Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc nói các ngôn ngữ ba na nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THU HUYỀN

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ Ở MỘT SỐ DÂN TỘC
NÓI CÁC NGÔN NGỮ BA-NA NAM

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số

: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN VĂN PHÚC

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ này do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Đoàn Văn Phúc. Để hoàn thành luận văn này, ngoài các tài liệu tham
khảo đã liệt kê, tôi cam đoan không sao chép các công trình hoặc nghiên cứu của
người khác.
Hà nội, ngày 21 tháng 2 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thu Huyền



LỜI CẢM ƠN
Học viên Nguyễn Thu Huyền xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Đoàn Văn Phúc - người đã hết lòng hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngôn Ngữ - Học viện
KHXH đã nhiệt tình giảng dạy nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã ủng hộ, tạo điều
kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 21 - 2 - 2017
Tác giả

Nguyễn Thu Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN.............................................................. 8

1.1. Cơ sở lí luận ..................................................................................................... 8
1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................. 11
Chương 2: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ Ở PHẠM VI GIAO TIẾP QUY
THỨC ...................................................................................................................................... 21
2.1. Tình hình tư liệu ................................................................................................... 21
2.2. Tình hình sử dụng tiếng Việt .............................................................................. 27
2.3. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ ............................................................................ 32
Chương 3: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ Ở PHẠM VI GIAO TIẾP PHI
QUY THỨC………………………………. .................................................................... 38
3.1. Tình hình sử dụng tiếng Việt .............................................................................. 38

3.2. Tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ ........................................................................... 43
3.3. Tình hình sử dụng ngôn ngữ dân tộc khác ...................................................... 54
3.4. Nghiên cứu trường hợp ............................................................................... 55
KẾT LUẬN…………………………………… .......................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 70


Danh mục các chữ viết tắt
1. CĐ

: cao đẳng

2. DT

: dân tộc

3. ĐH

: đại học

4. Na

: nam

5. Nu

: nữ

6. SL


: số lượng

7. TH

: tiểu học

8. THCS

: trung học cơ sở

9. THPT

: trung học phổ thông

10. TL

: tỉ lệ

11. TLV

: tư liệu viên

12. TMĐ

: tiếng mẹ đẻ

13. TS

: tổng số


14. TV

: tiếng Việt


Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Tình trạng hôn nhân của hai dân tộc Cơ-ho và Xtiêng ............................................ 21
Bảng 2.2: Tình trạng hôn nhân của các cộng đồng dân tộc Cơ-ho ........................................... 22
Bảng 2.3: Tình trạng hôn nhân của các cộng đồng dân tộc Xtiêng .......................................... 23
Bảng 2.4: Nghề nghiệp của hai dân tộc Cơ-ho và Xtiêng ........................................................ 24
Bảng 2.5: Nghề nghiệp của các cộng đồng dân tộc Cơ-ho ....................................................... 25
Bảng 2.6: Nghề nghiệp của các cộng đồng dân tộc Xtiêng ...................................................... 26
Bảng 3.1: Thông tin về TLV của người Chil ............................................................................ 57
Bảng 3.2: Năng lực sử dụng ngôn ngữ của người Chil ............................................................ 58
Bảng 3.3: Năng lực sử dụng tiếng các vùng khác của người Chil ............................................ 60
Bảng 3.4: Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Chil trong phạm vi giao tiếp quy thức ...... 61
Bảng 3.5: Tình hình sử dụng ngôn ngữ của người Chil trong phạm vi giao tiếp phi quy thức 63

Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Tình trạng hôn nhân đồng tộc của hai dân tộc Cơ-ho và Xtiêng ......................... 22
Biểu đồ 2.2: Tình trạng hôn nhân đồng tộc của các cộng đồng dân tộc Cơ-ho ........................ 23
Biểu đồ 2.3: Tình trạng hôn nhân đồng tộc của các cộng đồng dân tộc Xtiêng ....................... 24
Biểu đồ 2.4: Nghề nghiệp của hai dân tộc Cơ-ho và Xtiêng .................................................... 25
Biểu đồ 2.5: Nghề nghiệp của các cộng đồng dân tộc Cơ-ho ................................................... 26
Biểu đồ 2.6: Nghề nghiệp của các cộng đồng dân tộc Xtiêng .................................................. 27


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Trong phân loại ngôn ngữ theo quan hệ cội nguồn, tiểu chi Ba-na thuộc
chi Môn - Khơ-me, ngữ hệ Nam Á. Ở Việt Nam có ít nhất hơn một chục dân tộc
thiểu số (Ba-na, Xơ-đăng, Co, Hrê, Giẻ - Triêng, Brâu, Rơ-măm, Cơ-ho, Mạ, Chơro, Xtiêng, Mnông) sử dụng các ngôn ngữ thuộc tiểu chi Ba-na. Trong tiểu chi này
lại phân thành các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ nhóm Ba-na Bắc và các dân tộc sử
dụng các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam. Các dân tộc Cơ-ho, Xtiêng, Chơ-ro, Mạ,
Mnông là những dân tộc sử dụng các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam.
Khu vực cư trú của cư dân các dân tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc tiểu chi này
nằm tập trung từ vùng Trung Trung Bộ (Quảng Nam và Quảng Ngãi) kéo dài tới
Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Hiện nay, cư dân sử dụng các ngôn
ngữ tiểu chi này ở nước ta có 1.032.798 người (theo số liệu Tổng điều tra dân số và
nhà ở 01/4/2009). Trước đây, mỗi một dân tộc thiểu số đều có những khu vực sống
tập trung nhất định (theo địa bàn xã, huyện, tỉnh). Từ sau năm 1975, sự phân bố cư
dân các dân tộc ở các tỉnh phía nam, đặc biệt khu vực Trung Trung Bộ, Đông Nam
Bộ và Tây Nguyên đã có sự thay đổi do cư dân nhiều dân tộc ở phía bắc đi xây
dựng kinh tế.
Hiện nay, do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, cũng
như sự phân bố lao động mà cư dân các dân tộc sống xen kẽ với nhau thậm chí tới
từng làng, từng xã. Điều kiện cư trú đan xen giữa các dân tộc, hôn nhân khác tộc
người đã ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ, tiếng
Việt, tiếng các dân tộc khác) của các dân tộc, trong đó có các dân tộc sử dụng các
ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam thuộc tiểu chi Ba-na. Ngay bản thân mỗi dân tộc này
cũng bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau và có thể cư trú cách xa nhau, làm
cho tiếng nói của họ cũng dần cách xa nhau, thậm chí có thể khác nhau không ít.
Tình trạng này đang dẫn đến có những nhóm địa phương của một số dân tộc muốn
tách mình thành một dân tộc thiểu số riêng trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam.

1


1.2. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có những công trình điều tra, nghiên cứu,

tổng kết đầy đủ về tình hình sử dụng ngôn ngữ của các dân tộc thuộc các ngữ hệ ở
Việt Nam, trong đó có các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam. Một số năm gần đây, trong
những công trình nghiên cứu (thuộc hệ đề tài các cấp), Phòng nghiên cứu ngôn ngữ
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã tiến hành điều tra tình hình sử dụng ngôn ngữ
của cư dân nhiều dân tộc thiểu số, trong đó có việc sử dụng ngôn ngữ của một số
nhóm, tiểu chi, chi thuộc ngữ hệ Nam Á. Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở tư liệu
của Phòng nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số thuộc Viện Ngôn ngữ học, chúng
tôi thực hiện đề tài Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc nói các ngôn
ngữ Ba-na Nam để bước đầu tiến hành tổng kết đánh giá tình hình sử dụng ngôn
ngữ của một số dân tộc Cơ-ho, Xtiêng. Thông qua nghiên cứu này, đề tài sẽ đem
đến bức tranh đầy đủ hơn về tình hình sử dụng ngôn ngữ của cư dân các dân tộc này
để góp phần phát triển tiếng Việt ở vùng dân tộc, cũng như góp phần bảo tồn và
phát huy vai trò các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về vấn đề tình hình sử dụng ngôn
ngữ của cư dân các dân tộc thiểu số vẫn còn rất hạn chế. Hầu hết các đề tài nghiên
cứu thường mới chỉ quan tâm đến tình hình sử dụng ngôn ngữ riêng rẽ ở một số các
dân tộc hay một số nhóm dân tộc hoặc nhóm địa phương. Có thể kể đến một số
công trình, bài viết của một số tác giả hay nhóm tác giả về vấn đề này. Đó là các
Chương trình, dự án, đề tài/nhiệm vụ cấp Nhà nước, Bộ do Viện Ngôn ngữ học thực
hiện: Tiếng Dao ở Việt Nam (2000, Hoàng Văn Ma chủ nhiệm), Bảo tồn và phát
huy tiếng nói, chữ viết Chăm trong tình hình mới, (2007) và Khảo sát, nghiên cứu
vai trò của tiếng nói và chữ viết Chăm trong đời sống xã hội của người Chăm hiện
nay (2010) do Nguyễn Văn Khang làm chủ nhiệm, đề tài Các ngôn ngữ Nam Á ở
Việt Nam (2010) do Tạ Văn Thông làm chủ nhiệm. Hoặc một số đề tài khác do Viện
Ngôn ngữ học thực hiện trong thời gian gần đây: Chính sách ngôn ngữ của nhà

2



nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế: Thực trạng, các kiến nghị và giải pháp, (2009 2010), Chủ nhiệm: Nguyễn Đức Tồn; Bức tranh toàn cảnh về các ngôn ngữ ở Việt
Nam (2009 - 2010), Vấn đề giáo dục tiếng mẹ đẻ đối với cư dân sử dụng các ngôn
ngữ nhóm Chăm ở Việt Nam hiện nay (trường hợp tiếng tiếng Ê đê), (2011 - 2012);
Vấn đề giáo dục tiếng mẹ đẻ đối với cư dân sử dụng một số ngôn ngữ tiểu nhóm
Chăm (Gia-rai, Ra-glai, Chu-ru) ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, giải pháp, kiến
nghị (2013 - 2014), chủ nhiệm Đoàn Văn Phúc;... Tuy vậy, một số kết quả nghiên
cứu của các đề tài, dự án trên thường được viết thông qua một số bài báo. Gần đây,
cũng có một số dự án cấp Bộ của Viện Dân tộc (Ủy ban Dân tộc) thực hiện như:
Điều tra, bổ sung nghiên cứu tiếng Pa cô, Chil, Giẻ, Triêng, Tà-mun thuộc dân tộc
Ta ôi, Cơ-ho, Giẻ - Triêng, Xtiêng góp phần xác định thành phần dân tộc (2014),
chủ nhiệm: Đoàn Văn Phúc; Điều tra nghiên cứu tiếng Ca Dong để xác định thành
phần dân tộc người Ca Dong (hiện thuộc dân tộc Xơ-Đăng) (2014), chủ nhiệm
Phan Lương Hùng; và một số dự án về người Bru-Vân Kiều hay về Nguồn ...
Cũng có thể kể đến công trình Văn hóa các tộc người vùng lòng hồ và vùng
thủy điện tái định cư thủy điện Sơn La (Phạm Quang Hoan chủ biên,... KHXH.,
2011), hay công trình Ngôn ngữ học xã hội (Nxb Giáo dục, 2013) và Chính sách
ngôn ngữ và lập pháp ngôn ngữ ở Việt Nam (Nxb Giáo dục, 2014) của Nguyễn Văn
Khang ;... Ở những công trình này, nhờ tập hợp được tư liệu (tuy chưa đầy đủ) tình
hình sử dụng ngôn ngữ của nhiều dân tộc, các tác giả đã khái quát trong các công
trình của mình. Ngoài ra, cũng có thể nói tới một số bài viết về tình hình sử dụng
ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong cuốn Những vấn đề chính sách
ngôn ngữ ở Việt Nam (KHXH., H 1993), hay nhiều bài viết của các tác giả khi
nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số. Chẳng hạn,
Tạ Văn Thông (2001, 2002), Mai Xuân Huy (2002), Nguyễn Văn Khang, Hoàng
Văn Hành, Vũ Bá Hùng, Phạm Văn Hảo và Hà Quang Năng trong Cảnh huống và
chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam (2002), ... Hoặc có thể thấy một số bài viết của các
tác giả Nguyễn Hữu Hoành (1997, 2002, 2003), Hoàng Quốc (2010), Đinh Lư


3


Giang (2011), Nguyễn Thị Huệ (2011), Phan Lương Hùng (2010),...
2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Cho đến nay, trên thế giới dường như rất hiếm có một công trình nghiên cứu
nào về tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc sử dụng các ngôn ngữ nhóm
Ba-na Nam ở Việt Nam.
Hầu hết các đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào các vấn đề như: chính sách
về giáo dục tiếng mẹ đẻ/giáo dục song ngữ của quốc gia, giáo dục tiếng mẹ đẻ/xóa
mù song ngữ cho các cộng đồng thiểu số, phát triển hệ thống chữ viết ngôn ngữ
thiểu số, huy động cộng đồng và xác định nhu cầu học tập,..
Có thể kể đến một số công trình, bài viết của một số tác giả hay nhóm tác giả
về vấn đề này. Đó là các Chương trình, dự án: Giáo dục bằng ngôn ngữ bản địa:
Chính sách và Kinh nghiệm thực tế ở Đông Nam Á của Kosonen (2005, K), Sự biến
mất của tiếng nói: Sự tuyệt chủng của các ngôn ngữ trên thế giới (2000, nxb ĐH
Oxford ) của Nettle, D.&Romaine, S hay công trình Chính sách ngôn ngữ (2004,
nxb ĐH Cambridge) của Spolsky, B; công trình Kế hoạch hóa ngôn ngữ và sự thay
đổi xã hội (1989, nxb ĐH Cambridge) của Cooper, R.L; công trình Cái chết của
ngôn ngữ (2002, Nxb ĐH Cambridge) của Crystal, công trình Nghiên cứu "Ngôn
ngữ trong chính sách giáo dục và thực tiễn ở Việt Nam" cho NICEF Hà Nội của
Kosonen, K.(2004) chưa xuất bản,..
Ngoài các công trình nêu trên, có thể thấy một số bài viết của các tác giả về
những vấn đề này: bài viết của Malone, D.L.(2003) về Biên soạn tài liệu chương
trình cho giáo dục những ngôn ngữ đang gặp nguy hiểm: Bài học từ thực tế đăng
trên Tạp chí giáo dục song ngữ và song ngữ quốc tế 6(5), trang 332-348; bài viết
của Vawda, A.Y.&Patrinos, H.A. (1999) về Biên soạn các tài liệu giáo dục bằng
ngôn ngữ bản địa đăng trên tạp chí Phát triển giáo dục quốc tế 19 (4-5) trang 287299, bài viết của Webb, V. (1999) về Hiện tượng đa ngữ ở Cộng hòa Dân chủ Nam
Phi: Sự đánh giá quá cao của chính sách ngôn ngữ đăng trên Tạp chí Phát triển

Giáo dục quốc tế 19 (4-5) trang 351-366, bài viết của tác giả Zhou Yaowen (1992)
về Song ngữ và giáo dục song ngữ ở Trung Quốc trên tạp chí quốc tế về xã hội học

4


của ngôn ngữ 97 trang 37-45, hay bài viết của Young, C.(2002) về vấn đề Dạy ngôn
ngữ thứ nhất trước tiên: Giáo dục xóa mù chữ trong tương lai ở xã hội đa ngôn ngữ
của Phi-lip-pin trên tạp chí Giáo dục song ngữ và hiện tượng song ngữ 5(4) trang
221-232; bài viết của Aikman, S.& Pridmore, P.(2001) về Vấn đề giáo dục lớp ghép
ở các vùng "sâu, xa" của Việt Nam trong Tạp chí Phát triển Giáo dục Quốc tế
Vol.21, Số 6, trang 521-536.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm chỉ ra tình hình sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc sử dụng
các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam ở Việt Nam thông qua việc sử dụng ngôn ngữ trong
các phạm vi giao tiếp quy thức và phi quy thức trong thực tiễn đời sống, xã hội. Thông
qua đó, đề tài đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm bảo tồn tiếng mẹ đẻ cũng như phát
triển năng lực tiếng Việt ở các cộng đồng dân tộc này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có các nhiệm vụ sau:
3.2.1. Xây dựng cơ sở lí thuyết và thực tiễn của đề tài thông qua tổng quan
nghiên cứu và các cơ sở dữ liệu liên quan.
3.2.2. Thống kê, phân tích tình hình sử dụng ngôn ngữ ở các phạm vi giao tiếp
(quy thức và phi quy thức) cũng như các môi trường giao tiếp khác nhau của cư dân 2
dân tộc sử dụng các ngôn ngữ tiểu chi Ba-na Nam ở Việt Nam: Cơ-ho, Xtiêng.
Qua đó, đề tài tổng kết tình hình sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc sử
dụng các ngôn ngữ Ba-na Nam để thấy được trạng thái song ngữ, đa ngữ của cư dân
các dân tộc này trong bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ văn hóa đa chiều hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc
nói các ngôn ngữ Ba-na Nam thuộc tiểu chi Ba-na ở Việt Nam thông qua tình hình
sử dụng ngôn ngữ của họ trong các phạm vi, môi trường giao tiếp trên tư liệu điều
tra xã hội học về khả năng hiểu, sử dụng ngôn ngữ của các cư dân này.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cư dân sử dụng các ngôn ngữ tiểu chi Ba-na ở Việt Nam có nhiều, song
trong tình hình tư liệu (hiện có và tương đối đầy đủ) nên ở đề tài này, chúng tôi đi
sâu nghiên cứu tình hình sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc: Cơ-ho, Xtiêng,
thông qua thực trạng sử dụng ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt, tiếng các dân tộc
thiểu số khác ở địa bàn định cư) của họ trong các phạm vi, môi trường, bối cảnh
giao tiếp khác nhau của đời sống xã hội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở coi "ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người" và ngôn ngữ là một trong những biểu hiện của các
mối liên hệ xã hội giữa người với người. Ngôn ngữ gắn liền với các hoạt động giao
tiếp của con người trong xã hội và bị quy định bởi những điều kiện cụ thể của một
thời kì lịch sử xã hội nhất định.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ tính chất, đối tượng và mục đích nghiên cứu của đề tài này,
Phương pháp nghiên cứu tiếp cận đề tài mà chúng tôi áp dụng là cách tiếp cận từ góc
nhìn của ngôn ngữ học xã hội. Còn phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
miêu tả với các thủ pháp luận giải bên trong (phân loại, hệ thống hóa tư liệu, xác định
đơn vị miêu tả) và các thủ pháp luận giải bên ngoài (thống kê, so sánh, tâm lí tộc
người) để làm rõ tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc nói các ngôn ngữ Bana Nam thuộc tiểu chi Ba-na. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp khác.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội
Luận văn có sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như phương pháp
nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội, phương pháp nghiên cứu dân tộc học.
Phương pháp nghiên cứu điền dã ngôn ngữ học
Để có được những tư liệu cần thiết cho luận văn này, các nhà nghiên cứu đã
phải tổ chức đội ngũ đi nghiên cứu điền dã: có sự chuẩn bị chu đáo về vật chất cũng
như tinh thần và phân công công việc cho các thành viên trong nhóm. Bên cạnh đó,

6


các nhà nghiên cứu cũng phải xây dựng Anket thể hiện được tính mục đích của cuộc
khảo sát. Tư liệu viên được chọn trong quá trình nghiên cứu điền dã là những tư liệu
viên phải có tính kiên trì, không nóng vội, không bốc đồng trong công việc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng sử dụng ngôn ngữ ở một số dân tộc nói
các ngôn ngữ Ba-na Nam thuộc tiểu chi Ba na, đề tài sẽ cung cấp, bổ sung một hệ
thống cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ để góp phần hoàn thiện hệ thống lí luận về năng
lực sử dụng ngôn ngữ và thực trạng sử dụng ngôn ngữ của một số dân tộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thông qua nghiên cứu, đề tài sẽ chỉ ra được tình hình sử dụng tiếng mẹ đẻ, tiếng
Việt cũng như tiếng của các dân tộc khác ở một số dân tộc nói các ngôn ngữ Ba-na Nam
trong các phạm vi quy thức và không quy thức. Qua đó, đề tài lý giải được nguyên nhân
sử dụng ngôn ngữ trong các phạm vi giao tiếp khác nhau và góp phần đưa ra một số
biện pháp nhằm bảo tồn tiếng mẹ đẻ của họ, cũng như góp phần phát triển tiếng Việt ở
khu vực cư trú của các dân tộc thiểu số này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Thư mục tham khảo, luận v ăn gồm
ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở phạm vi giao tiếp quy thức
Chương 3: Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở phạm vi giao tiếp phi quy thức
Phụ lục

7


Chương 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm năng lực ngôn ngữ và cộng đồng ngôn ngữ
Khái niệm năng lực nói chung là một khái niệm đã được quan tâm nghiên cứu
từ nhiều thế kỉ nay. Khái niệm năng lực (competence) này cũng gắn với khái niệm về
sự thực hiện (performance). Theo Chomsky, năng lực ở một người nói bản ngữ lý
tưởng là hàm chỉ những kiến thức hiển ngôn hay hàm ẩn của người này về hệ thống
ngôn ngữ [46, tr.5].
Năng lực ngôn ngữ là khả năng hiểu và sử dụng ngôn ngữ của các cá nhân
trong cộng đồng ở các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Theo Nguyễn Thiện Giáp, cộng
đồng ngôn ngữ là ''nhóm người sử dụng cùng một ngôn ngữ hay một phương ngữ để
giao tiếp với nhau... Cộng đồng ngôn ngữ có ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát
triển của ngôn ngữ" [Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục 2016, tr.132].
Dựa vào năng lực sử dụng và việc sử dụng ngôn ngữ của các cá nhân trong
cộng đồng mà ta có cộng đồng đơn ngữ, cộng đồng song ngữ, cộng đồng đa ngữ.
Cộng đồng đơn ngữ là cộng đồng mà các cá nhân trong cộng đồng chỉ có thể
sử dụng một ngôn ngữ để giao tiếp. Cộng đồng song ngữ là cộng đồng mà các cá
nhân trong cộng đồng có thể sử dụng hai ngôn ngữ để giao tiếp. Theo Phan Ngọc và
Phạm Đức Dương (1983) hiện tượng song ngữ có thể hiểu là "hiện tượng một người
có tiếng mẹ đẻ là A, nhờ biết ít nhiều về ngôn ngữ B mà có thể giao tiếp với một tộc

người khác chỉ nói được ngôn ngữ B. Nhờ biết được hai ngôn ngữ nên người đó được
gọi là người song ngữ, và sự giao tiếp của họ là giao tiếp song ngữ" [21, tr.22-23].
Các cộng đồng song ngữ có thể là các nhóm người hoặc các dân tộc mà ở đó các cá
nhân trong cộng đồng có thể sử dụng những ngôn ngữ mà họ cùng biết để giao tiếp
với nhau. Các cá nhân này có thể sử dụng luân phiên hai ngôn ngữ trong quá trình
giao tiếp. Nếu người song ngữ có thể sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ được gọi là
song ngữ hoàn toàn hay song ngữ văn hóa. Trong trường hợp người song ngữ không

8


sử dụng được thành thạo ngôn ngữ thứ hai thì được gọi là song ngữ bộ phận hay song
ngữ tự nhiên. Tuy nhiên, những người song ngữ hoàn toàn rất hiếm.
Cộng đồng đa ngữ là cộng đồng mà các cá nhân trong cộng đồng có thể sử
dụng hơn hai ngôn ngữ để giao tiếp. Tuy nhiên, người ta vẫn sử dụng thuật ngữ đa
ngữ cho cả song ngữ hoặc thậm chí cộng đồng song ngữ để chỉ cả cộng đồng đa ngữ.
Theo đó, cộng đồng sử dụng song ngữ cũng chính là cộng đồng đa ngữ.
Hiện nay hầu hết các dân tộc ở Việt Nam, ngoài việc sử dụng tiếng mẹ đẻ
(TMĐ) của dân tộc mình còn có thể sử dụng được tiếng Việt (TV) hoặc tiếng của dân
tộc khác nữa. Nhờ biết được hai ngôn ngữ nên người nói được hai ngôn ngữ được gọi
là người song ngữ và sự giao tiếp của họ là giao tiếp song ngữ. Các cộng đồng đa ngữ
ở Việt Nam có điều kiện để phát triển bởi TV từ lâu được xem là ngôn ngữ giao tiếp
chung (mà nay gọi là ngôn ngữ quốc gia) cho cả khối cộng đồng quốc gia đa dân tộc.
TV trong cuộc sống thực tiễn đã trở thành tiếng nói thống nhất của cộng đồng dân tộc
Việt Nam, có tác dụng tích cực đối với sự phát triển ngôn ngữ của các dân tộc khác.
1.1.2. Khái niệm sự lựa chọn ngôn ngữ
Trong quá trình giao tiếp, người giao tiếp không ngừng lựa chọn ngôn ngữ. Sự
lựa chọn ngôn ngữ được tiến hành ở bất kì bình diện nào của ngôn ngữ như: ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp,... Sự biến đổi ở bất kỳ bình diện nào cũng đều tạo nên một ý
nghĩa dụng học nhất định. Sự lựa chọn ngôn ngữ có thể diễn ra theo ý muốn chủ quan

của người tham gia giao tiếp hay có thể diễn ra một cách khách quan ngoài ý muốn
của người giao tiếp. Sự lựa chọn ngôn ngữ diễn ra một cách linh hoạt nhằm mang lại
hiệu quả giao tiếp nhất định.
Theo [15], tiếp cận theo hướng xã hội học, sự lựa chọn ngôn ngữ là sự lựa
chọn biến thể cho phù hợp với ngữ cảnh (lĩnh vực, phạm vi) giao tiếp như: công sở,
hội họp, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, người đồng tộc, người khác tộc,...
Tiếp cận theo hướng tâm lý học xã hội, sự lựa chọn ngôn ngữ được xây dựng
trên cơ sở của lý thuyết thích nghi. Theo Giles, khái niệm "thích nghi" được sử dụng
là thích nghi trong ứng xử ngôn ngữ gồm thích nghi hội tụ và thích nghi phân li. Hội
tụ chính là sự lựa chọn ngôn ngữ của người giao tiếp sao cho phù hợp với đối tượng

9


giao tiếp, cảnh huống của hành vi giao tiếp. Phân li là sự lựa chọn ngôn ngữ mà
người giao tiếp không cố gắng điều chỉnh ngôn ngữ cho phù hợp với đối tượng giao
tiếp và cảnh huống của hành vi giao tiếp.
Trong xã hội song ngữ, người giao tiếp luôn luôn có sự lựa chọn ngôn ngữ
trong quá trình giao tiếp. Họ lựa chọn một ngôn ngữ hay đồng thời sử dụng cả hai
hoặc hơn hai ngôn ngữ để giao tiếp. Trong khi sử dụng đồng thời hai hoặc hơn hai
ngôn ngữ thì việc lựa chọn ngôn ngữ nào để giao tiếp lại tùy thuộc vào bối cảnh giao
tiếp. Họ cũng có thể giao tiếp theo hướng chuyển mã, trộn mã. Khi giao tiếp theo
hướng trộn mã, người giao tiếp sử dụng một ngôn ngữ chính và trộn các yếu tố của
ngôn ngữ khác vào. Khi giao tiếp theo hướng chuyển mã thì người giao tiếp có sự
chuyển đổi ngôn ngữ hay phương ngữ trong quá trình giao tiếp. Sự chuyển mã phải là
sự chuyển đổi hoàn toàn từ một mã ngôn ngữ hay phương ngữ này sang mã ngôn ngữ
hay phương ngữ khác.
Sự chuyển mã thường diễn ra từ biến thể thấp sang biến thể cao. Khi giữa hai
ngôn ngữ hoặc phương ngữ có sự phân biệt về địa vị, uy tín xã hội thì người giao tiếp
thường có xu hướng lựa chọn ngôn ngữ, phương ngữ có địa vị, uy tín cao hơn.

1.1.3. Thái độ ngôn ngữ
Thái độ ngôn ngữ là một vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa trong việc lựa
chọn ngôn ngữ để sử dụng ở các dân tộc thiểu số. Nó liên quan mật thiết đến việc
bảo tồn, duy trì phát triển tiếng mẹ đẻ hay sự tiêu vong của ngôn ngữ mẹ đẻ ở các
dân tộc thiểu số nước ta. Theo tác giả Nguyễn Văn Khang, thái độ ngôn ngữ có thể
được hiểu là "sự đánh giá về giá trị và khuynh hướng hành vi của một cộng đồng hay
cá nhân đối với một ngôn ngữ hoặc một hiện tượng ngôn ngữ nào đó" [15, tr.85].
Có nhiều cách phân loại thái độ ngôn ngữ, song người ta thường phân chia thái
độ ngôn ngữ thường ba loại lớn: thái độ trung thành đối với ngôn ngữ; thái độ tự ti về
ngôn ngữ và thái độ kì thị đối với ngôn ngữ.
Thái độ trung thành đối với ngôn ngữ thể hiện qua việc tiếp nhận, sử dụng ngôn
ngữ của dân tộc mình mặc dù đã thoát khỏi cộng đồng mình, và thái độ phản cảm với
những người cùng dân tộc mình nhưng không còn nói tiếng của địa phương mình nữa.

10


Thái độ kì thị về ngôn ngữ là thái độ phân biệt đối xử do thành kiến. Kì thị
ngôn ngữ đồng nghĩa với việc đề cao, coi trọng ngôn ngữ khác.
Thái độ tự ti về ngôn ngữ là thái độ xuất hiện ở việc tiếp xúc giữa ngôn ngữ
của dân tộc có số lượng người sử dụng tương đối ít, lịch sử tương đối ngắn, lưu
truyền không sâu rộng với ngôn ngữ có số lượng người sử dụng tương đối đông,
lịch sử lâu dài, được lưu truyền sâu rộng.
1.1.4. Khái niệm giao tiếp quy thức và giao tiếp phi quy thức
Giao tiếp luôn luôn tồn tại trong bất kì xã hội nào. Giao tiếp là tiếp xúc và
trao đổi tâm tư, tình cảm với nhau để duy trì các mối quan hệ trong xã hội. Hoạt
động giao tiếp của con người có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện khác nhau.
Trong đó, phương tiện quan trọng nhất và chủ yếu nhất là ngôn ngữ. Tuy nhiên, đối
với các dân tộc thiểu số thì việc lựa chọn ngôn ngữ nào trong giao tiếp để đạt được
mục đích, hiệu quả nhất cũng là một điều hết sức thú vị. Bởi lẽ, đồng bào các dân

tộc thiểu số bên cạnh việc sử dụng được TMĐ thường họ có thể nói tốt cả TV.
Trong giao tiếp thông thường, họ không sử dụng một ngôn ngữ mà sử dụng cả hai
ngôn ngữ TMĐ và TV. Trong các phạm vi giao tiếp khác nhau việc sử dụng ngôn
ngữ cũng có sự thay đổi nhất định tùy thuộc vào các chủ thể giao tiếp và các đối
tượng, môi trường giao tiếp khác nhau.
Theo cách tiếp cận đối tượng giao tiếp, chúng ta có giao tiếp trực tiếp và giao
tiếp gián tiếp. Giao tiếp trực tiếp có sự tham gia của các nhân vật giao tiếp. Các
nhân vật giao tiếp gặp gỡ nhau để trao đổi thông tin với nhau. Giao tiếp gián tiếp
không cần có sự gặp gỡ trực tiếp của các nhân vật tham gia giao tiếp mà được thực
hiện qua các phương tiện như văn bản, thư từ, điện thoại, truyền hình,...
Theo phạm vi giao tiếp, chúng ta có giao tiếp mang tính quy thức (giao tiếp
mang tính nghi thức) và giao tiếp phi quy thức (giao tiếp có phần tự do trong các
môi trường khác nhau và không mang tính nghi thức).
Giao tiếp quy thức là giao tiếp cần phải tuân theo những quy tắc do tập thể,
cộng đồng hay xã hội đặt ra. Nó không mang tính tự do mà ngôn ngữ có sự gọt
giũa. Ngôn ngữ ở đây mang tính văn hóa cao. Người sử dụng ngôn ngữ thường có

11


sự lựa chọn ngôn ngữ (sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc ngôn ngữ phổ thông vùng hay
ngôn ngữ quốc gia). Người nói có sự trau chuốt về cách dùng từ, đặt câu sao cho
giao tiếp đạt hiệu quả cao nhất. Đó là giao tiếp trong các cuộc họp, giao tiếp tại các
công sở, trong nhà trường nên nó cần phải tuân theo những lễ nghi, quy tắc nhất
định.
Giao tiếp phi quy thức là giao tiếp mà người tham gia giao tiếp không cần
tuân theo những lễ nghi, quy tắc nhất định như trong giao tiếp quy thức. Người
tham gia giao tiếp trong hoàn cảnh này có thể thoải mái, tự do dùng lời nói theo thói
quen, theo sở thích cá nhân của mình. Ngôn ngữ ở đây ít có sự gọt giũa, trau chuốt
theo chuẩn mực. Giao tiếp phi quy thức thông thường diễn ra ở gia đình, thôn xóm

hay các nơi công cộng như ở chợ, bến xe,...
- Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc giao tiếp. Nhân vật
giao tiếp gồm người phát ngôn (người nói) và người tiếp nhận phát ngôn (người
nghe). Hai vai này có thể hoán đổi cho nhau trong cuộc giao tiếp.
Theo [2] trong hoạt động giao tiếp, mối quan hệ giữa những người tham gia
giao tiếp cũng chi phối lớn tới ngôn ngữ được sử dụng. Mối quan hệ giữa những
người tham gia giao tiếp gồm: quan hệ xã hội, quan hệ họ hàng ruột thịt, quan hệ
tình cảm. Thông thường, tiếng nói của những người có cương vị cao hơn sẽ thể hiện
quyền lực mạnh hơn. Ngược lại, tiếng nói của những người có quyền lực thấp sẽ thể
hiện sự lễ phép, nhún nhường. Những người quen biết, thân thiết thì có thể nói năng
tự nhiên, thoải mái; giữa những người xa lạ, giao tiếp mang tính lịch sự, xã giao thì
nói năng cần ý tứ, tránh thất thố, tự nhiên thái quá,...
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về cảnh huống ngôn ngữ - tộc người ở Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm về cảnh huống ngôn ngữ
Cảnh huống ngôn ngữ-tộc người ở Việt Nam đã được quan tâm từ khá sớm
nên đến nay đã có rất nhiều cách định nghĩa về "cảnh huống ngôn ngữ". Các định
nghĩa về cảnh huống ngôn ngữ cũng chưa thực sự đạt đến sự đồng nhất của nhiều

12


nhà khoa học.
Tác giả Nguyễn Như Ý cho rằng: Cảnh huống ngôn ngữ là "toàn bộ các ngôn
ngữ hoặc toàn bộ các hình thức tồn tại của một ngôn ngữ có các quan hệ tương hỗ về
mặt lãnh thổ và xã hội, có sự tác động qua lại với nhau về mặt chức năng trong một
vùng địa lí hoặc một thể thống nhất về chính trị-hành chính nhất định" [28, tr.126].
Tác giả Nguyễn Văn Lợi quan niệm: "cảnh huống ngôn ngữ là toàn bộ các
hình thức tồn tại (bao gồm cả các phong cách) của một ngôn ngữ, hay toàn bộ các

ngôn ngữ trong một quan hệ tương hỗ về lãnh thổ, xã hội và sự tương tác về mặt
chức năng, trong giới hạn của một khu vực địa lý nhất định hay một thực thể hành
chính - chính trị. Cảnh huống ngôn ngữ được miêu tả theo các tiêu chí định lượng,
định chất và tiêu chí định giá" [19, tr.19-29].
Trong cuốn "Ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam" (Những vấn
đề chung), tác giả Nguyễn Hữu Hoành đã căn cứ vào thực tiễn nghiên cứu và các
cách hiểu của các nhà khoa học đi trước, đưa ra quan điểm riêng của mình: "Cảnh
huống ngôn ngữ cần được hiểu là toàn bộ các hình thái tồn tại (bao gồm cả phong
cách) của ngôn ngữ đang hành chức trên một vùng lãnh thổ nhất định (một quốc gia
hay một khu vực), được định hình trong tiến trình lịch sử lâu dài, trong các mối quan
hệ tương tác lẫn nhau về mặt xã hội, chức năng, cội nguồn, loại hình và tiếp xúc”
[10, tr.63-64]. Quan điểm này thể hiện tương đối đầy đủ về khái niệm cảnh huống
ngôn ngữ.
Vậy, nói đến cảnh huống ngôn ngữ là nói đến các hình thái tồn tại của ngôn
ngữ đang hành chức trên một vùng lãnh thổ nhất định. Ngoài ra, nói đến cảnh huống
ngôn ngữ còn nói đến các mối quan hệ tương tác lẫn nhau về mặt xã hội, chức năng,
cội nguồn và loại hình tiếp xúc của các ngôn ngữ này.
Các thông số, tiêu chí của cảnh huống ngôn ngữ
Theo một số nhà nghiên cứu đi trước, cảnh huống ngôn ngữ bao gồm nhiều
thông số, tiêu chí. Tùy theo từng tác giả mà các thông số này có tên gọi khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Văn Lợi [19, tr.19-29], cảnh huống ngôn ngữ được miêu
tả theo ba nhóm tiêu chí: định lượng, định chất và định giá. Nhóm định lượng gồm

13


các tiêu chí: số lượng các thứ tiếng, số lượng người nói mỗi thứ tiếng trong quan hệ
với số lượng chung của cư dân khu vực đó, số lượng các phạm vi giao tiếp của mỗi
ngôn ngữ trong quan hệ với số lượng chung các phạm vi giao tiếp, số lượng các ngôn
ngữ nổi trội về mặt chức năng. Nhóm định chất gồm các tiêu chí: đặc điểm của các

thứ tiếng ở khu vực đó, quan hệ về cấu trúc và cội nguồn của mỗi ngôn ngữ, tính chất
cân bằng về chức năng của các ngôn ngữ, tính chất cân đối - phi cân đối về chức năng
của các thứ tiếng, đặc điểm của ngôn ngữ nổi trội trong phạm vi quốc gia. Nhóm định
giá gồm các tiêu chí liên quan đến sự đánh giá của người bản ngữ hay người nói ngôn
ngữ khác về tính hữu ích, giá trị văn hóa của các ngôn ngữ.
Tác giả Nguyễn Văn Khang [15, tr.60] cho rằng có ba tiêu chí tổng hợp về
cảnh huống ngôn ngữ là: tiêu chí về lượng, tiêu chí về chất, tiêu chí về thái độ. Cũng
theo tác giả, tiêu chí về lượng gồm các thông số: số ngôn ngữ trong xã hội đa ngữ..,
số lượng người sử dụng từng ngôn ngữ, biến thể ngôn ngữ...Tiêu chí về chất bao gồm
các thông số: các ngôn ngữ trong xã hội đa ngữ có phải là ngôn ngữ thực sự hay chỉ
là biến thể của ngôn ngữ và ngược lại; quan hệ giữa các ngôn ngữ, biến thể về cấu
trúc - cội nguồn; ... Tiêu chí về thái độ ngôn ngữ thể hiện ở thái độ đối với ngôn ngữ
hay biến thể ngôn ngữ của cộng đồng mình hay cộng đồng khác.
1.2.1.2. Vài nét về đặc điểm cảnh huống các ngôn ngữ ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ. Theo các tài liệu chính
thức, Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống và sử dụng các ngôn ngữ thuộc 5 ngữ
hệ khác nhau là: Nam Á, Tai - Ka Đai, Nam Đảo, Hmông - Dao, Hán - Tạng.
Với việc sử dụng các hệ ngôn ngữ đa dạng như vậy, Việt Nam thực sự là thiên
đường nghiên cứu cho các nhà ngôn ngữ học. Tuy có sự đa dạng về nguồn gốc nhưng
xét về mặt loại hình thì tất cả các ngôn ngữ ở Việt Nam đều thuộc loại hình ngôn ngữ
đơn lập. Nhìn trên đại thể, bức tranh ngôn ngữ của nước ta rất phong phú (với khoảng
trên dưới 100 ngôn ngữ khác nhau). Đây là kết quả của một quá trình hình thành và
biến đổi của các ngôn ngữ theo hai hướng: phân li và quy tụ. Phân li là quá trình từ
một ngôn ngữ gốc chia tách ra thành các phương ngữ hay các ngôn ngữ mới. Quy tụ
là quá trình xích lại gần nhau của các phương ngữ hay ngôn ngữ do tiếp xúc lâu dài.

14


Theo kết quả điều tra dân số 01/4/2009, dân tộc Kinh có 73.594.427 người

chiếm 85,7% dân số. 53 dân tộc còn lại chỉ chiếm 14,3%. Cư dân của 53 dân tộc còn
lại cũng có sự phân bố không đồng đều. Với 54 dân tộc anh em cùng chung sống, số
lượng người ở mỗi dân tộc có sự chênh lệch nhau rất nhiều vì thế nên vị thế, vai trò,
sự sinh tồn và phát triển của các ngôn ngữ cũng bị ảnh hưởng rất lớn. Với số người sử
dụng đông, TV từ lâu đã được các dân tộc tự nguyện chọn làm phương tiện giao tiếp
chung. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại là một số dân tộc do có quá ít người sử dụng
TMĐ nên ngôn ngữ của họ có thể đứng trước nguy cơ bị mai một. Ngôn ngữ của các
dân tộc phân bố đan xen nhau, tiếp xúc với nhau nên trạng thái đa ngữ, song ngữ là
rất phổ biến.
1.2.2. Khái quát chung về một số dân tộc nói các ngôn ngữ Ba-na Nam và
đặc điểm các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam ở Việt Nam
1.2.2.1. Đặc điểm phân bố ngôn ngữ - tộc người
Như đã nói, các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam thuộc tiểu chi Ba-na, chi Môn Khơ-me, ngữ hệ Nam Á. Các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ Ba-na Nam gồm: Chơro, Cơ-ho, Mạ, Mnông, Xtiêng. Các dân tộc này thường không tập trung tại những địa
bàn cư trú nhất định mà sống trải dài trên nhiều tỉnh thành. Điển hình là dân tộc Chơro cư trú tại 36 trên 63 tỉnh, thành phố. Một dân tộc cũng thường bao gồm nhiều
nhóm địa phương và ngôn ngữ của mỗi dân tộc lại có nhiều phương ngữ khác nhau.
Tiếng Cơ-ho gồm các phương ngữ: Srê, Cơ-dòn, Lách/Lat, Nộp, Chil. Thậm
chí riêng trong cộng đồng Chil lại bao gồm nhiều nhóm khác nhau: Chil Lâm Hà,
Chil Đức Trọng, Chil Lạc Dương.
Tiếng Mnông bao gồm các phương ngữ như: Mnông trung tâm (Preh, Biạt,
Bu Nơ, Bu-rung, Đih Brih, Bu Đăng), Mnông Đông (Rơ lơm/R'lâm, Gar, Kuênh,
Chil), Mnông Nam (Bu-nông, Piâng, Bu Đíp).
Dân tộc Xtiêng cũng bao gồm nhiều nhóm tộc người khác nhau. Ngoài các
nhóm tộc người Xtiêng ở Bình Long, Phước Long, Lộc Ninh, Bù Đốp,… còn có
cộng đồng người Tà-mun cư trú rải rác ở các địa phương, như: Tà-mun ở Tân Châu
và thị xã (Tây Ninh), Tà-mun ở Hớn Quản (Bình Phước), Tà-mun ở huyện Dầu

15


Tiếng (Bình Dương).

Dân tộc Mạ cũng gồm nhiều nhóm địa phương như: Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ
Krung, Mạ Ngăn,... Người Mạ cư trú chủ yếu ở các huyện: Bảo Lâm, Đạ Tẻ, Đạ
Hoai. Đến nay, chưa thấy một công trình nào nghiên cứu về tiếng Mạ được công
bố1. Do vậy tiếng Mạ có thể cũng bao gồm nhiều phương ngữ khác nhau.
Dân tộc Chơ-ro cư trú tập trung ở tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và Bình
Thuận. Tại Đồng Nai, người Chơ-ro sống tập trung ở Long Khánh, Xuân Lộc, Định
Quán. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, người Chơ-ro sống tập trung tại hai huyện Châu Đức
và Xuyên Mộc. Còn tại Bình Thuận, người Chơ-ro sống chủ yếu tại các huyện Đức
Linh và Tánh Linh.
Mức độ nghe hiểu các phương ngữ của mỗi dân tộc cũng khác nhau. Thông
thường nam giới hay đi làm ăn xa nên khả năng nghe hiểu các phương ngữ của ngôn
ngữ mình sẽ tốt hơn phụ nữ. Trong các dân tộc này, số người biết chữ dân tộc mình
chiếm tỉ lệ rất thấp. Có dân tộc còn không biết chữ của dân tộc mình vì chữ viết tuy đã
được xây dựng nhưng lại chưa được phổ biến giảng dạy trong các trường học.
1.2.2.2. Đặc điểm xã hội - ngôn ngữ học
Khu vực cư trú của các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ nhóm Ba-na Nam nằm
tập trung chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng và một số tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ, như:
Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Cư dân sử
dụng các ngôn ngữ này ở nước ta có 422.549 người, trong đó: Chơ-ro: 26.855
người; Cơ-ho: 166.112 người, Xtiêng: 85.436 người, Mạ: 41.405 người, Mnông:
102.741 người (theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở 01/4/2009).
Từ sau năm 1975, sự phân bố các dân tộc sử dụng các ngôn ngữ nhóm Ba-na
Nam đã có sự thay đổi. Cư dân nhiều dân tộc thiểu số ở phía bắc, ven biển Trung và
Đông Nam Bộ đã di cư vào khu vực này để xây dựng kinh tế. Quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa cùng các nhân tố xã hội khác đã kéo theo sự
thay đổi đời sống của cư dân. Các dân tộc sống đan xen nhau, thậm chí sự đan xen
Năm 1981, trong chương trình hợp tác Việt Xô đã nghiên cứu, thu thập tư liệu về tiếng Mạ ở huyện Đạ
Hoai nay là các huyện Đạ Hoai, Đạ Tẻ và Cát Tiên) ở Lâm Đồng. Song các tư liệu về tiếng Mạ chưa được
công bố.
1


16


còn diễn ra ở các đơn vị địa chính nhỏ hơn là xã, làng. Điều đó làm cho hiện tượng
phân bố phân tán, đan xen giữa các ngôn ngữ ngày càng gia tăng. Do đó, tình trạng
hôn nhân khác tộc ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều dân tộc. Sự phân bố xen cài
giữa các dân tộc với nhau và với người Kinh cùng với quá trình tiếp xúc lâu dài
cũng đã tạo nên hiện tượng song ngữ dân tộc - Việt. Một số dân tộc đã có thể sử
dụng thành thạo hai, ba thứ tiếng. Họ có thể sử dụng tốt TMĐ, TV, thậm chí tiếng
của một vài dân tộc khác. Ngoài mặt tích cực, sự phân bố phân tán các dân tộc cũng
dẫn đến tình trạng một số ngôn ngữ có quá ít người sử dụng có thể bị mai một và
đứng trước nguy cơ bị tiêu vong.
1.2.2.3. Vài nét về dân tộc Cơ-ho
Dân tộc Cơ-ho có 166.112 người, cư trú tại 46 trên 63 tỉnh, thành phố nhưng
chủ yếu cư trú ở tỉnh Lâm Đồng. Dân tộc Cơ-ho bao gồm nhiều nhóm địa phương
phát triển khác nhau: Cơ-ho Srê, Cơ-ho Nộp, Cơ-ho Cơ-dòn, Cơ-ho Chil, Cơ-ho
Lat. Nhóm Cơ-ho Srê là nhóm có số dân cư đông nhất trong cộng đồng Cơ-ho. Họ
có mặt ở hầu hết các huyện của tỉnh Lâm Đồng nhưng cư trú tập trung nhất ở Di
Linh. Người Nộp ở xã Sơn Điền và Gia Bắc huyện Di Linh. Người Cơ-dòn chủ yếu
ở xã Tân Thượng huyện Di Linh. Người Lat/Lach chủ yếu ở huyện Lạc Dương.
Người Chil tập trung ở Đức Trọng, Lâm Hà và Đam Rông.
Kinh tế của người Cơ-ho chủ yếu là trồng trọt. Tùy theo điều kiện địa hình
nơi cư trú mà mỗi nhóm có những lối canh tác khác nhau. Nhóm Srê trồng lúa nước
trên những vùng đất trũng. Từ "Srê" trong tiếng Cơ-ho có nghĩa là "ruộng" và theo
đồng bào thì nhóm Srê đã được gọi tên bằng đặc điểm đó. Nhóm Chil và các nhóm
khác làm rẫy. Cây lương thực chính của người Cơ-ho là lúa. Ngoài ra, họ còn trồng
các loại rau (bầu, bí, bắp, đậu,...) ở vườn quanh nhà. Một số nơi đã xuất hiện những
mảnh vườn chuyên canh như chuối, mít, cà phê. Người Cơ-ho chăn nuôi theo
phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng

nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ. Ngoài trồng trọt và chăn nuôi,
người Cơ-ho còn săn bắt thú rừng, hái lượm để cải thiện cuộc sống. Nghề thủ công
phổ biến là đan lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt,... Tùy theo đặc

17


điểm từng vùng, từng địa bàn cư trú và những điều kiện lịch sử khác nhau mà giữa
các nhóm Cơ-ho có những chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế xã hội.
Đơn vị tổ chức xã hội của người Cơ-ho là Làng/bon. Đó vừa là một đơn vị tổ
chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế. Làng mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa
trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu
Làng là chủ làng (kuang bon). Chủ làng là hiện thân của truyền thống và là một yếu
tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng làng trong xã hội Cơ-ho.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ-ho tồn tại hai hình thức gia đình
theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ
động trong hôn nhân, sau hôn lễ người đàn ông về ở nhà vợ. Theo xu thế phát triển,
tổ chức gia đình lớn của người Cơ-ho dần tan rã thay vào đó là gia đình nhỏ xuất
hiện và ngày càng phổ biến. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên vợ
đã được xác lập và duy trì ở người Cơ-ho. Con cái lấy họ theo mẹ. Do trình độ phát
triển xã hội còn thấp, người Cơ-ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực
siêu nhiên quyết định. Đến nay, các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ-ho
vẫn còn được bảo lưu. Bên cạnh đó, một bộ phận khá lớn người Cơ-ho đã theo đức
tin Kitô giáo được du nhập từ bên ngoài, bao gồm cả Công giáo (Rôma) và Tin
lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác đã được dịch ra tiếng Cơ-ho. Các
nhà truyền giáo đã sử dụng ngôn ngữ đó để giảng đạo.
Chữ viết của người Cơ-ho xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Bộ chữ này được
xây dựng bằng hệ chữ Latin. Mặc dù được cải tiến nhiều lần và đã từng được dùng
để dạy trong một số trường học nhưng chữ Cơ-ho chưa phổ cập. Nền văn học nghệ
thuật dân gian Cơ-ho rất phong phú.

Người Cơ-ho tổ chức ăn tết khi đã thu hoạch xong mùa màng. Trong các
ngày lễ tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Cuộc sống của các cộng đồng
dân tộc Cơ-ho ngày càng ổn định và đạt được một số thành tích đáng kể.
1.2.2.4. Vài nét về dân tộc Xtiêng
Dân tộc Xtiêng cư trú lâu đời ở các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh;
sống xen kẽ với người Việt, Khơ me, Chăm, Mnông. Ở Việt Nam, người Xtiêng có

18


dân số 85.436 người, cư trú ở 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Họ cư trú tập trung
nhất tại các huyện Bình Long, Phước Long, Bù Đăng, Bù Đốp, Lộc Ninh (tỉnh Bình
Phước). Ngoài cộng đồng tộc người chính là Xtiêng, dân tộc Xtiêng còn có nhóm
tộc người Tà-mun phân bố ở huyện Hớn Quản (Bình Phước), ở Dầu Tiếng (Bình
Dương), Tân Châu (Tây Ninh).
Theo truyền thuyết, người Xtiêng vốn là anh cả đã nhường vùng biển thuận
lợi lại cho em lên ở vùng cao mang theo nghề làm thuốc. Người Xtiêng có những
tên gọi khác nhau như: Xa Điêng, Bu Lơ, Bu Đíp, Bu Đêh, Bu Lanh,... Tộc danh
Xtiêng cũng làm băn khoăn nhiều người về ý nghĩa của nó. Tiếng nói của người
Xtiêng gần gũi với tiếng nói các dân tộc Mnông, Mạ,... Dựa vào hình thái kinh tế,
có thể chia dân tộc này thành hai nhóm. Nhóm Bù Đêh ở vùng thấp, biết làm ruộng
nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ
yếu. Hoạt động kinh tế của người Xtiêng nói chung là làm rẫy. Thực phẩm chủ yếu
là lúa gạo. Hái lượm, săn bắt và kiếm cá đưa lại nguồn lợi quan trọng, thiết thực cho
họ. Nghề chăn nuôi mang tính chất hỗ trợ. Nghề làm vườn vẫn chưa thực sự được coi
trọng. Bên cạnh trồng trọt thì người Xtiêng còn có nghề phụ là dệt vải và đan lát.
Xã hội Xtiêng được tổ chức theo từng đơn vị làng độc lập với nhau. Làng,
tiếng Xtiêng là poh nhưng không sử dụng, có nơi gọi là sóc theo người Khơ-me,
hay gọi là bon theo người Mnông. Mỗi cặp vợ chồng và con cái là một "bếp" (nak).
Nhiều bếp hợp thành một nhà (yau). Mỗi làng xưa gồm vài nhà. Làng là đơn vị bao

trùm và nổi bật. Già làng và các bô lão có vai trò quan trọng đặc biệt trong làng.
Tập tục hôn nhân giữa các nhóm cũng có những điểm khác nhau. Nếu nhà
trai có đủ của cải sính lễ, cô dâu về ở đằng chồng nhưng thực tế phần đông phải ở rể
do chưa có đủ đồ dẫn cưới theo yêu cầu nhà gái. Ở Vùng Bình Long, chàng rể luôn
phải về ở nhà vợ.
Người Xtiêng quan niệm "thần linh" cũng có rất nhiều: thần sấm sét, thần
lúa, thần mặt trời, thần núi. Trong các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói
chung được nhắc đến để cầu xin, hay tạ ơn,...Dân tộc Xtiêng có rất nhiều lễ cúng
lớn nhỏ khác nhau. Lễ hội đâm trâu là lớn nhất được tổ chức để mừng được mùa

19


×