Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn THI môn dân tộc, tôn GIÁO SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.01 KB, 20 trang )

TÀI LIỆU ÔN THI MÔN DÂN TỘC, TÔN GIÁO
Câu 1: Quan điểm nội dung cốt lõi công tác tôn giáo là công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng?
1. Nêu khái lược tôn giáo ở Việt Nam:
Có 13 tôn giáo với hơn 30 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn 100.000 chức sắc và
nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ, chiếm 1/3 dân số cả nước.
Trong đó, tín đồ Phật giáo 14 triệu, Thiên Chúa giáo 6 triệu, Tin lành 1,5 triệu, Cao Đài
gần 3,5 triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội 1,5 triệu, Tứ Ân Hữu
Nghĩa 78.000 và Hồi giáo 67.000,… Riêng trên địa bàn Tây Nguyên, năm 1975 chỉ có
50.000 người/200 thôn, làng theo đạo Tin lành, đến nay, đã là hơn 500.000 người/18.000
thôn, làng.
2. Lý luận CNMLN, TTHCM:
- CNMLN khẳng định, thật sai lầm nếu cho rằng sẽ đánh tan được những thiên
kiến tôn giáo chỉ bằng tuyên truyền, giáo dục hay mệnh lệnh hành chính
- Chủ tịch Hồ Chí Minh Chính quyền Dân chủ Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền
lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện
3. Phân tích nội dung:
- Mục đích: Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào
nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc
- Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không
phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
- Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng
tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng
- Giải pháp:
+ Thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi
ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo
+ Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở
+ Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù
hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn


giáo.
+ Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong
việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo.
Câu 2 : Đánh giá âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với vấn đề
tôn giáo ở Việt Nam.
1. Khái lược tình hình tôn giáo
2. Làm rõ âm mưu, thủ đoạn:
- Trong lịch sử của dân tộc ta, vấn đề TN,TG luôn là vấn đề “nhạy cảm” để các thế lực
thù địch lợi dụng chống phá phục vụ cho mưu đồ xâm lược hoặc gây mất ổn định đất nước
- Các tổ chức thiếu thiện chí ở nước ngoài đã dựa trên những thông tin bịa đặt từ
một nhóm người có hoạt động chống Nhà nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu
cáo “Việt Nam đàn áp, tấn công tôn giáo”, “các địa phương vẫn tiếp tục đàn áp nhiều người
Tin lành thiểu số”, “Việt Nam hiện có nhiều người bị giam giữ vì tôn giáo”, “bị cưỡng ép bỏ
đạo”…


- Núp dưới chiêu bài “tự do tôn giáo”, các thế lực thù địch tìm mọi cách gây hiềm
khích, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết và làm mất ổn định CTXH: giữa các nhóm, hệ
phái tôn giáo ở trong nước; gây mâu thuẫn giữa những người có TN,TG và không có
TN,TG, giữa đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước, Quân đội và Công an.
- Chúng ra sức tài trợ hoạt động truyền đạo trái pháp luật nhằm gây ra các “điểm
nóng” về chính trị - xã hội, tạo cớ để các thế lực phản động bên ngoài can thiệp vào công
việc nội bộ, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc.
- Các thế lực thù địch còn lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng, tuyên truyền,
kích động nhân dân gây rối, bạo loạn, vi phạm pháp luật và các quy định của địa phương.
 Khẳng định các luận điệu chống phá trên là sai trái
3. Tôn giáo ở VN đạt được nhiều thành tựu:
4. Từ những thành tựu chủ yếu về quyền tự do TN,TG, chúng ta khẳng định: Ở
Việt Nam, các hoạt động thuần TN,TG ngày càng ổn định theo đúng hiến chương, điều lệ

tổ chức, bảo đảm tuân thủ pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế
5. Liên hệ bản thân:
Câu 3 Quan điểm của Đại hội XI về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo?
1. Cơ sở:
- CNMLN, TTHCM:
HCM nói: "Phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho
xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do.
- Quan điểm đại đoàn kết toàn dân:
- Đặc thù TGVN:
2. Phân tích
- Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, đựơc nêu ra và tái
khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng.
- Tập trung làm rõ:
 Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật
 Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật
 Sự phát triển: từ Đại hội VIII về trước, văn kiện Đại hội chỉ nêu “tôn trọng”
nhưng đến 3 kỳ Đại hội (IX, X, XI) không chỉ nêu “tôn trọng”; mà còn “bảo
đảm” quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân
dân. Trên thực tế, để bảo đảm quyền ấy một cách đầy đủ đòi hỏi phải có sự
chuyển biến nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng trên
lĩnh vực tôn giáo.
 Ở Đại hội XI, đề cập rõ hơn vấn đề tín ngưỡng và tôn giáo, phân biệt tôn giáo và
tín ngưỡng
- Thực tế triển khai thực hiện chủ trương này của Đảng
Câu 4: Thành tựu, hạn chế trong thực hiện chủ trương của Đảng về công tác
tôn giáo
1. Khái quát tình hình TGVN:

2. Khái quát chủ trương nhất quán của Đảng về tôn trọng và bảo đảm thực hiện
quyền tự do TN, TG (điểm một số văn bản, NQ):
3. Thành tựu, hạn chế:
* Thành tựu:


 Tình hình TN,TG về cơ bản ổn định:
 Hệ thống quy phạm pháp luật về TN,TG được bổ sung, hoàn thiện;
 Công tác vận động quần chúng và công tác quản lý nhà nước về TN,TG, về an
ninh, trật tự ở cơ sở ngày càng được chú trọng, hướng hoạt động theo phương
châm “tôn giáo đồng hành cùng dân tộc”.
 Chính quyền các cấp luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo in ấn kinh
sách và những ấn phẩm liên quan đến tôn giáo.
 Nhà nước ta còn tiếp tục triển khai nhiều chương trình, mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, tập trung giải quyết vấn đề an sinh xã hội, phát triển văn
hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt TN,TG của mọi công dân.
 Các ngành, các cấp đã chủ động, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách
tôn giáo của Đảng; Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhìn chung, các tổ chức tôn giáo đã xây
dựng đường hướng hành đạo, hoạt động theo pháp luật; các tôn giáo được Nhà
nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào
công cuộc đổi mới đất nước.
* Hạn chế:
 Đó là tình trạng mở rộng cơ sở thờ tự, nhà nguyện trái pháp luật; việc dựng
tượng Thánh, tượng Chúa, tượng Phật trên đất công vẫn diễn ra ở một số nơi.
Tình trạng chức sắc “phong chui”, “tự nhận” vẫn tiếp diễn;
 Hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật vẫn xảy ra ở một số địa
phương, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới. Việc lưu hành
kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép nhập từ nước ngoài chưa được ngăn

chặn triệt để.
 Một số nhóm, hệ phái tôn giáo mâu thuẫn với nhau, dẫn đến hiện tượng tranh
giành tín đồ, gây ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
 Các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, đạo lạ, tà đạo có biểu hiện gia tăng
trong những năm gần đây.
4. Nguyên nhân chủ yếu :
 Công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, trong
khi các thế lực thù địch ráo riết tranh thủ, giành giật, lôi kéo quần chúng tín
đồ, chức sắc tôn giáo.
 Một số cấp uỷ, chính quyền các cấp, một số cán bộ có trách nhiệm chưa nhận
thức, quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
tôn giáo. Có nơi chủ quan, nóng vội, giản đơn trong giải quyết nhiều vấn đề
liên quan đến tôn giáo; có nơi lại hữu khuynh, thụ động, buông lỏng quản lý.
 Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn
giáo chậm được thể chế hoá. Tổ chức, bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ
thống chính trị, nhất là bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo chưa xác định
rõ được mô hình, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế phối hợp, thiếu sự
quan tâm đầu tư bảo đảm các điều kiện hoạt động;
 Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng
đông tín đồ tôn giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số còn yếu, việc tập
hợp quần chúng còn hạn chế.


Câu 5: Tính đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm của Đảng: Đồng bào tôn giáo
là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân, tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng CNXH ở Việt Nam?
1. Khái lược TGVN:
2. LLCNMLN, TTHCM:
- Lý luận CNMLN
- HCM: ""Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và các đồng bào tôn giáo,

cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc".
3. Tôn giáo đồng hành cùng dân tộc, trong công cuộc xây dựng CNXH:
 Đa số đồng bào các tôn giáo ở Việt Nam có tinh thần yêu nước; trước khi là
tín đồ các tôn giáo họ đã là người Việt chung cội nguồn dân tộc (mang trong
mình dòng máu Lạc- Hồng)
 Gắn bó với cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, những yếu
tố tiêu cực của tôn giáo bị hạn chế hay triệt tiêu, những yếu tố tích cực được
phát huy, triển nở.
 Những giá trị và đường hướng tốt lành của các tôn giáo có sự gắn bó với sự
phát triển dân tộc Việt Nam như “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công
giáo, “Đạo pháp- Dân tộc- Chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Nước vinh, đạo
sáng” của Cao đài, “Sống Phúc âm phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và
Dân tộc’ của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc)…
 Chỉ có gắn bó với dân tộc, văn hoá Việt Nam, các tôn giáo mới có cơ hội tồn
tại và phát triển.
 Để cho đồng bào có đạo an tâm hành đạo trong chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh có
thái độ rất rõ về vấn đề này, ngày 10/5/l958, khi trả lời câu hỏi của các cử tri Hà
Nội rằng: "Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?" Hồ Chí
Minh trả lời: "Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do.
4. Thực tiễn KCCP, KCCM, công cuộc xây dựng và bảo vệ TQVNXHCN đã chứng minh:
Câu 6: Những điểm mới trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
- Vấn đề thứ nhất là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
- Vấn đề thứ hai là, chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Chống lợi dụng tôn giáo
được thể hiện ở mọi kỳ Đại hội. Nhưng vấn đề này ở Đại hội XI có hai điểm đáng lưu ý:
 Một là, "chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo chứ không phải thụ động đi "chữa cháy” hay "giải quyết tình thế".
 Hai là, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá

hoại khối đoàn kết dân tộc.
- Vấn đề thứ ba là, tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo.
- Vấn đề thứ tư là, động viên ... các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham
gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Vấn đề thứ năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận,
đúng quy định của pháp luật.
- Vấn đề thứ sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
Câu 6 : Những điểm mới trong Đại hội XI về tôn giáo


Trên 80 năm, kể từ khi thành lập Đảng (1930-2011) đến nay, Đảng ta đã tiến
hành 11 kỳ Đại hội. Những quan điểm về tôn giáo của Đảng đều được thể hiện ở tất cả
các kỳ Đại hội, trong đó có quan điểm nhất quán, bất biến xuyên suốt mọi thời kỳ cách
mạng, nhưng cũng có quan điểm, chủ trương về tôn giáo được bổ sung, phát triển, trong
đó có cả quan điểm mới so với các kỳ Đại hội trước đó. Đại hội XI, Đảng ta nêu lên một
số quan điểm mới (hiểu theo nghĩa tương đối ) so với các kỳ Đại hội trước.
Đại hội XI, vấn đề tôn giáo được đề cập ở hai văn kiện quan trọng, đó là: Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển 2011) và
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
Cương lĩnh ghi: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không
tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý
nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng
tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” 1. Còn trong Báo cáo Chính trị
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách,
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá
trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc,
tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến

chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc”2.
Như vậy, về tôn giáo và công tác tôn giáo, các văn kiện Đại hội XI đã nêu lên một số
quan điểm cơ bản sau:
Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Hai là, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
ngữơng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.
Ba là, tôn trọng và phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn
giáo.
Bốn là, động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham
gia đóng góp tích cực cho cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã đựơc Nhà nước công nhận, đúng quy định
của pháp luật.
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp
với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
Từ những quan điểm cơ bản trên dễ nhận thấy, ở Đại hội XI Đảng ta vẫn tiếp tục
khẳng định một số quan điểm đã từng nêu ra trong các kỳ Đại hội trước, nhưng cũng có
những điểm mới nhất định được bổ sung, phát triển và làm rõ thêm. Cho dù chưa thật đầy
đủ, nhưng bước đầu tác giả bài viết này mạnh dạn nêu mấy điểm mới về tôn giáo trong
Đại hội XI.
Vấn đề thứ nhất là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, đựơc nêu ra và tái
khẳng định nhiều lần qua các kỳ Đại hội Đảng. Cho đến nay, trải qua 11 kỳ Đại hội, trong
đó có 6 kỳ Đại hội của thời kỳ Đổi mới, thì quan điểm trên về cơ bản là nhất quán. Tuy
nhiên, nếu nghiên cứu kỹ sẽ thấy có mấy điểm mới nhất định. Ví dụ: từ Đại hội VIII về
trước, văn kiện Đại hội chỉ nêu “tôn trọng” nhưng đến 3 kỳ Đại hội (IX, X, XI) không chỉ



nêu “tôn trọng”; mà còn “bảo đảm” quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Trên thực tế, để bảo đảm quyền ấy một cách đầy đủ đòi
hỏi phải có sự chuyển biến nhận thức và quán triệt sâu sắc quan điểm đổi mới của Đảng
trên lĩnh vực tôn giáo.
Cũng cần nói thêm rằng, ngay ở Đại hội II (1951), Đảng ta có nêu: "Tôn trọng và
bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng" 3. Theo tôi, "bảo vệ" và "bảo đảm" không phải là những
khái niệm đồng nhất. Sắc lệnh 234 do Hồ Chủ tịch ký năm 1955 ngay ở Điều 1, chương
I cũng nêu: Chính phủ đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân.
Khái niệm "bảo đảm” và "đảm bảo” là tương đồng, nhưng đây là Sắc lệnh của Chính phủ,
chưa phải là quan điểm của Đảng trong Đại hội.
Ở Đại hội XI, khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo có sự phân biệt rõ” "tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân" 4. Cho đến Đại hội IX vẫn
nêu :"Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp
luật”5. Và ngay cả Đại hội X cũng chỉ nêu và nhắc lại: "Thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của nhân
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật"6.
Trong ngôn ngữ văn bản thường dùng khái niệm "tự do tín ngưỡng" là theo nghĩa
rộng, nghĩa là bao gồm cả tự do tôn giáo, đó là: Tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng tức là
đảm bảo quyền tự do về thực hành tôn giáo; quyền theo hoặc không theo một tôn giáo
nào; tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo; quyền in ấn, phát hành kinh sách, đào tạo
giáo sĩ... Nghĩa là tự do tín ngưỡng không phải chỉ trong phạm vi tự do tư tưởng, lựa chọn
đức tin mà cả tôn trọng những hoạt động tôn giáo để thể hiện đức tin đó. Tuy nhiên để
tránh sự hiểu làm không cần thiết, Đại hội XI lần này nêu rõ, không chỉ tôn trọng và bảo
đảm niềm tin tôn giáo (tín ngưỡng) mà cả hoạt động tôn giáo thể hiện niềm tin ấy. Mà
theo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo thì hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành
giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
Vấn đề thứ hai là, chủ động phòng ngừa với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,

tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Chống lợi dụng tôn giáo
được thể hiện ở mọi kỳ Đại hội. Nhưng vấn đề này ở Đại hội XI có hai điểm đáng lưu ý:
Một là, "chủ động phòng ngừa” với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chứ
không phải thụ động đi "chữa cháy” hay "giải quyết tình thế". Các kỳ Đại hội trước, Đảng
ta đều nêu rõ cần phải đấu tranh đối với bọn lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, tuy có cách
diễn đạt khác nhau. Ví dụ: Đại hội II nêu "nghiêm trị", Đại hội III nêu "Nhà nước cần
trừng trị", Đại hội IV nêu "chống”, Đại hội V nêu "nghiêm trị", Đại hội VI nêu "cảnh
giác, kiên quyết và kịp thời chống”, Đại hội VII nêu "nghiêm cấm và ngăn chặn", Đại hội
VIII và Đại hội IX đều nêu "nghiêm cấm", Đại hội X nêu "đấu tranh ngăn chặn". Đến Đại
hội XI: “đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng tôn
giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân"
(Cương lĩnh bổ sung) và điểm mới ở đây là: "Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh
với những hành vi lợi dựng tín ngưỡng, thụ giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn
kết dân tộc” (Báo cáo Chính trị). Thiết nghĩ việc "Chủ động phòng ngừa” là vấn đề mới
được nêu ở Đại hội lần này. Việc "chủ động phòng ngừa không để xảy ra hiện tượng lợi
dụng tôn giáo vẫn tốt hơn nhiều so với để sự việc xảy ra buộc phải xử lý. Muốn chủ động
phòng ngừa được tốt, trước hết phải quan tâm đến nhu cầu vật chất và tinh thần của người
dân có tín ngưỡng, tôn giáo; phải có những quan điểm mới phù hợp, có hệ thống chính
sách đồng bộ và ứng xử đúng đắn với tôn giáo.


Ba là, những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại
khối đoàn kết dân tộc.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng có nêu: "Đấu tranh ngăn chặn các hoạt
động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi
ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân" 7. Ở Đại hội XI thay
khái niệm "mê tín dị đoan” bằng "mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc". Khái
niệm "mê tín dị đoan” và "mê hoặc" là có sự khác nhau.
Vấn đề thứ ba là, tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn
giáo.

Trong Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1990, lần đầu tiên Đảng ta
thừa nhận "đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới".
Đến Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 1998, công nhận: “Những giá trị văn hoá,
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy". Ở Hội nghị lần
thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá VIII còn nêu cả mục 8 về "chính sách văn hoá đối
với tôn giáo". Và Đại hội IX, Đảng ta chính thức khẳng định trong Báo cáo Chính trị:
"Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá và đạo đức của tôn giáo" 8. Một lần nữa, tại Đại
hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhắc lại quan điểm này: "Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo". Điểm mới về vấn đề này là ở chỗ, Đại hội XI
Đảng ta không chỉ nêu: "Phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn
giáo" mà còn cần "tôn trọng” (Cương lĩnh) những giá trị ấy.
Đây là cách diễn đạt một quan niệm mới lần đầu tiên được đưa vào văn kiện Đại hội XI,
còn trước đó chỉ thấy trong nguyên tắc thứ nhất của Chỉ thị 37-NQ/TW của Bộ Chính trị
năm 1998: "Những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và
khuyến khích phát huy (NĐL nhấn mạnh)”. Muốn phát huy, trước hết cần tôn trọng
những giá trị đạo đức và văn hóa vốn có của tôn giáo. Tôn trọng giáo chủ, chức sắc, tín
đồ, các tổ chức tôn giáo đã công nhận; tôn trọng cơ sở thờ tự, kinh sách, lễ nghi... và
những hoạt động tôn giáo khác.
Vấn đề thứ tư là, động viên ... các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia
đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) có ghi: "Đồng bào theo đạo
và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc,
sống "tốt đời, đẹp đạo"9. Đại hội IX, Đảng ta nhắc lại: Đồng bào theo đạo và chức sắc tôn
giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời đẹp đạo”.
Đến Đại hội X nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và đoàn thể nhân dân: "Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn
giáo sống tốt đời, đẹp đạo". Như vậy đến Đại hội X đã xác định rõ chủ thể của công tác
tôn giáo vận, nhưng còn khách thể chủ yếu vẫn chỉ trong phạm vi là tín đồ và chức sắc
các tôn giáo.
Đến Đại hội XI tái khẳng định quan điểm trên và có bổ sung thêm đối tượng nữa cần

động viên là “các tổ chức tôn giáo" đã được Nhà nước công nhận. Tổ chức tôn giáo là tập
hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật lễ nghi và tổ chức theo
một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận. Trước khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo Nhà nước ta đã công nhận 16 tổ chức tôn giáo của 6 tôn giáo. Từ khi có Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo Nhà nước ta đã tăng cường xem xét công nhận và cấp giấy cho các
tổ chức tôn giáo hoạt động thêm 17 tổ chức của 7 tôn giáo nữa. Như vậy, ở Việt Nam cho
đến tháng 6 năm 2011 đã có 33 tổ chức của 13 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công
nhận về tổ chức.


Tổ chức tôn giáo có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo cộng đồng có tôn giáo hành
đạo theo hướng "tốt đời đẹp đạo", như "sống phúc âm giữa lòng dân tộc" (Công giáo),
"đạo pháp, dân tộc và CNXH” (Phật giáo), "phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc"
(Tin lành)...Những năm qua do được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, số các tổ chức
tôn giáo được công nhận ngày một gia tăng. Các tổ chức tôn giáo thực hiện đường hướng
hành đạo đúng đắn: ích nước, lợi đạo. Đã có chiều tấm gương của các vị chức sắc, tín đồ
các tôn giáo vừa làm trọn bổn phận "dân Chúa” vừa chu toàn trách nhiệm công dân đối
với Tổ quốc. Đồng bào có đạo hăng hái hoạt động xã hội góp phần xứng đáng vào sự
nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhà nước ta cũng đã ra sức động viên, khuyến khích,
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào có đạo tham gia ngày một sâu rộng vào
những hoạt động: kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo ...
Vấn đề thứ năm là, quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận,
đúng quy định của pháp luật.
Về các tổ chức tôn giáo, Đại hội Đảng lần thứ X nêu: "Các tổ chức tôn giáo hợp pháp
hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ" 10. Trong Báo cáo Chính trị ở Đại hội
lần này nêu rõ: "Quan tâm và tạo mọi điều kiện (NĐL nhấn mạnh) cho các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, đúng quy định của pháp luật”11.
Nhà nước ta không chỉ công nhận, bảo hộ mà Đảng ta còn quan tâm và tạo mọi điều kiện

cho các tổ chức tôn giáo ấy sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo
theo đứng quy định của pháp luật. Điều này thể hiện tầm nhìn mới của Đảng đối với các
tổ chức tôn giáo hợp pháp.
Vấn đề thứ sáu là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước.
Để cho những quan điểm chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, mỗi khi Đảng ta đưa ra
những quan điểm về tôn giáo thì Nhà nước kịp thời thể chế hóa bằng những văn bản pháp
quy. Ví dụ, ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TW thì năm 1991,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 69; ngày 2-7-1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị
số 37-CT/TW thì năm 1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị đinh 26; ngày 12-32003 tại Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta ra Nghị
quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, thì ngày 29/6/2004, Chủ tịch nước Trần Đức
Lương đã ký lệnh công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, đã được Ủy ban Thường vụ
Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004. Ngày 01 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban
hành Nghị định số: 22/2005/NĐ- CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín
ngưỡng, tôn giáo . . .
Đại hội IX lần đầu nêu, từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo. Đại hội
XI nêu rõ là "tiếp tục" thay cho "từng bước hoàn thiện” không chỉ luật pháp mà cả chính
sách về tín ngưỡng và tôn giáo. Việc tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo được đặt ra thường xuyên, liên tục. Đây là điểm mới quan trọng thể
hiện cách tư duy biện chứng về hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng ta.
Nhận thức là một quá trình, tư duy mới của Đảng về tôn giáo cũng là một quá trình mà
không thể coi ở thời điểm nhất định là hoàn thiện tuyệt đối cho mọi giai đoạn lịch sử. Quá
trình đổi mới tư duy tôn giáo để phù hợp với xã hội đương đại cần phải bảo lưu và kế
thừa những nhân tố hợp lý đã được đề cập và cao hơn là phải bổ sung, phát triển những
điểm mới phủ hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Đó cũng là yêu cầu mới đặt ra cho các nhà
lý luận và hoạch định đường lối chính sách đối với tôn giáo, tín ngưỡng thời đương đại.
Trải qua 6 kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới đất nước, vừa kế thừa, phát triển, bổ sung quan


điểm về tôn giáo trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội là xuất phát từ thực tiễn

cách mạng Việt Nam, từ bối cảnh quốc tế và phát triển lý luận mà: "Người mác-xít phải
biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”. 12
Vấn đề tôn giáo được nêu trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội XI đã thể hiện một lộ trình
đổi mới tư duy của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo. Có những quan điểm được tái khẳng
định, hoặc bổ sung trong các văn kiện của các kỳ Đại hội trước, nhưng cũng có những
điểm đã được nêu ra trong các văn bản của Đảng, nhưng sẽ là "mới" so với Văn kiện của
các kỳ Đại hội toàn thể trước đó.
Câu hỏi 7: Vì sao các dân tộc ở Việt Nam phải đoàn kết mới tồn tại và phát
triển?
Trả lời:
Đoàn kết, cố kết chặt chẽ với nhau là một truyền thống cực kỳ quý báu của các dân
tộc ỏ Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta chứng
minh rằng chỉ có đoàn kết, các dân tộc ở Việt Nam mới tạo ra sức mạnh để bảo vệ mình
và phát triển. Điều này xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Một là, đoàn kết mới có sức mạnh để trị thuỷ và xây dựng một nền kinh tế thông
nhất.
Việt Nam hàng ngàn năm qua là một nước nông nghiệp, từ xa xưa nền kinh tế chủ yếu là
trồng lúa nước. Để chủ động nguồn nước phục vụ cho cây lúa * ngành kinh tế chủ yếu
của đất nước, yêu cầu trị thuỷ đặt ra rất lớn, liên tục đối với các thế hệ, các dân tộc sinh
sống trên lãnh thổ Việt Nam. Muốn trị thuỷ đòi hỏi các dân tộc qua nhiều thế hệ phải
chung sức đắp đê chống lũ lụt, khai sông ngòi, mương phai để lấy nước cấy lúa trong
mùa- khô. Dần dần các dân tộc ở Việt Nam hiểu rằng phải chung sức trị thuỷ mới có thể
có cơm no, áo ấm.
Cùng vối trị thuỷ, các dân tộc ở Việt Nam sinh sống trên các địa bàn, các vùng miền
khác nhau, với những thế mạnh kinh tế khác nhau, tất yếu nảy sinh nhu cầu trao đổi sản
vật, hàng hoá từ vùng này qua vùng khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Quá trình
trao đổi ấy được duy trì từ đời này sang đời khác, đảm bảo cho cuộc sống của từng dân
tộc và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tình đoàn kết giữa các dân tộc ở Việt Nam
đã được hình thành từ hoạt động lao động sản xuất vì cuộc sống của chính mình.
Hai là, đoàn kết mới đủ sức mạnh để chống lại các thế lực xâm lược to lớn, hung

hãn luôn tìm mọi cách thôn tính Việt Nam.
Trong lịch sử, các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam luôn phải đương đầu chống lại các
thế lực xâm lược to lớn, hung hãn. Từ xa xưa, các triều đại phong kiến phương Bắc đều
có dã tâm thôn tính Việt Nam, hầu như tất cả các triều đại đều đưa quân xâm lược Việt
Nam. Từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những thế lực thực
dân, đế quốc to lớn cùng thay nhau xâm lược, thống trị nước ta. Để chống lại quân xâm
lược, các dân tộc ở Việt Nam không còn con đường nào khác là phải đoàn kết nhau lại,
cùng hợp sức để đánh bại kẻ thù, bảo vệ nền độc lập tự do của cả cộng đồng dân tộc.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng không đoàn kết nhau lại để chống kẻ thù chung thì nước
Việt Nam sẽ bị thôn tính. Khi Tổ quốc Việt Nam bị xâm lược thì các dân tộc cũng bị mất
độc lập tự do. Các thế lực xâm lược cũng luôn tìm cách chia rẽ tình đoàn kết giữa các dân
tộc ở Việt Nam để chúng dễ bề xâm lược và thống trị. Chính vì vậy, có đoàn kết, chung
sức chung lòng mới đủ sức mạnh để trụ vững trước các thế lực xâm lược, đó là yêu cầu
sống còn của các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam
Ba là, đoàn kết là yêu cầu khách quan để xây dựng và giữ gìn một nền văn hóa
mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Ở khu vực châu Á, Việt Nam là một nước nhỏ, nằm gần hai nước lớn có nền văn


minh phát triển sớm là Trung Quốc và Ấn Độ. Tác động của hai nền văn minh Trung
Quốc và Ấn Độ đến các nước trong khu vực là rất lớn, rất mạnh. Vì thế các dân tộc ở
Việt Nam phải đoàn kết, thật sự chung sức chung lòng để xây dựng và giữ gìn một nền
văn hóa mang bản sắc của mình thì mới đủ sức trụ vững không bị đồng hoá bởi các nền
văn minh khác. Chỉ có như vậy, các dân tộc ở Việt Nam mới còn là chính mình, mới giữ
được phong tục tập quán, tâm lý dân tộc, giữ được cội nguồn, tên gọi của mình, không bị
trở thành người khác.
Chính vì xây dựng và giữ được bản sắc văn hóa của mình nên trong lịch sử mặc dù có
thòi kỳ bị đô hộ hang ngàn năm nhưng dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa. Với ý thức
dân tộc ấy, các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam đã liên tục vùng lên đấu tranh và cuốỉ
cùng đã giành được độc lập.

Như vậy, đoàn kết một lòng, các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam đã tạo nên
một nền văn hóa mang bản sắc của mình. Nhờ có bản sắc văn hóa ấy, cộng đồng các dân
tộc càng cố kết chặt chẽ tạo nên sức mạnh để dân tộc Việt Nam trụ vững và phát triển
trước mọi thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Có thể khẳng định rằng: Đoàn kết để xây
dựng và giữ gìn một nền văn hóa mang bản sắc dân tộc cũng là một đòi hỏi khách quan
để các dân tộc ở Việt Nam tồn tại và phát triển.

Câu 8 : Làm gì để phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa?
Trả lời:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhiều vùng dân tộc thiểu số đã từng là căn cứ địa cách
mạng, đồng bào các dân tộc đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Giai đoạn cách mạng hiện nay, để tiếp tục phát huy vai trò của
đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó nổi lên một số biện pháp cơ bản
sau:
Thứ nhất:. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đồng bào các dân tộc thiểu
số.
Căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh của từng vùng, từng dân tộc để lựa chọn các hình
thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp, thiết thực. Tuy nhiên, cần tập trung
vào những nội dung chính là khơi dậy, giáo dục lòng tự hào về truyền thống lịch sử vẻ
vang của dân tộc Việt Nam nói chung và truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào
từng dân tộc thiểu số nói riêng, để đồng bào thêm yêu nước, tự hào về dân tộc mình,
đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ quê hương. Giáo dục để đồng bào hiểu rõ âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng vấn đề dân tộc, chia rẽ dân tộc trên cơ sở đó đồng bào
đề cao cảnh giác, phát hiện và tích cực tham gia chống lại mọi hành động phá hoại của
các thế lực thù địch. Phổ biến đến đồng bào các dân tộc mọi đường lối, chính sách, pháp
luật nói chung; chính sách pháp luật thể hiện sự ưu tiên của Đảng, Nhà nước về phát triển
kinh tế, xã hội vùng dân tộc nói riêng để đồng bào thêm tin tưởng và gắn bó với Đảng.

Giáo dục để đồng bào hiểu và làm tròn nghĩa vụ công dân của mình trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai: Xây dưng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc
thiểu số vững mạnh.
Hệ thổng chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số là lực lượng trực tiếp tổ chức thực hiện


chính sách dân tộc của Đảng ở đây. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
phải thông qua hệ thống chính trị cơ sở mới đi vào cuộc sống của đồng bào. Mọi hoạt
động cách mạng của đồng bào đều do hệ thống chính trị cơ sở tổ chức. Mọi tâm tư,
nguyện vọng của đồng bào đều qua hệ thống chính trị cơ sở đến với tổ chức đảng và
chính quyền cấp trên. Những hoạt động vi phạm pháp luật, các mâu thuẫn nội bộ đều bắt
đầu xuất hiện từ cơ sở và việc xử lý trước tiên cũng do hệ thống chính trị cơ sở thực
hiện, v.v... Vì vậy, để phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốíc, phải tăng cường xây dựng và phát huy vai trò của hệ thông
chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, làm cho hệ thống chính trị ở đây vững mạnh, trung thành
tụyệt đốỉ với cách mạng, sát với dân, tận tụy phục vụ nhân dân, để đồng bào tin yêu và
làm theo sự dẫn dắt của hệ thống chính trị.
Thứ ba: Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngủ cán bộ người dân tộc
thiêu số.
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốic ở vùng đồng bào dân tộc trước hết là sự
nghiệp của chính đồng bào các dân tộc sở tại. Để vận động, tổ chức đồng bào vào các
hoạt động xây dựng và bảo vệ quê hương, không ai có thể làm tốt hơn đội ngũ cán bộ tại
chỗ là người các dân tộc thiểu số. Vì vậy, phải thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo,
bồi dưõng, sử dụng đội ngũ cán bộ, cả cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn,
kỹ thuật, giáo viên... là ngưòi dân tộc thiểu số.
Thứ tư: Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng.
Việc phát huy vai trò của đồng bào các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng. Thực
hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng trước hết là phải "Thực hiện tốt chính sách bình

đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; chống kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc". Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng
là phải thực hiện tốt bình đẳng giữa các dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết các dân tộc phải bằng những hành động thiết thực,
cụ thể như ưu tiên đầu tư sức lực, tiền của giúp đồng bào phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống, ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo, nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Phải từng bước làm
cho sự cách biệt về mọi mặt, trước hết về kinh tế giữa miền núi và đồng bằng, giữa dân
tộc này với dân tộc khác ngày càng thu hẹp lại. Có như vậy mối củng cố được niềm tin
của đồng bào các dân tộc thiểu số; đồng bào mới hết lòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu hỏi 9. Tại sao khẳng đinh: bình đẳng và đoàn kết là quan điểm nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc?
Bình đẳng và đoàn kết là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Điều này được khẳng định dựa trên
những cơ sở như sau:
Thứ nhất: Bình đắng và đoàn kết dân tộc đã được thể hiện nhất quán trong tất cả
các bản Hiến pháp của nước ta.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, “Hiến pháp nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1946” ra đời. Hiến pháp 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về các
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” (Điều 6)
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính
quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). “Ngoài


sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để
cùng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8).
Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc, ngày

31 tháng 12 năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Hiến
pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959. Hiến pháp 1959 quy định: “Nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ
giữ gìn và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia
rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm. Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục, tập
quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc của mình. Nhà nước ra sức giúp
đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa chung” (Điều 3
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất. Tháng 7 năm 1976,
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đổi tên là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước ta đã thông qua “Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980”. Hiến pháp 1980 quy định: “Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm cấm
mọi hành vi miệt thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ
gìn và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
Nhà nước có kế hoạch xóa bỏ từng bước sự chênh lệch giữa các dân tộc về trình độ phát
triển kinh tế và văn hóa”.
Vào thời kỳ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc,
ngày 15 tháng 4 năm 1992, Quốc hội nước ta đã thông qua “Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992”. Hiến pháp 1992 quy định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số” (Điều 5)
“Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các

vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn” (Điều 36).
“Nhà nước ưu tiên thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào miền núi
và dân tộc thiểu số” (Điều 39).
Như vậy, từ khi giành được chính quyền, lập nên Nhà nước công nông dưới sự lãnh
đạọ của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, vấn đề bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc ở
Việt Nam được quy định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và tiếp tục khẳng
định trong Hiến pháp 1959, 1980, 1992. Đó là sự thể chế hóa bằng pháp luật quan điểm
nhất quán về bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc ở Việt Nam, trong mọi thời kỳ cách
mạng của nước ta do Đảng lãnh đạo.
Thứ hai: Bình đẳng và đoàn kết dân tộc đã được thể hiện nhất quán trong các
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòĩtg
Về chính trị: Bình đẳng về chính trị là nội dung bao trùm, xuyên suốt trong chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như đa số


đều có quyền làm chủ, có quyền lợi và trách nhiệm xây dựng thể chế chính trị, xây dựng
hệ thống chính trị của đất nước. Đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số được quan tâm
xây dựng, ngày càng phát triển và trưởng thành. Đội ngũ này đã và đang là lực lượng chủ
yếu đảm đương trách nhiệm lãnh đạo, quản lý chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở
vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc. Nhiều đồng chí đã trở thành cán bộ
lãnh đạo của các bộ, ngành, các cơ quan Trung ương của Đảng. Đây là một thành công
rất cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng. Sự phát triển, trưởng thành của đội ngũ cán
bộ là người dân tộc thiểu số không chỉ là niềm tự hào, mà còn là sự khẳng định trên thực
tế quyền bình đẳng về chính trị của đồng bào các dân tộc thiếu số ở nước ta.
Về kinh tế: Đảng và Nhà nước ta nhất quán chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế, xã
hội miền núi và các vùng dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát
huy tiềm năng và các nguồn lực của mình, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triến kinh
tế hàng hóa, từng bước khắc phục sự chênh lệch còn khá lớn về trình độ phát triển kinh tế
- xã hội giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc thiểu số, giữa dân tộc thiểu số và dân tộc

đa số. Trên thực tế, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách
ưu tiên đầu tư xây dựng cơ cấu kinh tế mới, phát triển và ứng dụng khoa học - kỹ thuật,
xây dựng kết cấu hạ tầng; chính sách giao đất, giao rừng, định canh, định cư, tạo việc
làm, phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác và kinh tế tư nhân, v.v..., phù
hợp với các địa bàn, địa phương và đặc điểm canh tác, sản xuất của các dân tộc.
Về văn hóa: Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó đã có những chủ trương, chính sách cụ thể nhằm
giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc; nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa cho cán
bộ và nhân dân các dân tộc thiểu số; xây dựng các thiết chế văn hóa phù hợp; phát triến
văn hóa tộc người trong mỗi quan hệ kết hợp giữa truyền thống và hiện đại; đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa là người dân tộc thiểu s ố; đấu
tranh chống các tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình”, đồng hóa văn hóa.
Về xã hội: Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn thể
hiện sự bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc như chính sách xóa đói, giảm nghèo đối vói
các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; chính sách tạo
việc làm; chính sách đền ơn đáp nghĩa; chính sách bảo trợ xã hội; các chính sách về kế
hoạch hóa dân số, phòng chống các bệnh dịch, chống các tệ nạn xã hội, v.v...
Về an ninh - quốc phòng: Do nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và
giải quyết các vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách về
an ninh - quốc phòng vừa thực hiện quyền bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, vừa
đáp ứng những yêu cầu ổn định về chính trị, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội, xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Tất cả các điều này đã được thể hiện rất rõ trong hệ thống các văn
kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các văn bản của Chính phủ, các quy định cụ thể
của các cơ quan, ban, ngành chức năng của Đảng và Nhà nước.
Câu hỏi 10: Thành tựu cơ bản của chính sách dân tộc trong giai đoạn từ 1975
đến nay?
Trả lời:
Từ khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, đất nước
hoàn toàn độc lập, thống nhất, đặc biệt là sau gần 20 năm thực hiện đường lốỉ đổi mới,

tình hình miền núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có bước chuyển biến quan
trọng.
Một là, quyền bình đắng giữa các dân tộc được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời


sống xã hội.
Thành tựu cơ bản, trước hết của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta từ khi
đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất là quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được Hiến
pháp tiếp tục khẳng định và được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo
đó, mọi dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, dù là dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số đều
có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mọi công dân
không phân biệt dân tộc, thành phần, giai cấp, tôn giáo... đều bình đẳng trước pháp luật,
được pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và có nghĩa vụ, trách nhiệm xây
dựng và bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mọi tư tưởng, hành động tự coi mình là dân tộc lớn, kỳ thị dân
tộc… trái với đường lối, vi phạm chính sách dân tộc của Đảng ta, đều bị lên án và xử lý
theo pháp luật.
Hai là, đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số đã được
cải thiện rõ rệt.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số liên tục tăng
trưởng ở mức khá, đời sống của đồng bào đã được cải thiện rõ rệt. Nhà nước có sự quan
tâm lớn, đã ban hành nhiều chính sách ưu tiên và triển khai thực hiện hàng chục chương
trình quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn,
vùng núi và biên giới để giúp đồng bào nhanh chóng hoà nhập, cùng phát triển với cộng
đồng các dân tộc trong cả nước. Bộ mặt miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã
được cải thiện rõ rệt. Kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh chóng. Ngay từ năm 1995 tất
cả các tỉnh lỵ miền núi vùng cao đều có điện lưới quốc gia (trừ Lai Châu dùng thuỷ điện
nhỏ và điêzen). Với bước tiến này, nền văn minh công nghiệp sẽ nhanh chóng tạo được
dấu ấn mạnh mẽ trên địa bàn sinh sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần rút
ngắn dần sự chênh lệch giữa miền núi với miền xuôi. Ở các tỉnh miền núi, đường ô tô đã

tới hầu hết các xã, đảm bảo hàng hoá lưu thông giữa các tỉnh và từ tỉnh lỵ t ới huyện, xã,
giải quyết nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao dân trí, dần dần xoá bỏ nghèo nàn, lạc
hậu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội... ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi đã
được nâng cao một bước. Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên phát triển giáo dục, y
tế, văn hoá, xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trẻ em đến tuổi
đi học ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số về cơ bản đều được đến trường.
Trường, lớp ngày một khang trang hơn, tình trạng lớp học tranh, tre, nứa lá đang tích cực
được xóa bỏ thay vào đó là xây dựng lớp học kiên cố. Việc chăm sóc sức khoẻ của đồng
bào các dân tộc thiểu số ngày một tốt hơn. Khi ốm đau đồng bào đều được đến khám,
chữa tại các cơ sở y tế, dần dần đoạn tuyệt với cách chữa bệnh bằng cúng, lễ. Tỉ lệ đồng
bào các dân tộc thiểu số đã được xem ti vi, nghe đài ngày càng tăng.., đời sống tinh thần
được cải thiện rõ rệt. Những thành tựu đó đã tạo sự yên tâm, tin tưởng của đồng bào
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường.
Với những thành tựu cơ bản và toàn diện đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong mấy chục năm vừa qua đã
tạo thêm cơ sở vững chắc để củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc ở nước
ta. Quan hệ giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, quan hệ giữa đồng bào
các dân tộc thiểu số với nhau ngày càng bền chặt. Tình đoàn kết thống nhất ấy được biểu
hiện sinh động ở nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm của đất
nước đã và đang được triển khai thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền núi. Những chương
trình, dự án này đã nhận được sự ủng hộ rất to lớn của đồng bào các dân tộc thiểu số ở


đây. Đồng bào không chỉ góp công, góp sức mà còn nhường cả nương rẫy, di dời cả bản
làng, tạo điều kiện mặt bằng để thực hiện các chương trình, dự án. Tình đoàn kết giữa các
dân tộc còn biểu hiện ở sự tham gia ngày càng sâu rộng của đồng bào các dân tộc trong
nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ đường biên, cột mốc biên giới, bảo vệ

chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Trong những năm qua, tình đoàn kết giữa các dân tộc được củng cố và tăng cường đã
trở thành một nhân tố rất cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội giữ vững ổn định
chính trị - xã hội của đất nưốc. Đồng thời đây là thành tựu to lớn trong việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, là nhân tố có ý nghĩa chiến lược đảm bảo
cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
ngày nay. Đường lối, chính sách... của Đảng và Nhà nước, mà nhân dân các dân tộc còn
là người giám sát hoạt động của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, giám sát hoạt
động của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước ở địa phương mình. Những kết quả trên cho
thấy quyền bình đẳng về chính trị của các dân tộc thiểu số ngày càng được tăng cường,
tạo điều kiện thuận lợi cơ bản để thực hiện quyền bình đẳng trên các lĩnh vực khác, góp
phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Câu 11: Thành tựu chủ yếu về phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số từ năm 1975 đến nay?
Trả lời:
Thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, kinh tế ở vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số từ khi đất nước thống nhất - 1975 đến nay có sự phát triển quan
trọng. Đã hình thành và phát triển thêm một số thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ; các
khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp tập trung... ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
góp phần thay đổi diện mạo của địa bàn chiến lược này. Có thể thấy điều đó trên
một số nội dung chủ yếu sau:
Một là, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, nền
kinh tế nhiều thành phần từng bước được hỉnh thành và phát triển, phát huy
được thế mạnh của từng vùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá hơn.
Cơ cấu kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số có sự chuyển dịch theo hướng sản
xuất hàng hoá, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, tạo sự tăng
trưởng kinh tế ngày càng khá hơn, từng bước rút ngắn về sự chênh lệch với miền

xuôi. Nông nghiệp, nông thôn có bước phát triển khá. Mức độ lưu, luân chuyển
hàng hoá trên thị trường tăng nhanh, từ năm 1996 đến năm 2003 tăng 15- 20%/năm.
Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 9% (năm 1989) lên 18,4% (năm 2001).
Tốa độ tăng trưởng công nghiệp trong 12 năm đạt 9,2%.
Riêng vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi và trung du Bắc Bộ có
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế như sau:
sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 4,8% thời
kỳ 1996 - 2000 (cả nưóc là 5,7%). Nhân dân các địa phương trong vùng tiếp thu,
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đang từng bước thay dần tập quán canh tác
cũ, lạc hậu; giải quyết cơ bản nhu cầu lương thực; đang chuyển dần sang chăn nuôi
và trồng cây công nghiệp; hình thành và mở rộng vùng sản xuất chuyên canh tập
trung, nhất là cây công nghiệp, cây ăn quả. Lâm nghiệp đang chuyển đổi theo hướng
từ lâm nghiệp nhà nưóc sang lâm nghiệp xã hội, giao đất, khoán rừng cho hộ gia
đình, cá nhân; hình thành vùng nguyên liệu giấy, gỗ trụ mở tập trung. Năm 2002 độ
che phủ rừng đạt được 30% (cả nước 35,7%).
Sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân 10,5% thời kỳ 1996- 2000
(cả nước 13,5%); tiếp tục phát triển nhiều cơ sở công nghiệp mới... Một số ngành
công nghiệp do Trung ương quản lý có khối lượng sản phẩm sản xuất lớn như khai
thác A-pa-tít, phân lân, điện năng, thép, giấy...; bưóc đầu công nghiệp chế biến
nông, lâm sản đã gắn với các vùng nguyên liệu như chế biến đường, chè, giấy,...
Dịch vụ có bước phát triển, kinh tế cửa khẩu phát triển nhanh và hiệu quả, năm
2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 516 triệu USD, tăng gần gấp 3 lần so vối năm 1995;
các cửa khẩu quốc tế, quốc gia, địa phương và nhiều chợ ven biên giới đã có tác
động tích cực đến thị trường khu vực và cả nước: doanh thu ngành du lịch tăng
nhanh, năm 2000 đạt 386 tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với năm 1995.
Trong những năm qua các thành phần kinh tê ở vùng dân tộc thiểu số phát triển
mạnh. Khu vực kinh tế nhà nước đã và đang được sắp xếp lại. Kinh tê tập thể đang
củng cố và phát huy tác dụng. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân đã tăng lên nhanh
chóng. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô, chủ yếu là
loại hình kinh tế trang trại, kinh tế VAC, vườn rừng, núi đồi.

Quan hệ sản xuất từng bưóc được củng cố, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn;
một số lâm trường chuyển sang kinh doanh, dịch vụ tổng hợp trở thành trung tâm


kinh tế - kỹ thuật của tiểu vùng. Đã có một số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả hơn
trước. Số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng khá; gần đây xuất hiện nhiều mô
hình trang trại tốt, có khả năng nhân rộng
Hai là, kết cấu hạ tầng kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc thiểu sô có sự phát
triển mạnh.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Bảy, khóa IX của Đảng đánh giá:
hầu hết các đia phương ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã hình thành được
mạng lưới giao thông từ tỉnh đến huyện xã. Đường ô tô đến được trung tâm 97,42%
số xã trong cả nước. Trên 50% sô hộ dân được sử dụng điện, 100% thị xã, tỉnh lỵ,
98% số huyện, 64% số xã đã có điện lưới. Trên 60% số xã có điện thoại.
Ngay từ đầu năm 2005, các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên đã triển khai thực hiện
một phần của Chương trình dự án xây lắp 6.690km đường điện từ 0,4 đến 110KV và
2.030 trạm biến áp có tổng dung lượng 2.315 MVA, với tổng vốn đầu tư 3.000 tỷ
đồng, nhằm đưa điện về tận nhà dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa phục
vụ sản xuất và đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó, chương trình đầu
tư cấp điện đến tận nhà dân được triển khai đồng bộ để đưa điện đến 1.496 xã, với
93% số hộ dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, cung cấp nước
sạch... ở miền núi trung du Bắc Bộ từng bước được nâng cấp và mở rộng. Tổng vốn
đầu tư xã hội thời kỳ 1991 - 2000 đạt 65.722 tỷ đồng (trong đó ngân sách nhà nước
chiếm hơn 80%; vốn của dân khoảng 8%, vốn FDI khoảng 4%) đã góp phần quan
trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn.
Những việc làm này không chi góp phần nâng cao đời sống vật chất, thúc đẩy sản
xuất phát triển, khoảng cách về địa lý giữa các vùng, miền được rút ngắn mà còn
nâng cao đời sống tinh thần, phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ nhu cầu ngày
càng tăng của đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, làm cho đồng

bào yên tâm gắn bó hơn với quê hương.
Những điều trình bày trên cho thấy chủ trương đúng đắn, sự quan tâm của Đảng
đốỉ với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa; đồng thời thể
hiện việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Ba là, đói nghèo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi từng bước
được khắc phục.
Số hộ đói nghèo ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hàng năm giảm từ 4 - 5%,
tỷ lệ hộ đói nghèo của các tỉnh miền núi giảm còn 25,93%, đời sống của đại bộ phận
đồng bào các dân tộc được cải thiện rõ rệt... Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo đói của các tỉnh
miền núi còn cao so với bình quân chung của cả nước, song nhìn lại con số đó của
một số dân tộc năm 1992, ở người Dao chiếm 37,2%; ở người Mông là 31,8%; ở
người Xơ Đăng tới 78,78% ....mới thấy sự cô"gắng của Đảng và Nhà nước ta cùng
với sự nỗ lực của chính đồng bào các dân tộc thiểu số.
Hiện nay, vùng núi trung du Bắc Bộ đã giải quyêt được cơ bản vấn đề lương
thực tại chỗ, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm khoảng 3 - 5% hàng năm (cả nưóc 2%/năm),
cơ bản xoá được nạn đói kinh niên ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa - vấn đề nan
giải của nhiều năm trước đây chưa giải quyết được.
Những kết quả trên đây cho thấy Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm đến sự phát
triển kinh tê của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Sự quan tâm đó
không chỉ bằng nghị quyết, chính sách mà còn thể hiện ở việc thực hiện những nghị


quyết, chính sách đó. Việc đưa nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc
sống nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của đồng bào các dân tộc
thiểu số, rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch giữa miền xuôi với miền ngược, giữa
đồng bằng với miền núi, vùng sâu, vùng xa nhằm thực hiện tốt mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 12: Những thủ đoạn chính của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng
vấn đề dân tộc để chông phá cách mạng Việt Nam hiện nay là gì?

Trả lời:
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam là cách
làm, các biện pháp xảo trá, lừa lọc, có bản chất xấu xa, đê tiện của các thế lực thù
địch nhưng được che đậy, bao bọc một cách tinh vi, làm cho người ta tin và làm
theo, vỏ bọc che đậy cho các hành vi, thủ đoạn xấu xa mà các thế lực thù địch
thường dựa vào là các chiêu bài "nhân quyền”, "dân chủ", "tự do", nhất là tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; những vấn đề do lịch sử để lại; những khó khăn trong đời sống
vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc; những sai mặt chưa thật hợp lý, hay
thiếu sót trong việc thực hiện đường lổi phát triển kinh tế, xã hội ở miền núi, trong
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở các địa phương; những đặc
điểm về văn hoá, đời sống tâm lý, tín ngưõng tôn giáo của nhân dân các dân tộc
thiếu số... Nghĩa là các thế lực thù địch triệt để tận dụng, tạo ra, khai thác mọi khe
hở có thể, để thực hiện những biện pháp chống phá cách mạng Việt Nam về vấn đề
dân tộc trên chính địa bàn các dân tộc thiểu số đang sinh sống, coi đó là điểm xuất
phát trong thực hiện mưu đồ lớn và lâu dài của chúng.
Cách làm, biện pháp lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam
của các thế lực thù địch hiện nay là muôn hình, muôn vẻ, tuỳ theo điều kiện của mỗi
dân tộc mà chúng có sự triển khai cụ thể khác nhau, nhưng chung nhất nổi lên mấy
thủ đoạn chính sau đây:
Một là, về lĩnh vực tư tưởng.
Kẻ địch tập trung mũi nhọn xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, trực tiếp nhất là quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay, đặc biệt là những nội dung liên quan đến phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng ở miền núi, đến chính sách dân tộc;
thổi phồng những thiếu sót của ta trong quá trình thực hiện các chính sách đó ở địa
phương... nhằm vô hiệu hoá sự lãnh đạo của tổ chức đảng, của chính quyền địa
phương để chúng dễ bề nắm dân, khống chế dân.
Đi liền với tuyên truyền xuyên tạc, chúng ra sức kích động tư tưởng dân tộc hẹp
hòi, tư tưởng ly khai dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại sự
đoàn kết thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đó là các hoạt động cụ thể

như nhen nhóm, khuấy động, thổi bùng cái gọi là "quyền tự trị” của các dân tộc, yêu
sách thành lập ”Vương quốc riêng" của người Mông, người Chăm, người Khơ Me
Nam Bộ, v.v... tung các tin thất thiệt về đời sống tâm linh và hiện thực ở các vùng
đồng bào dân tộc sinh sống để tạo nên hàng loạt các hoạt động như vượt biên trái
phép, di dân tự do, hòng làm cho đời sống của đồng bào luôn luôn không ổn định.
Chúng đã triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào để tổ
chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây
dựng cơ sở. Đi liền với việc truyền các tà đạo, chúng khuyến khích đồng bào các
dân tộc duy trì tập tục lạc hậu, phản khoa học; đồng thời cổ vũ cho lối sống tư sản
trong thanh niên, thiếu niên, từng bưóc làm băng hoại đạo đức, bản sắc vàn hoá dân


tộc.
Để truyền tải các nội dung tuyên truyền đến đốỉ tượng, chúng đã sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh và in ấn các văn hoá phẩm bằng ngôn
ngữ, chữ viết các dân tộc; mặt khác dùng lối tuyên truyền “rỉ tai ” từ trên xuống
dưới, từ ngoài vào trong thông qua các hoạt động thăm thân, nghiên cứu khoa học,
hoạt động từ thiện của những người từ nước ngoài về hoặc những người có uy tín
trong dòng họ, các chức sắc tôn giáo.
Hai là, về lĩnh vực tổ chức.
Chúng ráo riết xây dựng các tổ chức phản động ở vùng dân tộc thiểu số của Việt
Nam. Chúng đẩy mạnh xây dựng các tổ chức, lực lượng phản động lưu vong là
người Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời liên kết chặt chẽ với các tổ chức phản
động của nước ngoài và lực lượng ngụy quân, ngụy quyền cũ. Đó là các tổ chức
như: "Mặt trận giải phóng Khơ Me Crôm", "Mặt trận Chămpa", "Mặt trận thống
nhất đấu tranh của các chủng tộc bị áp bức"... Đây là những tổ chức phản động lưu
vong được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn trên mọi phương diện .
Đi liền với việc xây dựng các tổ chức trên, một thủ đoạn khác của kẻ địch là đẩy
mạnh hoạt động của các tổ chức ở nước ngoài như “Hội người Mông quốc tế", "Liên
hiệp người Mông tự trị", "Văn phòng Chămpa quốc tế", "Liên minh người Chăm tị

nạn", "Hội người Khơ Me Crôm"... Các tổ chức này vừa tập hợp, phát triển lực
lượng là người các dân tộc thiêu số ở ngoài nước, vừa hỗ trợ móc nối phát triển lực
lượng ở trong nước ta; đồng thời tìm cách gây áp lực với các tổ chức quốc tế có uy
tín như Liên hợp quốc hoặc chính phủ của một số nước nhằm "quốc tế hoá" vấn đề
dân tộc của ta, gây khó khăn cho Nhà nước Việt Nam.
Ba là, về hành động chống phá.
Chúng trực tiếp tiến hành phá hoại cơ sở kinh tế, xã hội, trực diện chông đối
chính quyền, khống chế đồng bào buộc phải tham gia các hoạt động chống đối, bạo
loạn chính trị do chúng tổ chức, gây mất ổn định, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài
can thiệp. Thủ đoạn này được chúng thực hiện bằng nhiều biện pháp như dùng tiền
mua chuộc, khuyến khích chặt phá rừng, phá hoại sản xuất, giết mổ trâu bò, bán
tống tài sản nộp tiền cho chúng để được đưa đến nơi “sung sướng", để đón "vua" của
các dân tộc... Thậm chí, chúng đã dùng cả thuốc độc để khống chế, không cho học
sinh đến trường, gây nên sự hoang mang trong dân chúng. Cao hơn, các tổ chức
phản động đã liên kết với nhau lừa phỉnh, khống chế, kích động đồng bào các dân
tộc vượt biên đến sống trong các trại tị nạn ở nước ngoài, từ đó chúng tuyển lựa
người, tiến hành đào tạo rồi tổ chức bắt họ trở lại Việt Nam để chống phá cách
mạng. Chúng đẩy mạnh các hoạt động móc nối, tạo ra lực lượng và khi thời cơ đến
tổ chức các cuộc biểu tình, bạo loạn chính trị, điển hình như các cuộc bạo loạn vào
tháng 2 năm 2001 và tháng 4 năm 2004 ở Tây Nguyên. Chưa chịu thất bại, hiện nay
các thế lực thù địch đang ngày đêm rình rập đẩy mạnh các hoạt động chuẩn bị cho
các cuộc bạo loạn mới dưới sự bảo trợ, chỉ đạo của các thế lực thù địch ở nước
ngoài
Tóm lại, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong lợi dụng vấn đề dân tộc để
chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là rất đạ dạng, với tính chất rất nguy hiểm.
Chúng đã kết hợp các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng với tổ chức lực
lượng và trực diện đấu tranh chống chính quyền, đòi quốc tế hoá vấn đề dân tộc... để
đi đến mục tiêu cao hơn là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lật đổ chế độ
xã hội chủ nghĩa, chia Việt Nam thành nhiều "quốc gia” trong sự không chế của



chúng. Những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm làm cho cuộc sống
của một bộ phận đồng bào dân tộc thiếu số ở nước ta đã khó khăn lại càng khó khăn
hơn. Tuy nhiên, các thủ đoạn chống phá điên cuồng đó của chúng có đạt được mục
tiêu hay không còn phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ
động tiến công của ta.



×