camus cũng
như Sartre đã thức tỉnh nhân loại trước một vấn đề căn bản, bắt họ phải thoát
ly ra ngoài cuộc sống hời hợt, vô tư, qua ngày đoạn tháng của họ, buộc mình
phải đi tìm một lẽ sống trước khi quyết định một thái độ sống.
Ở miền Bắc, trước 1986, sự tiếp xúc với những tác giả, tác phẩm lớn
không sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực rất hạn chế. Albert Camus cùng với
bậc tiền bối Franz Kafka và những nhà văn hiện sinh chủ nghĩa, những tác gia
kịch phi lý được giới thiệu trong những chuyên luận dùng cho các trường đại
học chủ yếu dưới góc nhìn cực đoan, đưa ra để phê phán và tránh xa. Tinh
thần ấy được thể hiện rõ nét trong công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ
nghĩa (1978), nhà xuất bản Văn học Hà Nội. Tác giả Đỗ Đức Hiểu, đã phê

phán triết học hiện sinh là một triết học thần bí, một triết học tinh thần hóa
con người và tự nhiên, tách con người khỏi thế giới vật chất khách quan, một
triết học của chủ thể duy tâm, coi sự vận động của bản thân ý thức là tất cả,
sáng tạo ra tất cả. Tác giả khái lược tư tưởng Camus: Khởi điểm của học
7


thuyết Camus là cái phi lý. Cái phi lý diễn tả mối quan hệ giữa con người và
xã hội. Nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất của chủ nghĩa hiện sinh của
Camus. Và “về cơ bản, nổi loạn Camus là nổi loạn siêu hình và vô nguyên
tắc”. Tuy nhiên Đỗ Đức Hiểu đã ghi nhận những đóng góp tích cực trong tác
phẩm của Camus, “nó đứng ở bên kia chủ nghĩa phát xít, nó không đồng tình
với bất công và tội ác, với chiến tranh phi nghĩa, với khủng bố dã man” [17;
119]. “Camus phản kháng bạo lực phi nghĩa mà ông gọi là lịch sử phi lý tính,
song đồng thời ông cũng cự tuyệt bạo lực chính nghĩa mà ông gọi là lịch sử lý
tính; và ông đánh giá ngang bằng hai thứ bạo lực ấy; sai lầm nghiêm trọng
của Camus là ở chỗ ấy. Ông tìm đến con đường ôn hoà, nhiều khi có nghĩa là
thoả hiệp với kẻ thù của loài người” [17; 119-120].
Từ sau năm 1986, trong những thập niên thế kỷ XIX - XX, cùng hòa
nhịp với bầu không khí đổi mới thì lập trường nghiên cứu của các học giả triết
học phương Tây hiện đại về triết học hiện sinh, con người hiện sinh có những
chuyển biến tích cực với những lời nhận định đánh giá cởi mở và toàn diện
hơn, thể hiện khá rõ nét trong các công trình sau:
Tác giả Nguyễn Hào Hải trong cuốn sách Một số học thuyết triết học
phương Tây hiện đại (2001), nhà xuất bản Văn hóa thông tin, đã trình bày một
cách súc tích và cô đọng nhất một số lý thuyết của triết học tư sản phương
Tây hiện đại. Khi trình bày học thuyết của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả nêu rõ
nguồn gốc của nó về 4 phương diện: Bản thể luận, nhận thức luận, hiện tượng
luận Husserl và chiến tranh. Tác giả cho rằng chiến tranh không phải là
nguyên nhân duy nhất mà là nguyên nhân chín muồi thúc đẩy sự ra đời của

chủ nghĩa hiện sinh một cách nhanh hơn. Còn khi nghiên cứu con người trong
triết học hiện sinh, tác giả đã trình bày rất rõ ràng nguyên lý tồn tại có trước
bản chất và thân phận con người theo quan điểm của Jaspers, Heidegger,
Camus và Sartre. Và rằng con người luôn phải sống trong tâm trạng lo âu,
8


kinh hoàng, cô đơn như kẻ bị bỏ rơi, luôn phải chịu nhiều mâu thuẫn trong
cuộc đời nên đời là vô lý, đáng “buồn nôn”.
Hai nhà nghiên cứu Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng đã viết cuốn
Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (2003), nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia Hà Nội. Tác giả không trình bày điều kiện xã hội cho sự ra đời của triết học
hiện sinh mà chỉ đưa ra tiền đề lý luận trên quan điểm của Socrate, thánh
Augustin, Pascal, Nietzsche và Husserl. Tuy nhiên các quan điểm trên không
có sự phân tích, đánh giá và khái quát sâu của tác giả. Về nội dung tác giả cũng
đưa đến người đọc một cái nhìn mới về các phạm trù buồn nôn, tha hóa, cô
đơn, lo âu, tự do. Phạm trù tự do là nền tảng để xem xét các phạm trù khác “cái
chết cũng là nguồn gốc của lo âu, lo âu có nguồn gốc ở tự do, lo âu là tâm tình
đầy đam mê mở ra sự sáng tạo”.
Trong công trình Văn học phương Tây (2005), chương do Hoàng Nhân
viết về Camus, đã cho một cái nhìn khái quát về con người và văn nghiệp A.
Camus. Camus đã “thể hiện nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người
trước bao nhiêu biến động và tai ương trong nửa đầu thế kỉ XX ở phương
Tây. Ông không bàn đến những vấn đề siêu hình phức tạp như thực tế và hư
vô, tồn tại và bản thể .v.v… mà chỉ nói về ý nghĩa của hiện sinh và thân phận
con người” [7; 737]. Hoàng Nhân cũng nói đến tư tưởng nhân văn ôn hoà,
thoả hiệp xuyên thấm trong các tác phẩm của A. Camus. Tư tưởng ấy khi gặp
gỡ với sự bế tắc trong đời sống thực tại với bao điều nghịch lý, “chắc chắn sẽ
không có tác dụng tích cực với các thế hệ đang trưởng thành của thời đại
chúng ta” [7; 759].

Gần đây, trong công trình Tiếp cận văn học Pháp (2007), Liễu Trương
một lần nữa đặc biệt chú ý đến sự phi lý trong tác phẩm Người xa lạ - tác
phẩm đánh dấu sự xuật hiện của A. Camus trên văn đàn Pháp. Bài viết của
Liễu Trương như một sự gợi nhắc lại ý muốn của A. Camus khi viết Người xa
9


lạ - tả “tính trần trụi của con người trước sự phi lý”. Phi lý là độ không của sự
dấn thân. Sự thật trong Người xa lạ cũng như trong Huyền thoại Sisyphe là
một sự thật tiêu cực, là một khởi đầu cần thiết cho sự dấn thân tích cực.
Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã xuất bản cuốn
sách Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế),
trong đó có rất nhiều bài viết về con người hiện sinh của các tác giả. Tác giả
Nguyễn Vũ Hảo với bài viết: “Tư tưởng triết học cơ bản của Martin
Heidegger và ảnh hưởng của nó đến các trào lưu triết học phương Tây thế kỷ
XX”. Tác giả định nghĩa hiện sinh là phương thức sống, thái độ sống của con
người với tư cách là tồn tại người, là cốt lõi bên trong của tồn tại người. Hiện
sinh và tồn tại người có trước bản chất. Hiện sinh tự lựa chọn và tự xác định
bản chất của con người. Hiện sinh chỉ ở con người chứ không ở các loài sinh
vật hay ở bất cứ hiện hữu nào khác.
Nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn đã viết
tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại (phần thứ nhất cuối thế kỷ 19 – nửa
đầu thế kỷ 20), nhà xuất bản Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.
Trong tác phẩm là một bức tranh khá toàn diện về triết học hiện sinh, các tác
giả đã đi vào phân tích và sáng tỏ các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của triết
học hiện sinh, đó là tư tưởng triết học của Dostoevski như nhà tiền khởi của
triết học hiện sinh, của Kierkegaard như ông tổ của triết học hiện sinh và của
E.Husserl như nhà đặt nền móng lý luận cho triết học hiện sinh.
Năm 2010, nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp (chủ biên), Trần Thị Điểu,
Nguyễn Thị Như Huế, Phạm Thanh Tùng đã cùng biên soạn công trình Triết

học hiện sinh, có thể nói so với các công trình khác, đây là một công trình
nghiên cứu về triết học hiện sinh mang tính chuyên sâu. Các tác giả tiếp cận
nghiên cứu từ góc độ văn hóa học “tức là từ góc độ văn hóa sinh tồn của con
người phương Tây, mà sự chuyển biến của nó tất yếu sẽ dẫn tới chủ nghĩa
10


hiện sinh như một lối sống và một kiểu tư duy”, các tác giả đi đến khái niệm
hiện sinh là “khả năng tồn tại làm người”. Do vậy, sự hiện sinh không phải là
bản chất, không phải là một cái gì đó có sẵn trong tự nhiên mang tính bẩm
sinh, được định trước và bất biến. Từ đó các tác giả đưa ra một số đặc điểm
chung của chủ nghĩa hiện sinh. Dù được định nghĩa bằng cách khác nhưng
các tác giả đều khẳng định triết học hiện sinh là triết học về con người.
Sẽ là thiếu sót nếu tác giả luận văn không kể đến các công trình nghiên
cứu triết học hiện sinh, con người hiện sinh mang tính chuyên đề sâu sau: Tác
giả Lê Kim Châu với Chủ nghĩa hện sinh và một vài ảnh hưởng của nó ở
miền Nam Việt Nam, LAPTSKH triết học, 1996. Tác giả Đỗ Minh Hợp với
Vấn đề bản thể luận trong một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại,
LATS triết học, 2000. Tác giả Trần Thị Điểu với công trình Triết học thực
tiễn của triết học hiện sinh và những giá trị, hạn chế của nó, LATS triết học,
2013. Tác giả Nguyễn Thị Như Huế nghiên cứu Quan niệm đạo đức học
trong chủ nghĩa hiện sinh và một số bài học của nó đối với việc giáo dục đạo
đức ở Việt Nam hiện nay, LATS triết học, 2013. Các tác giả đã nghiên cứu sự
ra đời của triết học hiện sinh có sự thống nhất về bối cảnh lịch sử và tiền đề lý
luận hết sức rõ ràng. Các tác giả cũng khai thác con người hiện sinh dưới góc
độ văn hóa, đạo đức con người. Đây là cách tiếp cận mới dưới lăng kính của
triết học Mác xít để nhìn nhận toàn diện khách quan về quan điểm con người
hiện sinh, từ đó có định hướng giá trị trong thực tiễn cấp bách hiện nay về đạo
đức con người, lối sống con người.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Luận văn đi sâu phân tích quan niệm về con người của Albert
Camus qua một số tác phẩm tiêu biểu, từ đó đưa ra một số đánh giá khách
quan về những giá trị và hạn chế của các quan niệm đó.

11


- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, luận văn chỉ rõ những điều kiện và tiền đề lý luận cho sự ra đời
quan niệm về con người trong triết học hiện sinh của Albert Camus, đồng thời
giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm văn học tiêu biểu của
Albert Camus.
Thứ hai, luận văn làm rõ một số quan niệm về con người của Albert
Camus, đưa ra một số đánh giá về những giá trị và hạn chế của các quan niệm
đó.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Để thực hiện mục đích nghiên cứu của mình, tác giả đã
dựa trên nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu lịch sử triết học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp lịch sử làm các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm về con người trong triết học hiện
sinh của Albert Camus.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của đề tài luận văn, tác giả
khảo cứu tư tưởng của Albert Camus về con người qua 4 tác phẩm tiêu biểu
nhất: “Huyền thoại Sisyphus”; “Kẻ xa lạ”; “Dịch hạch”; “Con người phản
kháng”.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu một cách nghiêm túc và có
logic về quan niệm con người của Albert Camus, từ đó có những đánh giá về

12


những giá trị và hạn chế của nó thông qua lăng kính của chủ nghĩa duy vật
Mácxít, đây là cách nhìn toàn diện, khách quan về trường phái triết học này.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trước hết với bản thân tác giả, đây là sự tìm hiểu
nghiêm túc về trường phái triết học này, nên có được sự nhận thức rõ ràng
đúng đắn trước rất nhiều các thông tin khác nhau. Ngoài ra, luận văn có thể
được sử dụng như là tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy và nghiên cứu
triết học hiện sinh.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

13


Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN NIỆM
VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH
CỦA ALBERT CAMUS
1.1. Những điều kiện và tiền đề lý luận ra đời quan niệm về con ngƣời
trong triết học hiện sinh của Albert Camus
1.1.1 Điều kiện kinh tế và xã hội
Triết học hiện sinh, được coi là một trong các học thuyết triết học tư
sản hiện đại nổi trội nhất trong những năm 20 của thế kỷ XX. Chủ nghĩa hiện

sinh hầu như có thể đặc trưng cho bầu không khí tinh thần của xã hội tư sản
trong thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa hiện sinh
khuynh hướng phi duy lý chiếm ưu thế, thể hiện rõ tâm trạng bi quan thất
vọng của con người đối với nền văn minh tư sản thế kỷ XX. Chúng ta không
thể tìm thấy những lời giải đáp xác đác cho câu hỏi về nguyên nhân xuất hiện
của các tư tưởng về tính phi duy lý, tính bi đát của tồn tại, về tâm trạng bi quan
thất vọng của con người trong xã hội mà lại không xem xét đến chính bản thân các
điều kiện lịch sử mà trong đó các tư tưởng được sinh ra và tồn tại.
Chủ nghĩa hiện sinh được hình thành ở Đức và Pháp từ ngay sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, những biến cố xã hội gắn liền với chủ nghĩa tư bản
bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh đế quốc là một thảm họa
thế giới đã làm thay đổi sâu sắc trong ý thức xã hội của giai cấp tư sản. Tâm
trạng lạc quan trước đây của giai cấp tư sản ngày càng mâu thuẫn với các sư
kiện, các biến cố mới. Tâm trạng ấy lại càng tăng thêm sau chiến tranh với sự
thất bại của người Đức, nó đưa đến một ý thức mơ hồ về lịch sử, làm xuất
hiện những ưu tư, lo lắng, làm mất đi niềm tin, hi vọng vào những gì tốt đẹp.

14


Làn sóng đó lại tiếp tục nổi lên ở Pháp ngay sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Trong các tác phẩm triết học và văn học của các tác giả hiện sinh ở
Pháp ta thấy sự phản ánh những mâu thuẫn của nước Pháp trong thời gian bị
chiếm đóng và sau chiến tranh. Thất bại, nhục nhã dân tộc, khiếp sợ vì những
cuộc khủng bố của phát xít, sự đàn áp tự do của cá nhân, đó là những động cơ
trực tiếp của chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp và là cơ sở của việc phổ biến nó
trong hàng ngũ của tầng lớp tri thức và thanh niên.
Hai cuộc đại chiến thế giới đi qua đã để lại những hậu quả hết sức nặng
nề, hàng chục triệu người chết, hàng trăm triệu người bị thương mà không
phải vì lợi ích hay vì chính nghĩa nào cả. Chiến tranh phơi bày quá nhiều

thảm cảnh bi thương. Châu Âu tuy là phe thắng trận nhưng cũng chịu nhiều
thiệt hại, xã hội châu Âu trở nên tiêu điều và đổ nát, con người rơi vào tình
trạng chán nản, bế tắc, mất niềm tin vào cuộc sống, con người hoài nghi mọi
thứ mọi việc, chỉ còn bản thân mình, một cá nhân cô độc, xa lạ với mọi thứ,
cuộc sống không có gì là đảm bảo. Người ta có cảm tưởng rằng mình chỉ là
con số vô danh. Cuộc sống vì thế mà đầy những chán nản, vô lý. Chính vì vậy
họ tìm đến chủ nghĩa hiện sinh để thích nghi với hoàn cảnh, đồng thời tìm ở
đó một chỗ dựa tinh thần, một niềm an ủi nào đó.
Chính về vậy rất nhiều ý kiến cho rằng, chiến tranh thế giới tàn khốc là
nguồn gốc của chủ nghĩa hiện sinh cho nên nó thấm đẫm chủ nghĩa bi quan,
thất bại. Thực tế không phải vậy, vì ở nhiều nơi không có chiến tranh hoặc
như ngày nay chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, vậy tại sao chủ nghĩa hiện
sinh và các xu hướng của chủ nghĩa phi duy lý vẫn phát triển. Chiến tranh chỉ
là một điều kiện. Thực chất, nguồn gốc của chủ nghĩa hiện sinh và các hình
thức khác của chủ nghĩa phi duy lý hiện đại là sự khủng hoảng, sự bại hoại
tinh thần do chủ nghĩa duy lý gây nên trong xã hội phương Tây hiện đại.

15


Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện từ khi cuộc chủ nghĩa công
nghiệp ở thế kỷ XVII. Vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã
bỏ lại phía sau thời kỳ cổ điển để bước sang thời kỳ hiện đại. Cuộc cách mạng
công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã làm biến
đổi tận gốc nền sản xuất của xã hội.
Bước vào thời kỳ hiện đại, công nghiệp cơ khí phát triển, quy mô sản xuất
tăng lên mạnh mẽ dẫn tới việc tích tụ sản xuất ở các xí nghiệp lớn, sản phẩm
của xã hội như tuôn trào khắp nơi. Người ta nhận đó là nhờ những thành tựu
của khoa học tự nhiên. Những kỳ tích đó của khoa học tự nhiên được ý thức
hệ phương Tây miêu tả như thành quả của chủ nghĩa duy lý.

Quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản được gọi là thời kỳ
ánh sáng nối tiếp nhau và thay thế cho thời kỳ trung cổ ảm đạm, đã hình thành
quan niệm cho rằng, tiến bộ dường như chỉ có thể có được trên cơ sở phát
triển phồn vinh của khoa học kỹ thuật, thông qua sự duy lý hóa chính trị, kinh
tế và toàn bộ đời sống xã hội. Sự khẳng định này đã thừa nhận tính ưu việt
của trí tuệ, tri thức trong sự phát triển của toàn xã hội.
Tính duy lý luôn luôn đối lập với tính phi duy lý như tâm linh, trực giác,
niềm tin tôn giáo. Nó được coi là phương sách vạn năng để hoàn thiện xã hội.
Tiến bộ phải được hiểu như là kết quả của việc truyền bá những tư tưởng duy
lý chân thực để loại trừ mọi điều phi lý, bí ẩn, để tỏa ánh sáng trí tuệ trên khắp
thế giới. Người ta đưa ra quan niệm đầy tính khoa trương rằng kỹ thuật là
chiếc đũa vạn năng tạo nên sự hài hòa xã hội trên con đường xây dựng một
cách duy lý trật tự xã hội ngày nay.
Không dừng lại ở cuộc cách mạng công nghiệp, vào giữa thế kỷ XX. Ở
châu Âu bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp gây nên những biến đổi chưa
từng thấy, Châu Âu dấn thân vào sùng bài kỹ thuật, và xuất hiện ý kiến cho

16


rằng, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật có thế cứu chủ nghĩa công nghiệp
khỏi cuộc khủng hoảng loại trừ những mâu thuẫn xã hội vốn có của xã hội đó.
Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc bùng nổ kinh tế những năm 50, 60 của
thế kỷ này đã hình thành một xu hướng duy lý cao gọi là chủ nghĩa kỹ trị.
Những quan niệm kỹ trị được bộc lộ rõ ràng trong những mô hình xã hội,
chính trị, kinh tế. Trong đó hai cột trụ của xã hội phương Tây hiện đại là chủ
nghĩa duy lý về nhà nước và thị trường.
Tính duy lý của Nhà nước thể hiện ở chỗ nó bị chi phối bởi những nhà kỹ
trị tạo thành một nhà nước quan liêu đè ép con người, ngày nay nó đạt tới cao
độ. Trong làn sóng thứ ba, A. Toffler nói về “những nhóm ra quyết định mô

hình này kiểm soát đòn bảy đầu tư trong xã hội công nghiệp” cho nên những
người nổi loạn và các nhà cải cách phá vỡ bức tường quyền lực để xây dựng
một xã hội mới dựa trên công bằng và bình đẳng chính quyền. Duy lý hóa tạo
ra thị trường được xem là một kỳ tích sánh ngang với những phát minh khoa
học lớn nhất của loài người. Sức mạnh của nó tạo ra xã hội dư thừa. Hiện tượng
“tiện nghi cuộc sống” đã được ý thức hệ hóa bởi vì nó trở thành phương tiện hòa
nhập, khóa chặt con người vào xã hội không còn lối thoát” [5; 7]
Với chủ nghĩa duy lý, phương Tây đã đạt được giai đoạn tột cùng trong sự
phát triển của nó. Nhưng chính ở đỉnh điểm của sự phồn vinh đó, nó xa vào cuộc
khủng hoảng. Các nhà triết học duy lý như Oswald Spengler, F. Nietzsche đã nói
chính chủ nghĩa duy lý kỹ thuật là sự suy đồi của phương Tây.
C.Mác đã sớm chỉ ra hậu quả của xã hội kỹ trị rằng: “Trong thời đại
chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta
thấy rằng những máy móc có sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động
của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem
nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ

17


xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại
đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật
dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Rằng,
tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta tựa hồ
như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì được ban cho một đời
sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị tước mất cái mặt tinh
thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn
thuần.
Điều quan trọng nhất trong sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý ở
phương Tây là nó đã phi nhân vị hóa con người, con người chỉ còn là “một

lực lượng vật chất đơn thuần”. Một khi con người trở thành bần cùng hóa và
kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại thì sự suy sụp của
cá nhân là một điều hiển nhiên. Thân phận con người đã như thế thì thành tựu
kỹ thuật mà loài người giành được tất không phải bằng giá trị người của loài
người mà bằng “giá trị suy đồi của đạo đức”
Nhưng điều trên dẫn đến một tình trạng mà E. Fromm đã từng nói: Vấn
đề của thế kỷ XIX là “Chúa đã chết” (như Nietzsche đã nói), vấn đề của thế
kỷ XX là con người đã chết. Ở thế kỷ XIX, sự tàn bạo chống lại con người, ở
thế kỷ XX là sự tha hóa có tính nô lệ, trong tương lai con người có nguy cơ
trở thành thần kinh phân liệt. Con người không còn là con người mà biến
thành cái máy không tư duy, không tình cảm. Con người bị máy móc hóa, tự
động hóa trở thành một yếu tố đơn giản của khoa học - kỹ thuật cho nên đánh
mất hết mọi đức tính của riêng mình và không tồn tại như một nhân vị, một cá
nhân nữa. Chủ nghĩa duy lý đã không đảm bảo nhân vị cho con người, con
người mơ hồ thấy mình vô danh, rẻ mạt trong xã hội đầy bất công và phi nhân
bản. Cái còn lại duy nhất là cái tôi ích kỷ của bản thân mỗi người, không có gì
vượt khỏi cá nhân cả.
18


Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng lại, đối lập lại của chủ nghĩa duy lý
thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Chủ nghĩa hiện sinh muốn giải
thích về cuộc khủng hoảng trong đời sống phương Tây theo cách riêng của
mình. Nếu như các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ thế kỷ XVII –
XVIII đã từng tin vào sức mạnh của lý trí, coi khoa học kỹ thuật, coi tri thức
là sức mạnh, thì ngày nay các nhà tư tưởng của phương Tây hiện đại, mà
trước hết là các nhà triết gia hiện sinh lại càng ngày càng nói nhiều về sự bất
lực của lý trí. Chủ nghĩa hiện sinh không công nhận vai trò tiến bộ của khoa
học kỹ thuật, coi khoa học kỹ thuật như những lực lượng có xu hướng thống
trị con người.

Sự phản ứng của chủ nghĩa hiện sinh không chỉ diễn ra trong tinh thần mà
còn được hiện thực hóa thành các phong trào xã hội, có lúc làm rung chuyển
cả đời sống của nhiều nước, không chỉ hiện diện ở lý thuyết mà nó còn trở
thành một lối sống, một phong cách sống. Người ta mô tả sự ra đời của chủ
nghĩa hiện sinh ở Pháp như sau: “Ấy là vào buổi sáng mùa đông (1946) vừa
thức dậy cả thành phố Paris thấy mình “hiện sinh”, sách báo đầy hiện sinh
quyến rũ tràn khắp phố phường, những “đám thanh niên nam nữ vui vẻ” kéo
đến những căn hầm ở Saint – Germain, ầm vang điệu nhạc Jazz trong những
trang phục mới lạ với đầu óc xõa, quần túm ống và ăn nói mời chào phóng
túng” [5; 10-11]. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ đi vào lối sống, mà còn đi cả
vào trong các cuộc bạo loạn của sinh viên trong tháng Năm – Sáu năm 1958
tại Paris, phong trào “phản văn hóa” ở Mỹ và nhiều phong trào xã hội phản
ứng chống lại chủ nghĩa duy lý.
Tóm lại những hậu quả của chủ nghĩa duy lý gây ra trong xã hội
phương Tây hiện đại là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện chủ
nghĩa hiện sinh. Trong quá trình tồn tại của mình, mục đích của chủ nghĩa phi

19


duy lý không có gì khác là giành lại nhân vị, tự do cho con người, thách thức
mọi sức mạnh của chủ nghĩa duy lý thống trị ở bất cứ đâu.
Các nhà triết học hiện sinh khi xây dựng lý luận hiện sinh con người
hiện sinh của mình không hề tách biệt với bối cảnh xã hội, bối cảnh văn hóa
tinh thần. Hậu quả của nó là con người chịu những tác động phi lý của xã hội.
Cuộc đời không có mục đích, sự vô nghĩa của đời sống con người. Vấn đề phi
lý đã được rất nhiều triết gia đề cập chẳng hạn triết gia Kierkegaard đã cắt
nghĩa rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo đã ngăn cản chúng ta tới gần
Thượng Đế một cách thuần túy, trong khi đó, Jean Paul Sartre nhận thức sự
phi lý trong các kinh nghiệm cá nhân. Albert Camus không phải là người đầu

tiên khởi xướng vấn đề phi lý, nhưng vấn đề phi lý của ông có sự khác biệt,
nghịch lý của sự phi lý. Ngay bản thân Albert Camus đã từng trải qua bao
sóng gió, cuộc đời của ông là những chuỗi bi kịch. Trong các tác phẩm,
Albert Camus đã trình bày lý thuyết nhị nguyên: sáng và tối, đời sống và cõi
chết, hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta phải đối diện với sự thật là “hạnh phúc
thì mong manh”, trong khi chắc chắn rằng chúng ta sẽ chết. Lý thuyết nhị
nguyên là một nghịch lý. Chúng ta đánh giá cao đời sống và sự hiện hữu,
trong khi đó lại biết rõ rằng chúng ta sẽ chết và nếu vậy, các cố gắng của
chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa và chúng ta không thể sống với nghịch lý sau
đây: “Đời này rất quan trọng nhưng lại là vô nghĩa”. Còn nếu như đời sống
không có ý nghĩa và vì thế không có giá trị, liệu chúng ta có nên tự sát không?
1.1.2. Tiền đề lý luận
Bất kỳ một học thuyết triết học nào ra đời cũng đều là sự kế thừa và
chịu ảnh hưởng của những tư tưởng trước đó, đồng thời nó cũng phản ánh các
mối quan hệ xã hội. Chủ nghĩa hiện sinh cũng vậy, nó được ra đời từ những
điều kiện lịch sử của một “phương Tây suy tàn” như chúng ta đã phân tích ở
20


trên và cũng chỉ ra rằng, chủ nghĩa hiện sinh chỉ là sản phẩm của các điều
kiện kinh tế - xã hội nhất định trong thời kỳ khủng hoảng suy thoái của nó, và
nó cũng không phải chỉ do một nhà lý luận kiệt xuất nào đề ra, mà do nhiều
người nối tiếp nhau hoàn thiện nó, đó là sự kế thừa tư tưởng. Tìm hiểu sự
hình thành của chủ nghĩa hiện sinh, chúng ta phải tìm hiểu nguồn gốc tư
tưởng của nó. Trong các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, các tác
giả đưa ra nhiều nhà triết học theo quan điểm riêng của họ. Nhưng, ở đây, tôi
cho rằng hai triết gia, hai bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện sinh là Soren
Kierkegaard và Edmund Husserl.
Tư tưởng hiện sinh của Albert Camus không ngoại lệ, ông đã kế thừa
những tư tưởng lý luận của Kierkegaard, hiện tượng học của Husserl làm cội

nguồn tư tưởng cần thiết cho lý luận triết học hiện sinh của mình.
* Triết học của Soren Kierkegaard
Soren Aabye Kierkegaard (1813 – 1855) là nhà triết học chủ nghĩa phi
duy lý, nhà triết học tôn giáo Đan Mạch nửa sau thế kỷ XIX. Ông được suy
tôn là tiền bối của triết học hiện sinh, lý luận của Kierkegaard trở thành nguồn
gốc quan trọng của triết học hiện sinh, lừng lẫy tiếng tăm trong giới triết học
phương Tây. Một trong những nhà triết học khởi xướng vấn đề phi lý,
Kierkegaard đã cắt nghĩa rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo đã ngăn
cản chúng ta tới gần Thượng Đế một cách thuần túy.
Các tác phẩm của Kierkegaard đều in rõ những đặc điểm của cuộc đời
ông, những nghịch lý ông gặp phải đều đã hằn sâu ở đó. Nhiều tác phẩm của
ông như là những nhật ký, một loại hình văn học rất thuận tiện nói về nhân vị
của con người, về đời sống nội tâm của chính ông. Có thể nói ông là trường
hợp điển hình cho nhận xét: tác phẩm của các nhà triết học hiện sinh là bản
dịch cuộc đời họ.
21


×