Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN tư DUY của ĐẢNG về CỘNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa xã hội CHỦ NGHĨA từ năm 1996 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.42 KB, 36 trang )

---    ---

MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA ĐẢNG QUA
CÁC THỜI KỲ

THU HOẠCH: SỰ PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY.
MỞ ĐẦU
Muốn nhanh chóng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, về
khoa học, công nghệ, thì phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta liên
quan đến tất cả các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, từ kinh tế, văn hoá, khoa học,
giáo dục, đào tạo, đoàn kết dân tộc đến quốc phòng, an ninh, diễn ra trên tất cả
các vùng lãnh thổ, lãnh hải, là sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo về Tổ quốc. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường thoát
khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh. Vì vậy cần phải hết
sức năng động, sáng tạo, tự tìm ra cho mình phương pháp và bước đi thích hợp,
kết hợp các bước tuần tự với cách đi tắt, đón đầu, kết hợp mọi trình độ từ thấp
đến cao, đi thẳng vào hiện đại, hình thành những mũi nhọn, những lĩnh vực
then chốt và những khâu quyết định, phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa
học và công nghệ thế giới. Cùng với quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng
nước ta là quá trình Đảng ta từng bước hình thành và phát triển tư duy mới về
đường lối cách mạng Việt Nam. Một trong những điểm nổi bật nhất có tính đột
phá là khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do đường lối Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra cũng là thời điểm Đảng ta có
những bước phát triển tư duy mới, về quan niệm, mô hình và con đường công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước ta. Đảng ta đã từng bước bổ sung, phát triển,
hình thành lên đường lối chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; được




thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh đó là đúng đắn, sáng tạo. Đường lối đó có
được là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, Đảng luôn phải tìm tòi, khảo nghiệm,
tổng kết, bổ sung, phát triển đường lối cho phù hợp với yêu cầu phát triển của thực
tiễn cách mạng nước ta qua từng thời kỳ, giai đoạn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của
Đảng.
NỘI DUNG
1. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi
mới đất nước
1.1. Cơ sở lý luận
Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp,
đã diễn ra từ lâu trong lịch sử xã hội cùng với cuộc cách mạng công nghiệp
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình nghiên cứu của mình, mặc
dù Mác và Ăng-ghen không viết một chuyên luận nào về công nghiệp hoá,
nhưng trong các công trình nghiên cứu của mình, các ông cũng đã đề cập đến
cách mạng công nghiệp trong nền sản xuất tư bản như: trong đại công nghiệp,
điểm xuất phát của cuộc cách mạng trong phương thức sản xuất là tư liệu lao
động, trước hết là máy công cụ. Máy móc thúc đẩy phân công lao động xã hội,
giảm lao động cơ bắp và làm cho việc nâng cao trình độ học vấn trở thành bắt
buộc đối với người lao động. Mác dự đoán: theo đà phát triển của đại công
nghiệp, việc tạo ra của cải thật sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động
và số lượng lao động đã chi phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của
khoa học và của tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học
ấy vào sản xuất.
Việc cách mạng trong phương thức sản xuất ở lĩnh vực công nghiệp gây
ra cuộc cách mạng trong các lĩnh vực khác làm biến đổi cơ cấu ngành kinh tế
và cơ cấu lao động. Cách mạng công nghiệp khi Mác - Ăng-ghen nghiên cứu
đã diễn ra bắt đầu từ công nghiệp nhẹ, rồi lan sang nông nghiệp, giao thông vận
tải… và cuối cùng xâm nhập vào công nghiệp nặng. Sự biến đổi cơ cấu ngành

diễn ra không ngừng kéo theo sự biến đổi cơ cấu lao động xã hội, đòi hỏi phải


chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và các ngành dịch vụ,
làm cho lao động nông nghiệp giảm cả tương đối và tuyệt đối.
Công nghiệp hoá đã làm chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực nông
nghiệp và Mác đã dự đoán công nghiệp hoá sẽ làm chuyển dịch lao động trong
nông nghiệp sang các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Theo Các Mác:
“Đối với lĩnh vực nông nghiệp, tác động của công nghiệp hoá có tính chất
cách mạng hơn bất cứ nơi nào khác, hiểu theo nghĩa là công nghiệp lớn làm
cho không còn nông dân nữa, tức là còn cái thành trì của xã hội cũ nữa, và
thay thế nông dân bằng người làm thuê. Do đó mà ở nông thôn, những nhu cầu
cải biến xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp, được nâng lên ngang với trình độ ở
thành thị” và “chỉ có nền công nghiệp lớn sử dụng máy móc, mới tạo cho nền
kinh doanh nông nghiệp tư bản chủ nghĩa” .
V.I.Lênin cũng phân tích sự tác động của công nghiệp tới lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp sẽ làm cho công cụ lao động ngày càng tiến bộ hơn, dẫn
đến năng suất lao động trong nông nghiệp tăng khi đó đòi hỏi phải phát triển
công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp và
kéo theo nó là những ngành công nghiệp khác cũng phát triển. Theo Lênin:
Ngoài máy móc ra, sự cần thiết phải cày bừa ruộng đất tốt hơn nữa sẽ đưa đến
chỗ thay thế những công cụ thô sơ trước đây, bằng những công cụ cải tiến hơn,
và thay thế gỗ bằng sắt, bằng thép. Sự thay đổi đó tất nhiên sẽ đưa đến chỗ phải
xây dựng tại chỗ những nhà máy chế tạo ra những công cụ đó, vì công nghiệp
thủ công không thể làm ra được những công cụ tốt như thế’ và “nhờ có sự phát
triển của công nghiệp chế biến bằng máy móc và công nghiệp khác cho nên
yêu cầu về khoáng sản cũng ngày một tăng thêm.
V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng:
Công nghiệp là chìa khoá để cải tạo nền nông nghiệp lạc hậu và phân tán
trên cơ sở tập thể hoá… Do đó, nhiệm vụ là phải cung cấp cho nông nghiệp

đến mức tối đa những công cụ và tư liệu sản xuất cần thiết để xúc tiến và đẩy
mạnh cải tạo nông nghiệp trên cơ sở kỹ thuật mới” và việc cải tạo một nền
nông nghiệp bị chia nhỏ, phân tán là một việc làm hết sức khó khăn cần phải đi


dần từng bước nhưng liên tục và kiên quyết bền bỉ, làm cho nông nghiệp
chuyển qua một cơ sở kỹ thuật mới, cơ sở của nền đại sản xuất, đưa nông
nghiệp lên ngang tầm trình độ công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nếu làm được
việc đó thì thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội mới được đảm bảo
Lênin còn chỉ ra rằng, Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thắng lợi khi xây dựng
được một nền sản xuất hiện đại trên cơ sở vật chất- kỹ thuật tiên tiến, có năng
suất lao động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Đối với nước có kinh tế lạc hậu,
lại bị chiến tranh tàn phá như nước Nga lúc đó thì công nghiệp hoá là bước đi
quan trọng để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, trong đó điện khí
hoá là bước quan trọng nhất. Người luôn coi trọng ngành sản xuất có công
nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ công nhân có trình độ cao, nên trong thời kỳ
khó khăn sau chiến tranh, vẫn giành chi phí hàng triệu rúp để cử người ra nước
ngoài học tập.
Không chỉ tác động trực tiếp đến nông nghiệp, công nghiệp phát triển
còn thúc đẩy các quá trình kinh tế khác, gián tiếp mở mang phát triển nông
nghiệp, đưa nông nghiệp hội nhập kinhtế thế giới. Cách mạng công nghiệp tạo
điều kiện mở rộng thị trường trong nước, làm lưu thông hàng hoá vượt ra khỏi
biên giới quốc gia, tham gia vào phân công lao động thế giới và thị trường thế
giới.
Nhờ sản xuất bằng máy móc, việc khai thác tài nguyên, nguyên liệu, vận
tải… được cơ khí hoá, làm cho của cải được sản xuất ra với khối lượng lớn và
thuận lợi trong lưu thông, tạo ra thị trường rộng mở trên thế giới, điều đó tất
yếu dẫn đến quốc tế hoá đời sống kinh tế và là xu hướng toàn cầu hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta rất quan tâm đến vấn đề công nghiệp
hoá nông nghiệp, Người cho rằng, đối với một đất nước đi lên từ nông nghiệp

là chủ yếu thì trước hết phải phát triển nông nghiệp, phải công nghiệp hoá nông
nghiệp. Người cho rằng đời sống của nông dân chỉ có thể thật dồi dào khi
chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi và muốn đưa máy
móc vào sản xuất nông nghiệp thì phải khoanh vùng sản xuất nông nghiệp.
Trong văn kiện quan trọng và nổi tiếng mang tên Ba mươi năm hoạt động của


Đảng, Bác nhấn mạnh: Phải cải tạo và phát triển nông nghiệp để tạo điều kiện
cho việc công nghiệp hoá nước nhà. Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì
công nghiệp mới có thể phát triển mạnh. Nông nghiệp phát triển tốt thì công
nghiệp sẽ phát triển nhanh. Bác đã ví bằng một câu rất dễ hiểu như: "công
nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… công nghiệp phát triển thì
nông nghiệp mới phát triển...” .
Nói tới vấn đề công nghiệp hoá nông nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
đề cập tới kinh tế gia đình và nghề phụ của người nông dân. Nghề phụ ở đây có
thể hiểu là các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, nông dân có thể
tăng thêm thu nhập cho mình từ các ngành nghề này. Người luôn nhắc nhở cần
phải phát triển kinh tế phụ gia đình xã viên, phải vừa chú ý tới việc trang bị kỹ
thuật mới, vừa phải biết tận dụng cải tiến công nghệ hiện có và sử dụng những
công cụ cải tiến. Người nhận định: muốn cơ giới hoá nông nghiệp cũng còn
phải mất 15, 20 năm chứ không làm ngay một lúc được. Cho nên phải cải tiến
nông cụ hiện có, phải làm những loại máy mới giản đơn, thợ mộc cũng dùng
được, nông dân cũng làm được. Khoa học kỹ thuật phải từ sản xuất mà ra và
phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất
lao động và không ngững cải thiện đời sống nhân dân. Tư tưởng này đã được
thực tiễn chứng minh trong những năm trước đổi mới và đã chứng tỏ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp khi đã được điều chỉnh cho phù hợp thì
nền kinh tế sẽ phát triển, nước ta từ chỗ luôn phải nhập khẩu gạo, nay sản xuất
gạo ở nước ta không những đủ gạo ăn mà nước ta đã xuất khẩu gạo đứng vào
hàng thứ 2 trên thế giới.

Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về công nghiệp hoá, hiện đại hoá vào nước ta, rút kinh nghiệm từ bài học
không thành công của việc rập khuôn máy móc mô hình ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, Đảng ta đã đổi mới và từng bước hoàn thiện quan điểm về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là kết quả của quá trình đổi mới tư duy
lý luận, đổi mới cơ chế quản lý từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.


1.2 Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, từ năm
1996 đến nay; cùng với bước bổ sung, phát triển tư duy mới về đường lối đổi
mới cũng bước đánh dấu sự phát triển tư duy mới về quan niệm, mô hình, con
đường công nghiệp hoá của Đảng ta và đã hình thành lên đường lối chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đường lối đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm và
chứng minh đó là đúng đắn, sáng tạo. Đó là cả một quá trình, liên tục được bổ
sung, hoàn chỉnh theo thời gian lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng. Từ
đường lối công nghiệp hoá gắn với quan niệm xây dựng quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa đi trước mở đường cho bước phát triển lực lượng sản xuất chuyển
sang ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất gắn với xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa với cách làm nóng vội, bỏ qua những bước trung gian cần thiết đã
chuyển sang công nghiệp hoá với bước đi tuần tự, giai đoạn trước tạo điều kiện
tiền đề cho bước phát triển sau, vừa tuân thủ theo quy luật phát triển tuần tự vừa
có bước đi rút ngắn về mặt thời gian, đi tắt, đón đầu đi thẳng vào những khâu
then chốt có ý nghĩa quyết định. Từ công nghiệp hoá cổ điển chuyển sang công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển nền kinh tế tri thức; thực hiện các
mục tiêu phát triển trước mắt không làm tổn hại đến phát triển trong tương lai và
phát triển luôn bảo đảm tính bền vững. Từ chủ trương xác lập nóng vội cơ cấu
kinh tế công - nông nghiệp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông- công

nghiệp. Từ nền kinh tế “hướng nội” quan hệ chỉ khép kín trong hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa, chuyển sang thực hiện kinh tế mở đa dạng hoá , đa
phương hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu và thay thế
nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước. sản xuất có hiệu quả. Chuyển từ
công nghiệp hoá là trách nhiệm của thành phần kinh tế quốc doanh sang công
nghiệp hoá trách nhiệm của mọi thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Chuyển công nghiệp hoá trong khuôn khổ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, gắn thị trường trong nước với thị
trường thế giới thành chỉnh thể hữu cơ có sự quản lý của Nhà nước. Những bước


phát triển tư duy mới của Đảng về công nghiệp hoá đất nước qua các thời kỳ,
giai đoạn cách mạng nước ta nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trực tiếp góp
phần thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định chính trị- xã hội; củng
cố tăng cường quốc phòng, an ninh vững chắc; mở rộng quan hệ đối ngoại nâng
cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đặc biệt, qua gần 30 năm tiến hành
sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu quan trong có ý nghĩa lịch sử. Được đại hội XI của Đảng
khẳng định: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi
cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị , xã hội ổn định.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo
ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”. Đạt được
những thành tựu to lớn trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Trong đó nguyên
nhân hàng đầu là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo. Đảng đã
phát huy cao độ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong hoạch định đường lối
đổi mới. Đảng ta trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ

nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng nước ta để hoạch định đường lối, đồng thời, Đảng luôn bám sát yêu cầu
phát triển của thực tiễn để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách cho phù hợp.
Một trong những nét nổi bật qua gần 30 năm đổi mới là Đảng đã có những phát
triển tư duy mới về đường lối công nghiệp hoá để từng bước bổ sung, hình thành
phát triển hoàn chỉnh đường lối chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước
ta. Với đường lối chiến lược đó, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn
tạo tiền đề vững chắc cần thiết để chúng ta tiếp tục, kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn
đấu vị mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
trong giai đoạn cách mạng hiện nay.


Ngày nay khi đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện quốc tế và trong nước có
những diễn biến phức tạp, khó lường. Xu thế mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế
ngày càng sâu rộng; bên cạnh những thời cơ và vận hội lớn mà quốc tế mang lại
tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Song bên cạnh đó chúng ta cũng đang đứng trước những
thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những nguy cơ lớn của
đất nước mà Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (1/1994) xác định cho đến nay
vẫn tồn tại đan xen không được đề cao hoặc xem nhẹ bất cứ nguy cơ nào. Trong
đó nguy cơ “ Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ mà chủ nghĩa đế quốc thực
hiện ngày càng thể hiện tinh vi, sảo quyệt hơn, mục đích của chúng nhằm xoá bỏ
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó chúng coi Việt Nam là trọng điểm để
chống phá. Do vậy, sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới đối với toàn Đảng và toàn dân và toàn quân ta. Song điều cốt yếu quan
trọng hàng đầu là phải phát huy cao độ hơn nữa quan điểm độc lập, tự chủ, sáng
tạo của Đảng trong hoạch định đường lối cách mạng nước ta - nhân tố cơ bản

hàng đầu bảo đảm quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để làm
tròn trọng trách đó đòi hỏi Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh về mọi mặt, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất về ý
chí và hành động trong toàn Đảng và sự gắn bó chặt chẽ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước. Đặc biệt, Đảng
phải thường xuyên nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bám sát vào yêu cầu phát triển của thực tiễn cách
mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp,
thuận với “ý Đảng, lòng dân” và tình hình thực tiễn cách mạng nước ta. Đảng
phải kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; giữ vững nguyên tắc chiến lược, linh hoạt mền dẻo trong sách lược; dự


báo chính xác xu thế vận động phát triển của tình hình; kịp thời có những quyết
sách đúng đắn để giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn nảy sinh. Đồng thời,
Đảng phải luôn phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
cuộc đổi mới, kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, đưa sự nghiệp đổi mới đi tới thắng lợi. Mặt khác, Đảng phải không ngừng
tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội và
công an nhân dân; gắn kết chặt chẽ giữa đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước với việc củng cố xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế
trận an ninh nhân dân, xây dựng phát triển lực lượng vũ trang nhân dân theo
hướng hiện đại, đáp ứng tốt yêu cầu chiến tranh công nghệ cao trong tương lai.
Đặc biệt, trước mắt phải tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng quân đội và
công an nhân dân theo phương hướng: “ Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”, phù hợp với điều kiện, khả năng nền kinh tế đất nước và đáp
ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới. Tuy nhiên thông qua đó mà Đảng giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng đi đôi và bảo vệ Tổ quốc, cũng như gắn kết chặt

chẽ giữa tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với việc
đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân theo hướng hiện đại, trực tiếp góp phần to lớn vào việc thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh trong tình hình hiện nay.
2. Quá trình phát triển tư duy của Đảng về đường lối công nghiệp
hóa, hiện đại hóa từ năm 1996 đến nay
2.1. Tư duy của Đảng về đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trước năm 1996
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, việc lựa chọn mô hình
công nghiệp hoá của nước ta không phải hôm nay mới đặt ra, mà nó đã được
đặt ra ở nước ta ngay từ những năm 1960. Phải thừa nhận là nước ta đã thực
hiện mô hình công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu kiểu Xô viết từ
thập kỷ 60 cho tới những năm 1980. Mô hình công nghiệp hoá mà nước ta đã


áp dụng có đầy đủ những đặc trưng của mô hình công nghiệp hoá theo hướng
thay thế nhập khẩu với mức độ cao hơn và đặc biệt có những dấu ấn “ Xô viết”
rất đậm nét như: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng rất cao, kinh tế nhà nước
thống trị trong nền kinh tế, quan hệ kinh tế đối ngoại hầu như chỉ tập trung ở
hai hình thức xuất, nhập khẩu và vay nợ nước ngoài, với đối tác chính là Liên
Xô; cơ chế kinh tế thị trường bị loại bỏ..vv. Hậu quả của mô hình này là nền
kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng từ cuối thập kỷ 70. Kể từ năm 1986,
nhất là những năm 90, nước ta đã dần thoát khỏi mô hình này và tìm kiếm một
mô hình công nghiệp hoá mới thích hợp hơn. Đại hội, đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (12/1986) đã tạo ra một bước chuyển đổi quan trọng- lần đầu
tiên kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được công nhận ở nước ta. Ba chương
trình kinh tế trọng điểm được xác định - đó là chương trình lương thực thực
phẩm, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng
xuất khẩu. Có thể xem đây là bước chuyển biến đầu tiên thoát khỏi mô hình

công nghiệp hoá theo hướng thay thế nhập khẩu kiểu Xô viết. Với chính sách
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nước ta đã chuyển từ một nền kinh tế kế
hoạch sang kinh tế hàng hoá, từ nền kinh tế do kinh tế quốc doanh thống trị
sang kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo,
chứ không phải là thống trị. Ba chương trình kinh tế trên đã dần dần chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nước ta từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang chú
trọng phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và hướng về xuất
khẩu. Thực chất nội dung công nghiệp hoá nước ta đến Đại hội VI: là chuyển
đổi trong tâm phát triển công nghiệp nặng sang thực hiện ba chương trình
kinh tế lớn đó lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng , hàng xuất khẩu.
Có thể khẳng định, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là
Đại hội mở đầu cho quá trình đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trọng tâm là đổi mới kinh tế, trong đó có những đổi
mới quan trọng về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước ta. Thực tiễn sau 10
năm bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và giành thắng lợi


to lớn trong bảo vệ Tổ quốc, song tình hình kinh tế- xã hội còn nhiều khó khăn
gay gắt, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế- xã hội từ nhiều năm nay.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng có ưu điểm trong xác định đường
lối và chỉ đạo thực hiện, song Đảng cũng bộc những khuyết điểm, nhược điểm
lạc hậu trong nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong
thời kỳ quá độ; sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng
giai đoạn mới. Trong bối cảnh ấy, đổi mới trở thành yêu cầu bức thiết của sự
nghiệp cách mạng nước ta và là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Chỉ có đổi mới,
Đảng ta mới thấy hết những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa
chữa, nhằm vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh nước ta, đồng thời phát huy truyền thống lịch sử
và cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và khả năng vô

tận của nhân dân ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đổi
mới là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta. Đó cũng là đặc
tính của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là bản chất sâu xa của chủ nghĩa Mác Lênin, là xu thế tất yếu của thời đại.
2.2. Quá trình phát triển tư duy của Đảng về đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa từ năm 1996 đến nay
Đường lối Đại hội VII, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, được Đại hội VIII của Đảng (6/ 1996) đã tổng kết chỉ rõ: chúng ta đã đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành và vượt nhiều mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch 5 năm. Trong 5 năm 1991-1995, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về
tổng sản phẩm trong nước GDP đạt 8,2 % ( kế hoạch là 5,5- 6,5%). Cơ cấu kinh
tế có bước chuyển đổi: tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,6%
năm 1990 lên 29,1% năm 1995; dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%. Bắt đầu có tích luỹ
từ nội bộ nền kinh tế. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7%
năm 1995. Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó với nhu cầu phát triển kinh
tế- xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường. Quan hệ sản xuất được điều
chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế thị
trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định


hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng. Tạo được một số chuyển biến
tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng trong hệ thống chính trị. Phát
triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham gia tích cực
vào đời sống cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được,
Đại hội VIII thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém trong thực hiện
đường lối Đại hội VII của Đảng như: nước ta còn nghèo và kém phát triển.
Chúng ta chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng,
dồn vốn cho đầu tư phát triển. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và
nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới
có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn

yếu. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm và yếu kém. Từ những thành tựu
nổi bật và khuyết điểm, yếu kém trên. Để tiếp tục đẩy mạnh đường lối công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội VIII của Đảng xác định mục tiêu cơ
bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: “ Xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Cùng với việc xác định mục tiêu cơ bản lâu
dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đại hội còn xác định mục tiêu
phấn đấu từ nay đến năm 2020 là: “ Đưa nước ta cơ bản thành một nước công
nghiệp”. Để cụ thể hoá mục tiêu trên , Đại hội đã xác định những tiêu chí cơ
bản cần phải đạt tới. Đặc biệt, Đại hội đã trên cơ sở những quan điểm cơ bản về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá do Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII
(1/1994) và Nghị quyết Trung ương bảy khoá VII ( 7/1994) đã nêu ra. Đại hội
VIII của Đảng đã bổ sung và hoàn thiện 6 quan điểm chỉ đạo công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nước ta như sau. Một là, giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào
nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
Xây dựng một nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh


về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước
sản xuất có hiệu quả. Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn
dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Ba là, lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng
tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường. Bốn là, khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh

thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Năm là, lấy hiệu quả kinh
tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự
án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất
hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến,
tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình
quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng
bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn
trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong
nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng
đều phát triển. Sáu là, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh. Đó là những
quan điểm cơ bản chỉ đạo, định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nước ta mà được Đại hội VIII của Đảng bổ sung, phát triển. Một trong điểm nổi
bật sự phát triển tư duy mới về công nghiệp hoá của Đảng chính là: mô hình
công nghiệp hoá; quan niệm tổng quát cho ta thấy mô hình kết hợp thay thế nhập
khẩu, hướng mạnh vào xuất khẩu. Trong đó nhấn mạnh lấy xuất khẩu là hướng
chính, thực hiện ngay trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng những mặt hàng chúng ta sản xuất ra được. Về nguyên tắc xây
dựng mô hình công nghiệp hoá dựa trên nguyên tắc thị trường, định hướng xuất
khẩu coi thị trường bên ngoài là động lực cho sự phát triển. Như vậy, đường lối
công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đại hội VIII xác định rõ hơn ở hình thức,
bước đi và các giải pháp tiến hành. Đại hội VIII xác định nội dung cơ bản của


công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 và thế kỷ
XX “ Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ
tầng kinh tế, trước hết là những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự
phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và

hết sức cần thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng
nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh
các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế
biến nông, lâm ,thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu- khí , một số ngành cơ khí
chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, dịch vụ. Phát triển mạnh sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”. Cùng với việc xác định
những nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội VIII của Đảng còn xác
định 6 giải pháp chủ yếu để thực hiện nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nêu trên. Đặc biệt, sau Đại hội VIII, Đảng đã có nhiều nghị quyết Trung ương
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên từng lĩnh
vực cụ thể. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
(12/1996) ra nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 và Nghị
quyết về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Tiếp đó là Nghị quyết
Trung ương lần thứ tư khoá VIII (12/1996) ra Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần
kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh
tế- xã hội đến năm 2000. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VIII và các Nghị
quyết Trung ương cụ thể nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, nhân dân ta đã nỗ
lực phấn đâu vượt qua nhiều khó khăn, thử thách đưa sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước đạt được những thành tựu quan
trọng đã tạo ra thế và lực mới để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng


(4/2001) tiếp tục có những bước bổ sung, phát triển đường lối công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước cho phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Đại hội xác
định rõ: Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong giai đoạn mới
là:“ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng

sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc
phòng - an ninh”. Đại hội xác định: phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần; tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng
cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước; giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Đại
hội IX của Đảng xác định rõ mục tiêu tổng quát chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2001- 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng- an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao”. Đại hội xác định phát triển kinh tế, công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Như vây, Đại hội IX đã có những bước phát triển mới về
đường lối công nghiệp hoá như: về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng quan hệ sản xuất. Đại hội chỉ rõ: ưu tiên phát triển lực lượng
sản xuất, nhưng về quan hệ sản xuất phải được xây dựng đồng thời và phải tính
toán bảo đảm xây dựng quan hệ sản xuất phải luôn phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, con đường


công nghiệp hoá ở nước ta vừa có thể “rút ngắn” về mặt thời gian, vừa phải có
những nội dung phải trải qua bước phát triển tuần tự. Đồng thời làm thế nào để
rút ngắn về mặt thời gian, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Đại hội IX chỉ

rõ: chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, lợi thế của đất nước như về trí tuệ, con
người, nguồn nhân lực đất nước; tận dụng lợi thế của đất nước như về khoa học
công nghệ, công nghệ thông tin..vv. Tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào
sản xuất; từng bước phát triển lên nền kinh tế tri thức. Phát huy cao độ nguồn trí
tuệ và coi giáo dục và đào tạo là nền tảng, động lực của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt, hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước là phải phát triển nhanh và phát triển có hiệu quả trong các ngành, các lĩnh
vực có lợi thế đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước. Mặt khác, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước phải bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự
chủ. Đại hội IX đưa ra quan niệm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải bảo
đảm yêu cầu, độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực đủ
mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế. Có cơ cấu kinh tế
hợp lý, có sức cạnh tranh cao; cơ cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và phát triển ở
một số ngành công nghiệp nặng then chốt. Có năng lực nội sinh về khoa học và
công nghệ. Giữ vững ổn định kinh tế , tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lương
thực, an toàn tài chính, môi trường. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi
đôi với chủ động mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp chặt chẽ giữa nội
lực với ngoại lực. Xây dựng một số ngành công nghiệp then chốt đủ sức làm
chuyển biến, vận động nền kinh tế quốc dân và để khi mà nền kinh tế thế giới có
những biến động đủ khả năng điều chỉnh nền kinh tế vận động cho phù hợp. Đại
hội IX của Đảng định hướng đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả sản phẩm nông
nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải thiện và nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân , tăng mức thu nhập của nông dân bảo đảm so với mức thu nhập bình
quân trong cả nước. Đẩy mạnh công nghiệp hoá phải tính toán đến nhu cầu phát
triển bền vững trong tương lai. Đó là những nội dung quan trọng đánh dấu bước
phát triển tư duy mới của Đảng về đường lối công nghiệp hoá được bổ sung,


phát triển trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối đại hội IX của Đảng. Quá

trình tổ chức thực hiện đường lối Đại hội IX của Đảng, nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, chính trị, quốc phòng- an ninh và
đối ngoại. Những thành tựu đó đã làm thay đổi bộ mặt của đất nước, cuộc sống
của nhân dân được cải thiện, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội
chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế; tăng cường
sức mạnh của đất nước, tạo ra thế mới, lực mới để đất nước vững bước vào thế kỷ
XXI giành những thắng lợi to lớn hơn.
Tiếp tục kiên trì sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng ( 4/2006) đã có những bước phát triển mới về đường lối công
nghiệp hoá trong giai đoạn cách mạng mới. Đại hội đề ra mục tiêu và phương
hướng tổng quát 5 năm 2006 - 2010 là “ Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường
quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội chỉ rõ: về việc đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển nền kinh tế tri thức chúng ta tranh thủ
các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta
để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển
mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức. Mặt khác, Đại hội X của Đảng đã xác định rõ những chủ trương,
định hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển nền kinh
tế tri thức như: đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.



Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và
kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị ra tăng ngày càng cao, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá,
đưa nhanh tiến bộ khoa học- kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng
cao năng xuất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với những đặc điểm từng
vùng, từng địa phương. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông
thôn và thực hiện xây dựng nông thôn mới; xây dựng các làng, xã, thôn , ấp, bản
có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình thành các khu dân
cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội đồng bộ. Phát huy dân chủ ở
nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí;
chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỉ trọng lao
động làm nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo
điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn,
kể cả ở nước ngoài. Trong phát triển công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, chúng ta
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế
tác, công nghệ phần mền và công nghệ bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản
phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu vực kinh tế mở
và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Khuyến khích, tạo điều kiện các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu
sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn
kinh tế các công ty xuyên quốc gia. Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài
nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí, lọc dầu và
hoá chất, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón , vật liệu xây
dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tạo bước phát triển vượt bậc của các
ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất lượng cao, tiềm năng lớn và có sức
cạnh tranh; đưa tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng
GDP. Chủ trương phát triển kinh tế vùng, thông qua các chính sách phù hợp tạo
điều kiện cho các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo sự liên kết

giữa các vùng và nội vùng; phát triển kinh tế biển theo một chiến lược toàn diện,


có trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế
biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế.
Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ. Đến năm 2010, tỉ lệ lao động
trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội . Phát triển
khoa học công nghệ ở nước ta phải phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Cố gắng đi ngay vào vào công
nghệ hiện đại đối với một số lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ
nền kinh tế. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột phá và công nghệ
dùng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài
nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tư nhiên. Chủ động phòng chống thiên tai,
tìm kiếm cứu nạn. Toàn bộ những nội dung trên thể hiện rõ quan điểm của Đại
hội X về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển nền kinh tế
tri thức. Song bước phát triển tư duy mới về đường lối công nghiệp hoá so với
các kỳ Đại hội của Đảng trước đó trên những vấn đề cơ bản như: làm rõ quan
điểm về phát triển kinh tế tri thức trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
gắn với nó là đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ.
Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, coi trọng giá
tri gia tăng và sức cạnh tranh cao thích ứng yêu cầu hội nhập. Đẩy mạnh việc
phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, dịch vụ cao cấp. Cách thức
tổ chức, sản xuất, quản lý, tiêu chuẩn chất lượng, sản phẩm bảo đảm tái sản xuất
và thông lệ quốc tế; gắn kết thị trường trong nước và quốc tế trong một chỉnh thể
tuỳ thuộc thống nhất với nhau. Tập trung khai thác thế mạnh của kinh tế biển
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá xác định rõ chiến lược về biển.
Khai thác và sử dụng tài nguyên nhằm bảo đảm cho sự phát triển hiện tại mà
không làm hao tổn cho sự phát triển trong tương lai. Đó là toàn bộ những nội
dung thể hiện bước phát triển tư duy mới của Đảng ta về đường lối công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong thực hiện đường lối Đại hội X của Đảng ta.

Đại hội XI của Đảng thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2001-2010, nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa
đất nước thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được


nâng lên một tầm cao mới trên trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề
mới, quan trọng cho việc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của nước ta.
Về mục tiêu chung, phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, đồng thuận, dân
chủ, kỷ cương; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ
rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững
chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Trong đó, các mục tiêu cụ thể
về phát triển kinh tế - xã hội là như sau:
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang
phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp;
tăng nhanh hàm lượng nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Về mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta: Đại hội XI với chủ đề "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại", Đại hội đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X...
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đại hội đã nêu ra 8 phương hướng cơ bản
về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có phương hướng về "đẩy mạnh CNH,

HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN".
Về nội dung cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Đại hội XI xác định:
"Thực hiện CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ
tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả


và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng
phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính chất nền
tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp
ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng,
miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo
điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính từ những nội dung, quan điểm, chủ trương,chính sách đúng trong
thực hiện đường lối công nghiệp hoá của Đảng ta đã trực tiếp góp phần đưa sự
nghiệp cách mạng nước ta giành được những thắng lợi to lớn trong tình hình
hiện nay.
3. Thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm chủ yếu
3.1 Thành tựu, hạn chế
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nghề nông,
đến nay đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng
bước đáp ứng được cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
và chuyển toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp
sang nền kinh tế có tư duy công nghiệp. Quy mô của nền kinh tế tăng nhanh,
thu nhập đầu người vượt khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi
tình trạng kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Kinh tế
Việt Nam từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những

thành tựu của quá trình CNH, HĐH đưa đất nước ngày càng phát triển, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và góp phần bảo đảm an ninh,
quốc phòng. Những năm qua, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả đã đem lại nhiều nguồn lực bên ngoài
cho công cuộc CNH, HĐH của nước ta. Đồng thời, làm cho hệ thống chính
sách, pháp luật, thể chế và quá trình thực thi có bước tiến quan trọng và ngày


càng hiệu quả. Với những thành quả đạt được đã tạo ra cho nước ta thế và lực
lớn hơn nhiều so với trước. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
lên. Đây chính là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh hơn tiến trình CNH,
HĐH của đất nước, đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp. Tuy
nhiên, đất nước còn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen lẫn nhau, tác
động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những
năm gần đây đã bị suy giảm, cho thấy mô hình CNH, HĐH của nước ta có
những điểm không còn phù hợp; CNH, HĐH phát triển chưa bền vững, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đang chững lại; hiệu quả sử dụng
nguồn lực còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực thấp so với yêu cầu;
một số vấn đề xã hội phát sinh chậm được giải quyết. Trong khi đó, tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm
giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Môi trường ở nhiều
nơi đang bị ô nhiễm, tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt. Các thế lực thù
địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, sử dụng
các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở
nước ta. Tất cả những vấn đề đó ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc CNH,
HĐH đất nước. Ngoài ra, đang có sự lệch pha giữa nhận thức về lý luận và
thực tiễn bởi một thực tế là các nghị quyết thường bao hàm quá nhiều nội dung
nhưng lại thiếu những giải pháp có tính khả thi và cụ thể, nên dẫn tới tình trạng

đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; các định hướng CNH, HĐH trong từng thời kỳ
chưa có trọng tâm, trọng điểm; giải pháp thiếu đồng bộ, nhất là trong mối quan
hệ hoàn thiện thể chế, xây dựng chính sách đi đôi với giải pháp, cân đối các
nguồn lực. Mô hình CNH, HĐH còn có sự thiên lệch về cơ cấu ngành; dựa
nhiều vào khai thác và bán tài nguyên, phát triển theo chiều rộng, sử dụng
nhiều vốn hơn là sử dụng lao động và công nghệ cao nên đã gây nên một số
hạn chế trong quá trình phát triển, khiến tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH diễn
ra chậm, ngày càng bộc lộ những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi


mới, nhiều vấn đề đặt ra cần phải nghiêm túc xem xét để giải quyết. Cụ thể như
sau:
Về các vấn đề lý luận:
- Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam còn đang ở dạng khái niệm, chưa
được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp.
- Các khái niệm về công nghiệp phụ trợ chưa được xác định đúng theo nghĩa
nội hàm của nó, theo đó việc xây dựng các chính sách chưa sát với những yêu
cầu phát triển trong nước và hội nhập quốc tế.
- Tư duy CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn” cũng chưa làm rõ được
những nội dung cơ bản và động lực để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút
ngắn.
- Cần làm rõ nội hàm và bước đi về tư duy phát triển kinh tế phải đi đôi với
tiến bộ và công bằng xã hội để đạt được cả hai mục tiêu quan trọng, tránh sự
kiềm chế lẫn nhau.
- Coi trọng mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong phát
triển kinh tế - xã hội.
Về các vấn đề thực tiễn
- Nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ phát triển chậm, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp, có nguy cơ tụt hậu xa so với các nước khác có cùng điều kiện.
- Trong chiến lược CNH, HĐH thời gian qua đề ra quá nhiều mũi nhọn, nhưng

lại thiếu trọng tâm, trọng điểm cần thiết cho từng giai đoạn, dẫn đến việc đầu
tư bị dàn trải, kém hiệu quả trong điều kiện kinh tế và nguồn lực hạn hẹp. Chưa
xác định các “điểm then chốt” để thực hiện “3 đột phá” chiến lược nhằm đẩy
nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước.
- Công nghiệp vật liệu và hệ thống các sản phẩm chủ lực tham gia chuỗi
giá trị toàn cầu còn rất nhỏ bé, chưa có nhiều thương hiệu có giá trị trên thị
trường khu vực và quốc tế.
- Tỷ lệ nội địa hóa thấp, ưu thế trong xuất khẩu hiện nay thuộc về các
nhà đầu tư nước ngoài.


- Giá trị gia tăng của công nghiệp chủ yếu tăng nhờ sự phát triển theo bề
rộng, tốc độ tăng giá trị sản xuất cao hơn tốc độ tăng giá trị tăng thêm.
- Trình độ công nghệ lạc hậu so với khu vực và thế giới, tốc độ đổi mới
công nghệ, thiết bị thấp.
- CNH, HĐH chưa phát huy lợi thế của vùng, chưa có sức lan tỏa để thúc
đẩy phát triển kinh tế và huy động các nguồn lực xã hội.
- Sự phát triển của các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, như điện,
cơ khí, tự động, vật liệu... còn thấp, chưa đủ khả năng để tham gia toàn cầu hóa
và đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các ngành kinh tế, dịch vụ
khác.
- Mặc dù hệ thống kết cấu hạ tầng là một trong những khâu đột phá, song
tính kết nối giữa các phương thức vận tải chưa cao, còn là điểm nghẽn của quá
trình phát triển.
- Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh nhưng chất lượng cung
cấp dịch vụ kém, phân bố dân cư không đồng đều, chưa đáp ứng tốt cho công
cuộc CNH, HĐH của đất nước.
Trong thời gian tới, tình hình chính trị và kinh tế thế giới sẽ còn có nhiều
bất ổn gây ra tác động đa chiều, song kinh tế vẫn là vấn đề chủ đạo bảo đảm sự
ổn định và phát triển. Toàn cầu hóa với kinh tế tri thức vẫn là xu thế chủ yếu

trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế thế giới sẽ chuyển dịch theo theo chiều
hướng từ Tây sang Đông, từ “nâu” sang “xanh” và có nhiều biến đổi sâu sắc về
thể chế lẫn trình độ công nghệ và cơ cấu sản phẩm. Có mấy đặc điểm nổi bật
sau:
- Trong quá trình toàn cầu hóa, các chuẩn mực, nguyên tắc và các định
chế quốc tế sẽ trở thành nền tảng chi phối sự vận hành của nền kinh tế thế giới.
Theo đó, sự cạnh tranh giữa các quốc gia về nguồn lực và công nghệ ngày càng
gay gắt hơn.
- Sự phụ thuộc lẫn nhau của các nước trên thế giới ở phạm vi khu vực và
toàn cầu, cũng như khoảng cách về phát triển giữa các nền kinh tế ngày càng
lớn.


- Sự trỗi dậy của một số nền kinh tế mới nổi (nhất là Trung Quốc và Ấn
Độ) làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn cầu và theo
vùng địa lý.
- Tiến bộ khoa học và công nghệ cùng sự phát triển của kinh tế tri thức
tạo cơ hội cho các nước đi sau bắt nhịp, tham gia chuỗi kinh tế toàn cầu và là
thời cơ để “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH.
Tất cả những đặc điểm trên sẽ tác động không nhỏ tới quá trình CNH,
HĐH ở Việt Nam.
3.2 Những kinh nghiệm chủ yếu
Thứ nhất, Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn. Do đó, mở
rộng quy mô huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một điều kiện,
tiền đề quan trọng để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công. Vốn để công
nghiệp hoá, hiện đại hoá có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
ngoài nước. Nguồn vốn trong nước được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc
dân dựa trên cơ sở hiệu quả sản xuất, là lao động thặng dư của người lao động

thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích
luỹ vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hoá sản xuất.
Ở nước ta hiện nay, để tăng năng suất lao động xã hội tạo nên nguồn vốn
cho tích luỹ, trước hết và chủ yếu là phải khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động,
tập trung sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và sản xuất
hàng xuất khẩu... Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm. Với
một khối lượng của cải nhất định, tỷ lệ tiết kiệm càng cao, nguồn vốn càng lớn.
Do đó, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, ta phải triệt để tiết kiệm,
coi "tiết kiệm là quốc sách", đấu tranh triệt để với nạn tham nhũng, lãng phí...
Nguồn vốn trong nước còn phụ thuộc vào các chính sách kinh tế như: chính
sách cơ cấu các thành phần kinh tế, chính sách thuế, chính sách lãi suất... Do
đó, xây dựng chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong mỗi


×