Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM HIỆN NAY và NHỮNG vấn đề đặt RA đối với CÔNG tác tư TƯỞNG lý LUẬN TRONG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.71 KB, 39 trang )

CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG,
LÝ LUẬN TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

1


Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta là duy nhất đúng đắn, vừa đúng với lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa đáp ứng
được đòi hỏi của cách mạng Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ năm qua, cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta đã và đang đạt được những thành tựu rực rỡ. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “với những thắng lợi giành
được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành
một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan
hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và thế giới.
Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.”1Tổng kết 30 năm đổi mới, tại Đại hội Đại
biểu toàn quuốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Ba mươi năm qua, với
sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, công cuộc đổi mới ở nước
ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng
hoảng, kinh tế-xã hội có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng
cường; chính trị-xã hội ổn định. Quốc phịng và an ninh được giữ vững. Vị thế
nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
triển vọng tốt đẹp”2. Với những thành tựu đó, ngày càng chứng tỏ con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. Song, trên thực tế khơng ít
những quan điểm của giai cấp tư sản, đã tìm mọi cách phủ nhận con đường đi


lên chủ nghĩa xã hội của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn. Chúng cho
rằng, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái
1
2

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr.21
Báo cáo Chính trị của BCHTW tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tháng 4/2006. tr.10-11

2


với tiến trình lịch sử tự nhiên; Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là đi vào ngõ
cụt của lịch sử; Việt Nam đi theo chủ nghĩa tư bản mới là phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại; hoặc Việt Nam đi theo con đường thứ 3, đó là chủ
nghĩa xã hội dân chủ. Những quan điểm đó là hồn tồn sai trái. Bởi, sự lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phù
hợp với qui luật khách quan và điều kiện, hoàn cảnh nước ta.
Theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử sản xuất
vật chất của nhân loại đã hình thành mối quan hệ khách quan, phổ biến: Một
mặt, con người phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên đó,
quan hệ này được biểu hiện ở lực lượng sản xuất; mặt khác, con người phải
quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất, quan hệ này được biểu hiện ở
quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt đối
lập biện chứng của một thể thống nhất không thể tách rời - phương thức
sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Và lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp
nhau của các phương thức sản xuất; phương thức sản xuất cũ, lạc hậu tất
yếu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong mỗi
phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trị quyết định. Lực
lượng sản xuất chẳng những là thước đo năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình cải tạo tự nhiên, nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của

xã hội loài người, mà còn làm thay đổi quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất, thay đổi các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, nếu lực lượng sản xuất là cái cấu thành nền tảng vật chất
của toàn bộ lịch sử nhân loại, thì quan hệ sản xuất là cái tạo thành cơ sở
kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động sản xuất tinh thần của
con người, của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những thiết
chế tương ứng trong xã hội.

3


C.Mác đã đưa ra kết luận rằng, xã hội loài người phát triển trải qua
nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Rằng tiến bộ xã hội là sự vận động
theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái
kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, mà gốc rễ sâu
xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Rằng sự vận
động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là do tác động của các
quy luật khách quan. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất bộ "Tư bản"
C.Mác viết: "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên"3. Nhắc lại quan niệm đó của C.Mác, Ph. Ăngghen
khẳng định: "Lịch sử từ xưa đến nay đã tiến triển theo kiểu một quá trình tự
nhiên, và về căn bản, cũng bị chi phối bởi quy luật vận động như nhau" 4. Dẫu
luôn giữ quan niệm coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên, song C.Mác cũng cho rằng "nó có thể rút ngắn và
làm dịu bớt được những cơn đau đẻ" 5. Điều đó có nghĩa rằng q trình lịch sử
- tự nhiên chẳng những có thể diễn ra tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này
lên hình thái kinh tế xã hội khác, mà cịn có thể diễn ra bằng con đường bỏ
qua một giai đoạn phát triển nào đó, bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào
đó trong những điều kiện khách quan và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Những tư tưởng cơ bản đó trong học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội, chính là cơ sở lý luận cho phép chúng ta khẳng định, sự lựa chọn
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là hoàn toàn đúng đắn,
phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc ta,
của thời đại.

C. Mác-Ăngghen tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 23, tr. 21
C. Mác-Ăngghen tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1984, tập VI, tr. 728
5 C. Mác-Ăngghen tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 23, tr. 21
3
4

4


Bởi lẽ, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam diễn ra cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Thực tế lịch sử đã chứng minh các con
đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và khuynh hướng chính trị tư
sản đều bế tắc và hoàn toàn bất lực trước sự tồn vong của vận mệnh dân tộc.
Yêu cầu lịch sử đặt ra là cần phải có một hệ tư tưởng mới, một học thuyết
chính trị tiên tiến đáp ứng được nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, soi sáng
con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Trước bối cảnh đó, nhiều
người Việt Nam đi ra nước ngồi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cuộc gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa MácLênin là sự kiện đánh dấu việc nhân dân Việt Nam tìm thấy con đường cứu nước,
con đường cách mạng của mình, có thể khái quát trên một số phương diện sau:
Một là, một trong những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác đã làm
rõ, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội, trong đó cộng sản chủ nghĩa là một chế độ chính trị - xã
hội bảo đảm cho nhân dân các nước có được nền độc lập vững chắc, cuộc
sống tự do và hạnh phúc; lý tưởng cộng sản thực sự là lý tưởng nhân đạo chủ
nghĩa. Từ việc tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân và cách

mạng dân chủ tư sản giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, học thuyết Mác Lênin đã phân tích mối quan hệ giữa cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và
cách mạng xã hội chủ nghĩa khơng có bức tường ngăn cách. Rằng, thắng lợi
của cách mạng dân chủ nhân dân tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa .
Luận điểm trên, là cơ sở quan trọng để Nguyễn Ái Quốc xác định lập
trường quan điểm cách mạng của mình và quyết định lựa chọn con đường giải
phóng dân tộc ở Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vơ sản. Bởi vì, Người
nhận thức được rằng: "Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ

5


nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới" 6; "Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác- con đường cách mạng vô sản" 7. Để
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phải tiến hành cách
mạng triệt để, giành chính quyền về tay nhân dân. Người chỉ rõ: "Chúng ta đã
hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh
rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế
dân chúng mới được hạnh phúc"8.
Có thể khẳng định rằng, lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở quan trọng để những người cộng sản Việt Nam, ngay từ
năm 1930 trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, đã sớm xác định đường lối
chiến lược tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo hướng tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ: “Cách mạng Việt Nam là
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" 9.
Điều này thể hiện sự chủ động, sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin ngay từ khi cách mạng Việt Nam đang trong giai đoạn đầu
của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đề cập đến vấn đề này, Giáo sư Nhật
Bản Shingo Shibata viết: "Nói chung, người ta thường cho rằng chỉ có thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện hồ bình, chỉ có thể xây dựng

chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Theo tôi được biết, Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng đầu tiên trong các đảng Mácxít trên thế giới áp
dụng lý luận này"10. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu
nhất quán của Đảng và nhân dân ta trong hơn nửa thế kỷ qua. Việc giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là động lực to lớn
cho việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr.416
Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 9, tr.314
8 Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.270
9 Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.2
10 tư tưởng Hồ Chí Minh về Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2003,
tr.117
6
7

6


dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng
ta đã khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh"11.
Hai là, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
chỉ rõ, sự phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Nền sản xuất
cơng nghiệp hiện đại được hình thành và phát triển trong lịng xã hội tư bản
chính là nhân tố phủ định xã hội tư bản. Giai cấp công nhân là giai cấp đứng ở
vị trí trung tâm, có vai trò là lực lượng chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo quá
trình phủ định xã hội tư bản, từng bước xây dựng xã hội mới - xã hội cộng sản
chủ nghĩa.

Đồng thời, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ ra những tiền đề, điều
kiện của sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là, cuộc cách mạng ấy phải đặt dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nhân dân lao
động là lực lượng chủ yếu của cuộc cách mạng. Thành quả của cuộc cách
mạng là nhà nước chuyên chính vơ sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin khơng những khẳng định sự tất yếu
khách quan của việc xã hội loài người sẽ đi tới chủ nghĩa cộng sản, mà còn
chỉ ra các điều kiện bảo đảm cho cuộc cách mạng đó thắng lợi.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: "Cách
mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt, ông Các Mác là
kinh tế học cách mệnh, ông ấy nghiên cứu rõ ràng tư bản chủ nghĩa, đế quốc

11

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, sđd, tr.83

7


chủ nghĩa, giai cấp đấu tranh ở đâu mà sinh ra, lịch sử nó thế nào, hiện tượng
nó thế nào, và kết quả nó sẽ ra thế nào"12.
Trên cơ sở giác ngộ lập trường, quan điểm vô sản và với sự hiểu biết sâu
sắc tình hình xã hội Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức đúng đắn mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam kể từ khi thực dân Pháp xâm lược. Người
đã chỉ rõ cho nhân dân Việt Nam thấy được kẻ thù của mình là thực dân Pháp
và địa chủ phong kiến tay sai cần phải đánh đổ. Đồng thời, Người đã cụ thể
hố vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp xã hội trong cuộc cách mạng ở
nước ta. Người viết: "Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức cho nên nó cách
mệnh. Bây giờ tư bản đi áp bức công- nông, cho nên cơng- nơng là người làm

chủ cách mệnh... cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp
bức, song không cực khổ bằng công- nông; ba hạng người ấy chỉ là bầu bạn
cách mệnh của công- nông thôi"13.
Vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, với đội tiên phong là Đảng cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
xác định lực lượng cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đồng thời chỉ rõ hạt
nhân lãnh đạo cuộc cách mạng là Đảng cộng sản. Người chỉ rõ: "Muốn cách
mệnh thành cơng thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có đảng vững bền, phải
bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại, là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin"14. Vấn đề Đảng lãnh đạo đã được quán triệt trong Cương lĩnh
cách mạng đầu tiên của Đảng: "Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, giai
cấp vô sản phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất

Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1,
tr.19,23,39
13 Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.4
14 Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.4
12

8


cẩn thận, khơng khi nào nhường một chút lợi ích gì của cơng- nơng mà đi vào
con đường thoả hiệp"15.
Điểm sáng tạo của Đảng ta trong vận dụng học thuyết Mác - Lênin, về
xác định lực lượng cách mạng, là đã phân biệt rõ các thang bậc giai cấp, tầng
lớp xã hội trên cơ sở lợi ích và thái độ chính trị của giai cấp, tầng lớp xã hội
trong cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Từ đó, hình thành quan

điểm giai cấp đúng đắn, tạo cơ sở xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập
hợp mọi lực lượng có thể để đánh bại mọi kẻ thù của dân tộc.
Ba là, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: Trong xã hội có giai cấp, giai
cấp thống trị, áp bức về chính trị, tinh thần xã hội và chiếm đoạt kết quả lao
động của giai cấp khác. Vì vậy, giai cấp bị trị khơng cịn con đường nào khác
ngoài con đường đấu tranh chống lại sự áp bực, bóc lột đó. Giai cấp thống trị
bao giờ cũng sử dụng hệ thống những công cụ bạo lực để chống lại cuộc đấu
tranh của các giai cấp bị áp bức. Do đó, giai cấp bị áp bức phải dùng bạo lực
cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Những người cộng sản cơng
khai tun bố rằng, mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo
lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có, mặc cho các giai cấp thống trị run sợ
khi nghĩ đến một cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa"16.
Thấm nhuần phương pháp cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác-Lênin,
trong các bài viết và tác phẩm của mình, từ những năm 1925 - 1929, Nguyễn
Ái Quốc đã thể hiện quan điểm cách mạng bạo lực trong cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ ở Việt Nam. Đồng thời, Người còn chỉ ra sai lầm của các phương
pháp cách mạng như: cải lương hoặc xúi dục dân chúng bạo động mà khơng
bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường.
Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ chức quần chúng
15
16

Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.15
C. Mác-Ăngghen: Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Nxb, sự thật, Hà Nội, 1983, tr.100

9


cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích của cách mạng, biết

đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình; làm cách mạng phải biết
cách làm, phải có mưu chước, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc
tổng khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân. Quan điểm cách mạng bạo lực
trên đây đã được quán triệt trong Chánh cương vắn tắt của Đảng. Đó là, dùng
bạo lực cách mạng của quần chúng để "Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong
kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập"17.
Bốn là, chủ nghĩa Mác-Lênin đã làm sáng tỏ vai trị lịch sử thế giới của
giai cấp cơng nhân là xoá bỏ chế bộ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người
bóc lột người, giải phóng giai cấp mình, giải phóng nhân dân lao động và tồn
thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản của giai cấp công nhân là cuộc
đấu tranh mang qui mô quốc tế; sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là sứ
mệnh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Để giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân phải liên kết, tập hợp
lực lượng trên qui mô quốc tế không chỉ trong phạm vi giai cấp mình mà cịn
phải đồn kết với các dân tộc bị áp bước theo khẩu hiệu của chủ nghĩa MácLênin: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại".
Nhận thức sâu sắc quan điểm đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác-Lênin
và thông qua thực tiễn hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc hiểu
rõ tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách mạng Việt Nam.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người nhấn mạnh nhiều lần đến vấn đề
đoàn kết quốc tế: "Quốc tế nghĩa là người trong thế giới, bất kỳ nước nào, dân
tộc nào, có một mục đích như nhau, hợp sức nhau để làm cho đến mục đích
ấy. Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh
trong thế giới, phải đoàn kết với cộng sản thanh niên quốc tế, với phụ nữ quốc
17

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, sdd, tập 2, tr.2

10



tế, với cơng nhân quốc tế, có nghĩa là, cách mạng Việt Nam phải thực hiện
đoàn kết và liên minh với các lực lượng quốc tế; ai làm cách mạng trong thế
giới đều là đồng chí của dân An Nam cả, nhưng muốn người ta giúp cho, thì
trước hết mình phải tự giúp lấy mình "18.
Tư tưởng đồn kết quốc tế trên, đã được khẳng định nhất quán trong
Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt của Đảng năm 1930: "Trong khi
tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền
và thực hành liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp công nhân thế
giới, nhất là vô sản giai cấp công nhân Pháp"19.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam kể từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay đã
chứng tỏ rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận để
nhân dân Việt Nam lựa chọn đúng đắn con đường cách mạng của mình. Đồng
thời là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và nhân dân ta.
Trong điều kiện đất nước ta hiện nay, thế và lực đã lớn mạnh lên nhiều.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Đất nước ta còn
nhiều tiềm năng to lớn về tài nguyên, người lao động. Nhân dân ta có phẩm
chất tốt đẹp. Tình hình chính trị – xã hội ổn định. Mơi trường hồ bình, sự
hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới đang tạo điều
kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực.
Đồng thời, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn
tham nhũng và tệ quan liêu; diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây
ra, đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn
nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nước ta vẫn là nước kinh tế kém
18
19

Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, sđd, tập 1, tr.40,55,64

Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện Đảng, toàn tập, sđd, tập 2, tr.4,5

11


phát triển. Mức sống nhân dân còn thấp. Trong khi đó, cuộc cạnh tranh
kinh tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta khơng nhanh chóng vươn lên thì
càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và
nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển, khơng cịn đường
nào khác phải đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước.
Trước những năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã xác
định cơng nghiệp hố là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Song, về nhận thức, chúng ta đã đặt công nghiệp hố xã hội chủ
nghĩa ở vị trí gần như đối lập hồn tồn với cơng nghiệp hố tư bản chủ
nghĩa. Trong lựa chọn bước đi, đã có lúc chúng ta thiên về ưu tiên phát triển
cơng nghiệp nặng, coi đó là giải pháp xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, mà không coi trọng đúng mức việc phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ. Cơng nghiệp hố cũng được hiểu một cách giản đơn là
quá trình xây dựng một nền sản xuất được cơ khí hố trong tất cả các ngành
kinh tế quốc dân.
Quan niệm giản đơn như vậy đã đưa đến tình trạng nền công nghiệp
nước ta được đầu tư khá lớn, nhưng hiệu quả thấp. Nông nghiệp nước ta nhiều
năm lâm vào khủng hoảng. Thế nhưng, trong những năm đầu của thời kỳ đổi
mới, khi khơng làm "cơng nghiệp hố" theo kiểu cũ đó, đã có người lại say
sưa với "cất cánh", "hố rồng" và "hội nhập", mà qn rằng cơng nghiệp hố
chính là bước đi tất yếu của q trình phát triển.
Ngày nay, trên phạm vi tồn thế giới, cơng nghiệp hoá vẫn đang được
coi là phương hướng chủ đạo phải trải qua của các nước đang phát triển. Đối
với nước ta, khi những tư tưởng cơ bản trong học thuyết Mác về hình thái
kinh tế - xã hội được nhận thức lại một cách khoa học và sâu sắc với tư cách

là cơ sở lý luận của sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, thì một
mặt, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp này trong tất cả các lĩnh vực của đời

12


sống xã hội để nhanh chóng tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại cho chế độ xã
hội mới. Ở đây “cơng nghiệp hố thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó khơng chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ
trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch
cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng
nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Cơng nghiệp
hố phải đi đơi với hiện đại hố, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ
với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát
triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới"20.
Mặt khác, chúng ta phải chú trọng xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết
của kinh tế Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ
được thực hiện đồng thời, chúng luôn tác động, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Bởi lẽ, "nếu cơng nghiệp hố, hiện đại hố tạo nên lực lượng sản
xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp"21.
Như vậy, từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về kết cấu chỉnh thể
của hình thái kinh tế - xã hội với tư cách là sự thống nhất biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
chúng ta hoàn tồn có đủ cơ sở lý luận để khẳng định rằng: sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện,
sâu sắc và triệt để tác động sâu xa đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, để
xây dựng hình thái kinh tế - xã hội mới ở nước ta. Nhiệm vụ lớn lao mà cuộc
cách mạng đó phải thực hiện là "tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất kỹ thuật, về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng
20
21

Văn kiện Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.27
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.24

13


tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền
vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công
bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, sinh thái"22.
Trong thời đại ngày nay, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước khơng
thể khơng dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học và công nghệ hiện đại.
Hơn một trăm năm trước đây, C.Mác đã từng nói, theo đà phát triển của nền
đại cơng nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian
lao động và vào số lượng lao động đã hao phí, mà chúng phụ thuộc vào trình
độ chung của khoa học và vào bước tiến bộ kỹ thuật, hay là vào việc sử dụng
khoa học ấy vào sản xuất. Đến một trình độ nào đó, trí thức xã hội phổ biến,
biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhận định đó của C.Mác ngày càng
được thực tiễn phát triển khoa học và công nghệ chứng tỏ. Khoa học và cơng
nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trị là yếu tố then chốt của cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.
Song, để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trở
thành nền tảng và chiếm vị trí then chốt trong q trình phát triển đó, thì trước
hết chúng ta phải tìm ra động lực, năng lực nội sinh cho sự phát triển của bản
thân nó. Động lực này, năng lực nội sinh này trước hết nằm ở lợi ích của
những người làm cơng tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ.

Bởi lẽ, sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở hữu cả những người trực tiếp sản
sinh ra nó và bản thân nó được coi như một thứ hàng hố đặc biệt, được trả
giá tương xứng với giá trị của nó. Chính vì vậy, việc khuyến khích, trân trọng
những tìm tòi khoa học, những kiến giải khác nhau về các vấn đề của tự nhiên
cũng như kinh tế - xã hội; việc tìm ra những hình thức tổ chức, phương thức
và cơ chế hoạt động cho phép kết hợp và phát huy tối đa trí tuệ tập thể, tài
22

Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khóa VII, Sđd, 1994, tr4-5

14


năng cá nhân của nhà khoa học; việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân
tài cần phải được coi là quốc sách, là biện pháp hữu hiệu trong sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Đề cập vai trị của khoa học và cơng nghệ với tư cách là phương tiện
không thể thiếu để xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật cho một hình thái
kinh tế - xã hội, Ph. Ăngghen đã nói đến tính thiết yếu của sự phát triển một
cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Hơn
nữa, Ph. Ăngghen cịn khẳng định: "Nền cơng nghiệp đó, tồn bộ xã hội kinh
doanh một cách tập thể và có kế hoạch lại càng cần có những con người có
năng lực phát triển tồn diện, đủ sức tinh thơng tồn bộ hệ thống sản xuất. Đến
lượt mình, nền cơng nghiệp ấy sẽ làm cho những thành viên trong xã hội đó có
khả năng sử dụng một cách tồn diện năng lực của mình"23.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin cịn khẳng rằng, để nắm vững
việc quản lý một công việc luôn “cần đến những kiến thức thông thái, không
những bộ máy Nhà nước, mà cả toàn bộ nền sản xuất xã hội. Xã hội chủ nghĩa
nhất thiết phải tạo ra một đội ngũ vơ sản lao động trí óc mà sứ mạng của nó là
kề vai sát cánh cùng tiến trong một đội ngũ với những người anh em của mình

là những cơng nhân lao động chân tay"24. Với quan niệm đó, các Ơng ln
khẳng định việc tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có đủ trình độ
để quản lý Nhà nước, quản lý sản xuất và áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trong "Bộ Tư bản", C. Mác coi việc tạo ra một đội
ngũ đơng đảo những người có trình độ học vấn cao, tinh thơng khoa học - kỹ
thuật "không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã
hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát
23
24

C.Mác-Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 46, tr.213
C.Mác-Ăngghen, tuyển tập, Nxb sự thật, Hà Nội, 1980, tập 1, tr.460

15


triển tồn diện"(23), và trong "Phê phán cương lĩnh Gơta", Ông coi đó là "một
trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội hiện nay"25.
Từ tư tưởng đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá" 26. Hướng
bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam với tư cách vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc cải tạo xã hội, của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố là "khơng ngừng
gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi
cán nhân kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng nền tảng tinh
thần vững chắc của chế độ mới" 27. Điều đó có nghĩa là, phải khơng ngừng
nâng cao chất lượng của người lao động. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội
hiện đại, chất lượng của người lao động là nhân tố quyết định. Vì vậy, Hội

nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã khẳng định: "Trong
khi quan tâm đến ngày mai, cần nhấn mạnh rằng mọi kế hoạch xây dựng và
phát triển nhất thiết phải gắn liền với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển
về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân,
mỗi gia đình ngay ngày hơm nay"28.
Cơng cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
đang bước vào thời kỳ phát triển mới - "đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước", địi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ
những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người. Đó là chủ
thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần; phải có sự thay
C.Mác-Ăngghen, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 22, tr.432
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr21
27 Văn kiện Hội nghị BCHTW khóa VII, Sđd, tr.7
28 Văn kiện Hội nghị BCHTW khóa VII, Sđd, tr.7
25
26

16


đổi sâu sắc từ cách nhìn, cách nghĩ đến cách đào tạo, bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng về con người.
Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của cơng cuộc cải tạo xã hội một cách
tồn diện theo những tư tưởng cơ bản của học thuyết Mác về hình thái kinh tế
- xã hội, của sự nghiệp phát triển đất nước theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố thì cuộc cách mạng về con người phải được nhận thức là
mặt thứ hai thống nhất, không thể tách rời của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng tiên
phong trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận. Trung thành, bảo vệ, phát

triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, chúng
ta cần nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng của công tác lý luận, tư
tưởng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, ra sức học tập, nâng cao
dũng khí chiến đấu, đi sâu, bám sát thực tiễn để tiến hành tốt cơng tác tư
tưởng, lý luận. Trong tình hình mới, cần tập trung chủ yếu mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và ln luôn khẳng định đây là kim chỉ nam cho
cách mạng nước ta.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu xụp đổ, chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch ra sức tiến công vào nền tảng tư tưởng của Đảng
ta từ mọi phía. Chúng xuyên tạc, cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã ‘‘lỗi thời”,
chủ nghĩa xã hội là “sai lầm” của lịch sử, việc chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin vào Đông Dương cũng là “sai lầm”; sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản là nguồn gốc của chuyên quyền, “độc đoán”, mất dân chủ; có
người nói rằng “đừng nói đến chủ nghĩa xã hội mà chỉ nói độc lập dân tộc là
đủ”, rằng “ở nước ta chưa có khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã
hội còn ở tương lai”. Sự xuyên tạc đó, đã gây ra những hoài nghi, dao động

17


trong cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nói chung và cán bộ, chiến sĩ
quân đội nói riêng. Thậm trí có kẻ đã phụ hoạ với kẻ thù. Điều này, hết sức
nguy hiểm. Bởi lẽ, một khi trong chúng ta cịn hồi nghi dao động về nền
tảng tư tưởng của Đảng, thì sự thống nhất về quan điểm chính trị, niềm tin sẽ
bị ảnh hưởng, khó có sự nhất quán và thực hiện đúng đắn đường lối, nhiện
vụ cách mạng.
Chúng ta khơng thể chấp nhận những quan điểm đó và luôn luôn tin
tưởng con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã chọn. Trên con đường ấy, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh ln ln là ánh đuốc soi đường. Kiên định mục tiêu, lý tưởng

là điều kiện cực kỳ quan trọng, nhất là đối với những người cán bộ cao cấp
trong quân đội. Bởi lẽ, nếu khơng có niềm tin, khơng kiên định mục tiêu, lý
tưởng thì khơng thể truyền đạt có sức thuyết phục niềm tin đó tới người khác.
Để giữ vững niềm tin, kiên định mục tiêu, lý tưởng, địi hỏi ln ln có sự
sáng tạo, phát triển. Bởi lẽ, chỉ có sáng tạo, phát triển thì kiên định mới vững
vàng. Sáng tạo mà khơng kiên định mục tiêu đi tới thì chẳng có ý nghĩa gì.
Kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội là thể hiện bản lĩnh, lập trường của
những người cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, việc làm sáng tỏ bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định đây mãi mãi là ngọn đèn soi
sáng cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta đang là nhiệm vụ hàng đầu và
cấp bách của công tác tư tưởng, lý luận.
Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác- Lênin đã duy trì được sức sống
mãnh liệt, phát huy được tác dụng to lớn đối với sự phát triển xã hội loài
người. Ngày nay, cho dù xu thế phát triển của thế giới có quanh co thì cũng
chưa vượt khỏi những vấn đề, những quy luật cơ bản đã được chủ nghĩa MácLênin khái quát. Chủ nghĩa Mác- Lênin, không phải là sản phẩm tư biện của

18


những nhà kinh điển, không phải là hệ tư tưởng nằm ngồi sự phát triển
của tư duy nhân loại. Chính chủ nghĩa Mác- Lênin đã kế thừa những thành
tựu tư tưởng của loài người, cả về khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khái quát sự vận động
khách quan của lịch sử từ khi xuất hiện xã hội loài người cho đến nay. Các
ơng đã tiếp thu có chọn lọc những thành tựu mới nhất của các nhà khoa học
trước đó, đồng thời được bổ sung bằng những lý luận được tổng kết từ
phong trào công nhân quốc tế.
Với hạt nhân là biện phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa Mác- Lênin
mang trong mình tính phê phán sâu sắc. Chính sự ra đời và phát triển của chủ

nghĩa Mác- Lê nin là từ sự phê phán của các trào lưu phản khoa học khác và
cả từ sự tự phê phán. Sức sống mãnh liệt của nghĩa Mác- Lênin bắt nguồn từ
bản chất cách mạng và khoa học của nó, khơng bao giờ là một thứ lý luận “màu
xám”, “đứng im” mà ln vận động phát triển của xã hội lồi người. Tuy nhiên
với quan điểm khoa học, cách mạng trong khi khẳng định tính đúng đắn của chủ
nghĩa Mác- Lênin, chúng ta cũng không loại trừ trong kho tàng đồ sộ của chủ
nghĩa Mác- lênin, có thể có những điểm ngày nay đã bị lịch sử bỏ qua.
Chỉ có làm tốt những việc này thì cơng tác tư tưởng, lý luận mới tạo ra
được sự thống nhất trong nhận thức của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội với nền
tảng tư tưởng của Đảng. Trên cơ sở đó, mới tạo ra được cơ sở khoa học để đóng
góp vào xây dựng đường lối, chính sách của Đảng. Cơng tác tun truyền, giáo
dục mới có cơ sở khoa học trong việc qn triệt đường lối, chính sách, đồng thời
mới có cơ sở khoa học trong đấu tranh đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ
thù.
Thứ hai, làm rõ cái mới của thời đại, những luận điệu xuyên tạc của các
thế lực thù địch và khẳng định bản chất của chủ nghĩa đế quốc không hề thay
đổi.

19


Trong nhiều thập kỷ qua, loài người đang đứng trước những thay đổi lớn
lao. Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã đưa lại sự phát triển mạnh mẽ
về lực lượng sản xuất. Và sự phát triển về lực lượng sản xuất, đến lượt nó, đã
kéo theo sự bố trí lại cơ cấu kinh tế dịch vụ và thay đổi phương thức đầu tư.
Việc tổ chức lại các liên hiệp khoa học-sản xuất, việc kinh doanh chất xám đã
làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy nền sản xuất
xã hội phát triển và nâng cao đời sống của nhân dân.
Đến nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ đã đưa đến tồn cầu hố
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là về kinh tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác,

xích lại gần nhau giữa các nước và làm xuất hiện kinh tế tri thức. Trong nền kinh
tế tri thức, hàm lượng lao động trí óc tăng lên gấp bội, thay đổi dần cho lao động
cơ bắp và trong tổ chức lao động, chất lượng người thay dần số lượng người.
Ngay nay, thế giới đang đứng trước những vấn đề tồn cầu như: đấu
tranh cho hồ bình, chống bệnh tật hiểm nghèo, ô nhiễm môi trường sinh thái,
xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang và khủng bố quốc tế.
Những vấn đề này vượt quá khả năng giải quyết của từng quốc gia riêng rẽ và
cần có sự nỗ lực chung của cộng đồng thế giới.
Những cái mới trên đây của thời đại đang làm nẩy sinh ra xu thế hồ
bình, hợp tác và phát triển. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào
đứng ngồi xu thế đó mà có thể nhanh chóng xây dựng thành cơng đất nước.
Những cái mới của thời đại đang thực sự mang lại thời cơ và thuận lợi
cho các nước kém phát triển. Mỗi quốc gia dân tộc, nếu có chính sách đúng
đắn, sẽ tranh thủ được vốn, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và mở
rộng thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền sản xuất xã hội
và nâng cao đời sống của nhân dân. Đồng thời, nó cũng cho phép các nước
kém phát triển tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước khơng theo
mơ hình truyền thống.

20


Chủ nghĩa đế quốc cũng đang tận dụng sự phát triển của khoa học và cơng
nghệ mà lồi người đã đạt được làm cơng cụ tăng cường bóc lột cơng nhân, nô
dịch các nước kém phát triển, mở rộng khoảng cách giầu nghèo giữa tư sản với
vô sản, giữa các nước phát triển với các nước kém phát triển, uy hiếp bản sắc
dân tộc, nền độc lập tự chủ của các nước. Chủ nghĩa đế quốc cũng thích nghi với
những đổi thay của thời đại, với xu thế mới nảy sinh bằng cách “hưởng ứng” hồ
bình, “ký kết”, “hợp tác” để thực hiện mưu đồ của chúng.
Trước sự thích nghi trên đây của chủ nghĩa đế quốc, các lý luận gia

tư sản đã vội vã rêu rao lý thuyết “hội tụ”, “tan biến” và “hoà nhập” các
giai cấp, các chế độ, từ đó chúng khẳng định ngày nay bản chất và tính
chất của thời đại đã thay đổi và rao giảng rằng, ngày nay khơng cịn đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc như trước đây mà chỉ còn đấu tranh cho
hồ bình, cho phát triển.
Có phải như vậy khơng? Khơng!
Thời đại ngày nay tuy có nhiều cái mới, nhưng những cái mới đó khơng
hề làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản và tính chất của thời đại.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi. Quy luật tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản mà C.Mác đã phát hiện ra là quy luật sản xuất ra giá trị
thặng dư vẫn là quy luật chi phối toàn bộ cơ chế vận hành của chủ nghĩa tư
bản.
Hoàn cảnh quốc tế biến đổi buộc chủ nghĩa đế quốc muốn tồn tại phải
thích nghi bằng cách “hưởng ứng” hồ bình nhưng lại tìm cách “chiến thắng
khơng cần chiến tranh”, “đối thoại” và “ký kết” nhưng lại đối thoại trên thế
mạnh và tìm cách “ký kết” những gì có lợi cho chúng, lấy “đối thoại”, “ký
kết” để làm suy yếu đối thủ của mình để thơn tính và nơ dịch.
Chiến tranh vẫn là kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực và xu
hướng bạo lực, xu hướng chiến tranh vẫn là xu hướng cơ bản của chủ nghĩa

21


đế quốc. Những gì đã và đang diễn ra trên thế giới chứng minh hùng hồn điều
đó.
Nội dung của thời đại không hề thay đổi. Mặc dù lịch sử đang diễn ra với
những bước quanh co và phức tạp, chủ nghĩa xã hội đã chịu những thất bại
nặng nề nhưng khơng thể cho rằng q trình cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
thế giới đã kết thúc, chủ nghã xã hội đã “cáo chung”.
Nội dung của thời đại vẫn là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa

xã hội trên phạm vi toàn thế giới, khẳng định như vậy là đứng trên tầm vĩ mô
của lịch sử. Phủ định điều đó là phủ định con đường diệt vong tất yếu của chủ
nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Sự quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới là một tất yếu lịch sử, là
một quy luật khách quan nhưng đó là một quá trình lịch sử lâu dài và phức tạp
và là sự nghiệp đấu tranh của nhiều thế hệ trong nhiều thế kỷ.
Những mâu thuẫn xuất hiện sau Cách mạng Tháng mười Nga đến nay
vẫn còn nguyên vẹn và ngày càng gay gắt. Tuy hình thức biểu hiện có nhiều
điểm mới nhưng bản chất khơng hề thay đổi.
Bức tranh tồn cảnh của thế giới ngày nay là bức tranh hết sức phức tạp.
Điều đó địi hỏi những người cách mạng phải có quan điểm, lập trường giai
cấp để xem xét các vấn đề của thế giới. Trên cơ sở đó, để có thể giải quyết
đúng đắn các vấn đề của cách mạng.
Thế giới ngày nay, tuy hình thành một chỉnh thể kinh tế có quan hệ chặt
chẽ với nhau và đang đứng trước những vấn đề chung có tính tồn cầu cấp
bách, nhưng lại là một thế giới đầy mâu thuẫn. Sự đối lập, đối kháng giữa các
lợi ích vật chất, tinh thần, giai cấp, dân tộc, giữa các hệ thống chính trị, xã
hội, các ý thức hệ tư tưởng cùng tồn tại trong cuộc đấu tranh một mất một
còn. Thế giới vẫn phân cực giữa hai chế độ xã hội khác nhau, giữa giàu và
nghèo, giữa bóc lột và bị bóc lột, khơng hề có sự “hội tụ”, sự “tan biến”, sự

22


“hoà nhập” các giai cấp, các chế độ như luận điểm của các lý luận gia tư sản,
của bọn cơ hội, xét lại và của cả những người cộng sản ngộ nhận.
Do vậy, ngày nay đấu tranh cho hồ bình, hợp tác và phát triển là đúng
đắn và cần thiết. Nhưng khơng phải chỉ có vậy, mà đấu tranh chính trị, tư
tưởng, văn hoá, lối sống, đấu tranh kinh tế, quân sự là hệ quả tất yếu của thực
trạng thế giới hiện nay. Suy nghĩ và hành động khác, sẽ rơi vào chủ nghĩa cơ

hội, xét lại và cách mạng sẽ gánh chịu những tổn thất.
Công tác tư tưởng, lý luận phải làm rõ những cái mới của thời đại, chỉ rõ
thuận lợi và thời cơ để có chính sách khai thác, tận dụng nó trong cơng cuộc
xây dựng đất nước. Đồng thời, làm rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản và nội
dung của thời đại không hề thay đổi, chỉ rõ sự thích nghi của chủ nghĩa tư bản
trước những biến đổi của lịch sử, vạch rõ những luận điểm bịp bợm của
những thế lực thù địch thì mới xây dựng được lịng tin vào tính đúng đắn và
tất thắng của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Thứ ba, làm rõ những vấn đề mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Về xây dựng kinh tế, trước đây trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, chúng ta đã nóng vội, bất chấp trình độ hiện có của lực lượng sản xuất,
vội vàng thiết lập quan hệ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trên toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Điều đó trái với luận điểm của Mác, quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đến nay, trong công cuộc đổi mới, chúng ta thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần nhằm huy động mọi năng lực sản xuất để phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển nền sản xuất của xã hội, nhằm nâng cao đời sống của nhân dân.
Nền kinh tế nhiều thành phần phải gắn với thị trường, vì cơ chế thị
trường là cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá. Trong nền kinh tế nhiều

23


thành phần và cơ chế thị trường thì đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa hai
con đường: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta đã xác định các thành phần
kinh tế đều là những bộ phận hình thành của nền kinh tế quốc dân và đều
được khuyến khích, giúp đỡ phát triển. Đồng thời cũng khẳng định trong nền
kinh tế đó, kinh tế Nhà nước đóng vai trị chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh

tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đến nay, chúng ta đang xắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh và tìm
cách phát huy tối đa các thành phần kinh tế khác phát triển mang lại ích nước,
lợi nhà nhưng tuyệt nhiên không thể coi nhẹ thành phần kinh tế quốc doanh
và kinh tế tập thể, vì đây là nguồn sức mạnh của Nhà nước trong điều tiết nền
kinh tế ở tầm vĩ mô.
Chúng ta phải làm cho các doanh nghiệp Nhà nước thực sự là đại
diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến trong nền kinh tế quốc dân. Nó
phải đi đầu trong ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến,
nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, về khoa học
quản lý và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và chăm lo
đời sống lao động.
Chúng ta phải làm cho kinh tế tập thể, nhất là kinh tế hợp tác thực sự là
con đường dẫn dắt người nông dân, thợ thủ công, người buôn bán và dịch vụ
nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội .
Sự lớn mạnh của hai thành phần kinh tế này, trước hết là sự nỗ lực của
bản thân họ nhưng phải có sự quan tâm của Nhà nước về đầu tư tài chính, đổi
mới thiết bị kỹ thuật và công nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ
tay nghề của người lao động để nó khơng ngừng phát triển và làm được chức
năng của nó trong nền kinh tế quốc dân. Thiếu chăm lo đến đời sống kinh tế

24


của hai thành phần kinh tế này thì khơng thể nói tới con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, nói tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để giữ vững định hướng định hướng xã hội chủ nghĩa lại cần phải nhận
rõ âm mưu của các thế lực thù địch. Chúng lợi dụng nền kinh tế nhiều thành
phần, cơ chế thị trường thúc đẩy kinh tế tư bản tư nhân phát triển ngồi định
hướng xã hội chủ nghĩa và tìm mọi cách làm cho kinh tế Nhà nước khơng

đóng được vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, kinh tế Nhà nước và kinh
tế tập thể khơng đóng được vai trị nền tảng của nền kinh tế.
Chúng tìm mọi cách thúc đẩy “kinh tế ngầm” phát triển và tạo ra những
trung tâm tài chính lớn để chúng chi phối. Trên cơ sở các thế lực kinh tế này
hình thành các thế lực chính trị mà chúng có thể sử dụng phục vụ cho âm mưu
“diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ.
Q trình phát triển của cơng cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ, cùng với việc ra sức phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải từng
bước nâng đỡ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, từng bước nâng dần quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa lên phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Đây là quy luật khách quan, vì chủ nghĩa xã hội một khi xây dựng xong
về cơ bản thì quan hệ sản xuất xã hội phải chiếm ưu thế. Nhưng đây là một
việc làm không thể nóng vội, chủ quan, duy ý chí mà phải phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Đảng ta đã khẳng định thời kỳ quá độ là một thời kỳ lâu dài nhưng vẫn
chưa xác định rõ được nó phải trải qua những bước trung gian quá độ nào để
làm cơ sở cho việc xác định mục tiêu, yêu cầu về xây dựng lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, phát triển kinh tế, văn hoá trong từng chặng đường để công
cuộc xây dựng được chủ động và tự giác hơn, tránh mị mẫm và vấp váp. Điều
đó địi hỏi các nhà nghiên cứu lý luận cũng phải quan tâm làm rõ.

25


×