Tải bản đầy đủ (.doc) (399 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIÁO TRÌNH QUẢN lý NHÀ nước về tài CHÍNH CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 399 trang )

Forum of Public Administration’ Student

Giáo trình
Quản lý Nhà nước về Tài
chính Công
(Sưu tầm bởi )

2004

www.HanhChinh.com.vn


Chương thứ nhất
Những vấn đề cơ bản về tài chính Nhà nước
và quản lý tài chính nhà nước
Phần I
Những vấn đề cơ bản về tài chính nhà nước
I. Khái niệm và đặc điểm của tài chính Nhà nước
1. Khái niệm Tài chính Nhà nước
Tài chính Nhà nước là một bộ phận hữu cơ của nền tài chính quốc gia. Nó
ra đời, tồn tại và phát triển gần với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước
và sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Nhà nước xuất hiện đòi hỏi
phải có nguồn lực vật chất nhất định để nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực
hiện các chức năng kinh tế, xã hội do cộng đồng giao phó. Trong nền kinh tế
hàng hoá tiền tệ, các nguồn lực vật chất đó, không những đã được tiền tệ hoá mà
còn ngày càng trở nên dồi dào. Chính trong những điều kiện như vậy, tài chính
Nhà nước mới ra đời, tồn tại và phát triển. Ngày nay, tài chính Nhà nước, không
chỉ là công cụ động viên, khai thác mọi nguồn lực tài chính của xã hội tạo nên
sức mạnh tài chính của Nhà nước mà còn là công cụ quản lý, điều chỉnh mọi
hoạt động kinh tế, xã hội của mọi quốc gia. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, sự
tồn tại, phát triển tài chính Nhà nước là một đòi hỏi khách quan và hết sức cần


thiết.
Tuy nhiên, để sử dụng có hiệu quả phạm trù tài chính Nhà nước trong
thực tiễn, đòi hỏi trước hết phải nhận thức một cách đầy đủ, chính xác phạm trù
đó.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, hoạt động tài chính thể hiện ra như là các
hiện tượng thu, chi bằng tiền - sự vận động của các nguồn tài chính - gắn liền
với việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhất định. Trên phạm vi toàn bộ
nền kinh tế, gắn liền với sự hoạt động của các chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế
- xã hội khác nhau có các quỹ tiền tệ khác nhau được hình thành và được sử
dụng. Có thể kể như: Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình; quỹ tiền tệ của các doanh
nghiệp; quỹ tiền tệ của các tổ chức bảo hiểm , tín dụng; quỹ tiền tệ của Nhà
nước … Quỹ tiền tệ của Nhà nước là một bộ phận của hệ thống của các quỹ tiền
2


tệ trong nền kinh tế và có mối quan hệ hữu cơ với quỹ tiền tệ khác đi liền với
mối quan hệ ràng buộc phụ thuộc giữa các chủ thể kinh tế - xã hội trong khi
tham gia phân phối các nguồn tài chính.
Gắn với chủ thể là Nhà nước, các quỹ tiền tệ của Nhà nước được tạo lập
và sử dụng gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Nói một cách khác, các quỹ tiền tệ của
Nhà nước là tổng số các nguồn lực tài chính đã được tập trung vào trong tay
Nhà nước, thuộc quyền nắm giữ của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng cho
việc thực hiện các sứ mệnh xã hội của mình. Trên quan niệm đó, quỹ tiền tệ của
Nhà nước, có thể được xem như là sự tổng hợp của các quỹ tiền tệ chung của
Nhà nước và quỹ tiền tệ của các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước. Các quỹ
tiền tệ chung của Nhà nước lại bao gồm: Quỹ Ngân sách Nhà nước và các quỹ
ngoài NSNN.
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước kể trên
chính là quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính thông qua

các hoạt động thu, chi bằng tiền của tài chính Nhà nước. Các hoạt động thu, chi
bằng tiền đó là mặt biểu hiện bên ngoài của tài chính Nhà nước, còn các quỹ tiền
tệ Nhà nước nắm giữ là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính Nhà nước.
Tuy vậy, cần nhận rõ rằng, quá trình diễn ra các hoạt động thu, chi bằng
tiền do Nhà nước tiến hành trên cơ sở các luật lệ do Nhà nước quy định đã làm
nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội.
Đó chính là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình Nhà nước tham gia
phân phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền
tệ của Nhà nước. Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài
chính Nhà nước, biểu hiện nội dung kinh tế - xã hội của tài chính Nhà nước.
Từ những phân tích trên đây có thể có khái niệm tổng quát về tài chính
Nhà nước như sau:
Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà
nước tiến hành trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước
nhằm phục vụ các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Tài chính Nhà nước
phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong
xã hội nảy sinh trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài
chính.
Quan niệm tài chính Nhà nước như trên cho phép nhìn nhận một cách đầy
đủ, toàn diện về tài chính Nhà nước, quan niệm đó vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình
3


thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính Nhà nước là các quỹ tiền tệ của
Nhà nước; vừa vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất bên trong - nội dung kinh
tế - xã hội của tài chính Nhà nước là các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình
Nhà nước phân phối nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của
Nhà nước.
Như đã phân tích ở trên, các quan hệ kinh tế cấu thành bản chất tài chính
Nhà nước nảy sinh do Nhà nước tiến hành các khoản thu, chi trên cơ sở các luật

lệ do Nhà nước quy định. Điều đó có nghĩa là, các quan hệ kinh tế đó do Nhà
nước định hướng điều chỉnh thông qua các hoạt động thu, chi của tài chính Nhà
nước. Từ đó cho thấy, bản chất của tài chính Nhà nước cũng chịu sự quy định
bởi bản chất và phạm vi chức năng của Nhà nước thích ứng với những điều kiện
kinh tế - xã hội khác nhau. Tài chính Nhà nước thực sự trở thành công cụ của
Nhà nước để phục vụ và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước sử
dụng tài chính Nhà nước thông qua các chính sách thu, chi của tài chính Nhà
nước để tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm giữ vững các quan hệ tỷ
lệ hợp lý và thực hiện các mục tiêu của kinh tế vĩ mô do Nhà nước định hướng.
2. Đặc điểm của tài chính Nhà nước
Luôn luôn gắn liền với việc thực hiện các chức năng nhiều mặt của Nhà
nước, hoạt động của tài chính Nhà nước cũng rất đa dạng, liên quan đến mọi
lĩnh vực kinh tế - xã hội và tác động đến mọi chủ thể trong xã hội. Chính nét đặc
thù đó là nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới các đặc điểm của tài chính nhà
nước. Có thể khái quát đặc điểm của tài chính Nhà nước trên các khía cạnh sau
đây:
2.1. Đặc điểm về tính chủ thể của tài chính Nhà nước
Tài chính Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước, do đó, Nhà nước là chủ thể
duy nhất quyết định việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước.
Việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách Nhà
nước, luôn luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại và phát
huy hiệu lực của bộ máy Nhà nước, cũng như thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Nhà nước đảm nhận.
Các nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội của một quốc gia trong từng thời
kỳ phát triển được quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước Quốc hội, do đó, Quốc hội cũng là chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung,
mức độ các thu, chi Ngân sách Nhà nước - quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của
4


Nhà nước - tương ứng với các nhiệm vụ đã được hoạch định nhằm đảm bảo thực
hiện có kết quả nhất các nhiệm vụ đó.

Nhận thức đầy đủ đặc điểm về tính chủ thể của tài chính Nhà nước có ý
nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền lãnh đạo tập trung thống nhất của
Nhà nước, loại trừ sự chia xẻ, phân tán quyền lực trong việc điều hành Ngân
sách Nhà nước. Nhận thức kể trên cũng cho phép xác định quan điểm định
hướng trong việc sử dụng tài chính làm công cụ điều chỉnh và xử lý các quan hệ
kinh tế - xã hội, rằng, trong hệ thống các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nảy
sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính thì lợi ích quốc gia,
lợi ích toàn thể bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích
khác.
2.2. Đặc điểm về nguồn hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước
Xét về nội dung vật chất, tài chính Nhà nước bao gồm các quỹ tiền tệ
thuộc quyền nắm giữ và sử dụng của Nhà nước (xem mục I.2). Các quỹ tiền tệ
đó là một lượng nhất định các nguồn tài chính của toàn xã hội đã được tập trung
vào tay Nhà nước, hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước, trong đó NSNN
là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước.
Việc hình thành thu nhập của tài chính Nhà nước mà đại diện tiêu biểu là
NSNN có các đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, Thu nhập của tài chính Nhà nước có thể được lấy từ nhiều
nguồn khác nhau, cả trong nước và ngoài nước; từ nhiều lĩnh vực hoạt động
khác nhau, cả sản xuất, lưu thông và phân phối, nhưng nét đặc trưng là luôn gắn
chặt với kết quả của hoạt động kinh tế trong nước và sự vận động của các phạm
trù giá trị khác như: giá cả, thu nhập, lãi suất…
Kết quả của các hoạt động kinh tế trong nước được đánh giá bằng các chỉ
tiêu chủ yếu như: mức tăng trưởng GDP, tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế... Đó
là các nhân tố khách quan quyết định mức động viên của tài chính Nhà nước.
Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng
giảm mức động viên của tài chính Nhà nước, vừa đặt ra yêu cầu sử dụng hợp lý
các công cụ thu tài chính Nhà nước để điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội cho
phù hợp với sự biến động của các phạm trù giá trị.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm trên có ý nghĩa quan trọng, rằng trong tổng thu

nhập của tài chính nhà nước phải coi nguồn thu trong nước là chủ yếu, trong đó,
chủ yếu là nguồn của cải mới được sáng tạo ra trong các ngành sản xuất. Khái
niệm sản xuất ngày nay được hiểu bao gồm không chỉ các hoạt động sản xuất, mà
5


cả các hoạt động dịch vụ. Từ đó, của cải mới được sáng tạo trong các ngành sản
xuất không chỉ do các hoạt động sản xuất vật chất, mà còn do các hoạt động dịch
vụ tạo ra. ở các quốc gia phát triển và các xã hội văn minh, các hoạt động dịch vụ
phát triển rất mạnh và nguồn của cải xã hội được tạo ra ở đây cũng có xu hướng
ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn. Đối với Việt Nam, xu hướng đó cũng là tất
yếu. Như vậy, cùng với các hoạt động sản xuất vật chất, các hoạt động dịch vụ là
nơi tạo ra nguồn tài chính chủ yếu của quốc gia, nguồn thu chủ yếu của tài chính
Nhà nước. Do đó, để tăng thu tài chính Nhà nước, con đường chủ yếu phải là tìm
cách mở rộng sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, Thu nhập của tài chính Nhà nước có thể được lấy về bằng nhiều
hình thức và phương pháp khác nhau, có bắt buộc và tự nguyện, có hoàn trả và
không hoàn trả, ngang giá và không ngang giá… nhưng, nét đặc trưng là luôn
gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế bằng hệ
thống luật lệ do Nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu.
ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đầy đủ đặc điểm này là ở chỗ, để
việc sử dụng các hình thức và phương pháp động viên của tài chính Nhà nước
hợp lý đòi hỏi phải xem xét đến tính chất, đặc điểm của các hoạt động kinh tế xã hội và yêu cầu phát huy vai trò đòn bẩy của các công cụ tài chính trong phân
phối và phân phối lại các nguồn tài chính phù hợp với tình hình, đặc điểm của
từng thời kỳ phát triển xã hội.
2.3. Đặc điểm về tính hiệu quả của chi tiêu tài chính Nhà nước
Chi tiêu tài chính Nhà nước là việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
(vốn) của Nhà nước. Các quỹ tiền tệ của Nhà nước được đề cập ở đây bao gồm
quỹ NSNN và các quỹ TCNN ngoài NSNN, không bao gồm vốn và các quỹ của
DNNN.

Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cơ sở, hiệu
quả của việc sử dụng vốn thường được đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng
như: Tổng số lợi nhuận thu được trong kỳ, số vòng quay của vốn lưu động trong
kỳ, hệ số doanh lợi (lợi nhuận/vốn, lợi nhuận/giá thành, lợi nhuận/chi phí).
Khác với hoạt động sản xuất kinh doanh ở cơ sở, tầm vi mô, việc dựa vào
các chỉ tiêu định lượng để đánh giá hiệu quả các khoản chi của tài chính Nhà
nước sẽ gặp phải khó khăn và sẽ không cho phép có cái nhìn toàn diện. Bởi vì,
chi tiêu của tài chính Nhà nước không phải là những chi tiêu gắn liền trực tiếp
với các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị cơ sở, mà là những chi tiêu
gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, tức là gắn liền với việc
6


đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội - tầm vĩ mô. Mặc
dù hiệu quả của các khoản chi tiêu của tài chính Nhà nước trên những khía cạnh
cụ thể vẫn có thể đánh giá bằng các chỉ tiêu định lượng như vay nợ, một số vấn
đề xã hội… nhưng xét về tổng thể, hiệu quả đó thường được xem xét trên tầm vĩ
mô. Điều đó có nghĩa là, hiệu quả của việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước
phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu
kinh tế -xã hội đã đặt ra mà các khoản chi của tài chính Nhà nước phải đảm
nhận.
Thông thường việc đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính Nhà nước dựa
vào hai tiêu thức cơ bản: kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Kết quả ở đây được
hiểu bao gồm: kết quả kinh tế và kết quả xã hội, kết quả trực tiếp và kết quả gián
tiếp.
Nhận thức đúng đắn đặc điểm kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc
định hướng và có biện pháp sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước tập trung vào
việc xử lý các vấn đề của kinh tế vĩ mô như: đầu tư để tác động đến việc hình
thành cơ cấu kinh tế mới; cấp phát kinh phí cho việc thực hiện mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; thực hiện chính sách dân số và

kế hoạch hoá gia đình; hỗ trợ giải quyết việc làm và xoá đói, giảm nghèo; góp
phần kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường, giá cả; đảm bảo kinh phí cho việc
thực hiện mục tiêu xoá bỏ các tệ nạn xã hội và đảm bảo trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ môi trường thiên nhiên… với yêu cầu là chi phí bỏ ra là thấp nhất mà kết
quả đem lại là cao nhất.
2.4. Đặc điểm về phạm vi hoạt động của tài chính Nhà nước
Gắn liền với bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc thực hiện các chức năng
của Nhà nước và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế,
phạm vi ảnh hưởng của tài chính Nhà nước rất rộng rãi, TCNN có thể tác động
tới các hoạt động khac nhau nhất của mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Thông qua quá trình phân phối các nguồn tài chính, tài chính Nhà nước có
khả năng động viên, tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia vào tay Nhà
nước từ mọi lĩnh vực hoạt động, từ mọi chủ thể kinh tế xã hội; đồng thời, bằng
việc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước, tài chính Nhà nước có khả năng tác
động tới mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, đạt tới những mục tiêu đã định.
Nhận thức đầy đủ đặc điểm kể trên có ý nghĩa quan trọng trong việc sử
dụng tài chính Nhà nước, thông qua thuế và chi tài chính Nhà nước, để góp phần
giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội được đặt ra trong từng thời kỳ khác nhau
7


của sự phát triển xã hội. Cần thiết phải nhấn mạnh rằng, trong các vấn đề kinh tế
- xã hội được đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết, các vấn đề về xã hội và môi
trường là những vấn đề mà khu vực tư nhân và hộ gia đình không có khả năng
hoặc chỉ có thể góp được một phần rất nhỏ thì việc sử dụng tài chính Nhà nước,
đặc biệt là chi tài chính Nhà nước để khắc phục những mặt còn hạn chế, tiêu cực
và đạt tới những mặt tiến bộ, tích cực là có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp
phần quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu và yêu cầu cần đạt được của
sự phát triển xã hội.
II. Chức năng của tài chính Nhà nước

Như đã biết, phạm trù tài chính vốn có hai chức năng là phân phối và
giám đốc. Là một bộ phận của tài chính nói chung, tài chính Nhà nước cũng có
những chức năng khách quan như vậy. Tuy nhiên, do tính đặc thù của nó là luôn
gắn liền với Nhà nước và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền
kinh tế, tài chính Nhà nước lại biểu lộ khả năng khách quan phát huy tác dụng
xã hội của nó trên các khía cạnh cụ thể phù hợp với tính đặc thù đó. Đó là ba
chức năng: phân bổ nguồn lực, tái phân phối thu nhập, điều chỉnh và kiểm soát.
1. Chức năng phân bổ nguồn lực
Chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước là khả năng khách
quan của TCNN mà nhờ vào đó các nguồn tài lực thuộc quyền chi phối của Nhà
nước được tổ chức, sắp xếp, phân phối một cách có tính toán, cân nhắc theo
những tỷ lệ hợp lý nhằm nâng cao tính hiệu quả kinh tế - xã hội của việc sử
dụng các nguồn tài lực đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc và ổn
định theo các tỷ lệ cân đối đã định của chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội.
Đương nhiên, ngày nay trong một nền kinh tế đang chuyển đổi như ở
nước ta, việc phân bổ nguồn lực không chỉ duy nhất do tài chính Nhà nước thực
hiện mà còn có sự tham gia của các khâu tài chính khác. Xu hướng chung là
chức năng này đối với tài chính Nhà nước đang có chiều hướng giảm dần.
ở nước ta, trong những năm trước thời kỳ đôỉ mới, nền kinh tế vận hành
theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp nguồn
tài chính từ Ngân sách cho phần lớn các hoạt động kinh tế xã hội. Trong điều
kiện đó, có người đã lầm tưởng mà ngộ nhận rằng, Ngân sách Nhà nước ta là
Ngân sách của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thực ra, khi đó Ngân sách Nhà
nước chỉ giữ vai trò như một cái túi đựng số thu của Nhà nước về để rồi chia
nhỏ nó cho các hoạt động mà không biết đến tính hiệu quả của nó. Cũng chính
8


trong điều kiện đó, chức năng phân bổ của tài chính Nhà nước, tưởng như một

chức năng rất quan trọng, bao trùm của tài chính Nhà nước, nhưng lại không
phải là một khả năng để phát huy vai trò thực sự quan trọng của tài chính Nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội dưới sự điều khiển của Nhà nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, với việc Nhà nước từ bỏ dần những
sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế - xã hội, để chủ yếu thực hiện
chức năng quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, việc bao cấp nguồn tài chính
từ Ngân sách Nhà nước cho các hoạt động kinh tế xã hội cũng giảm dần. Trong
điều kiện mới đó, chức năng phân bổ của tài chính Nhà nước cho các hoạt động
kinh tế xã hội cũng được sử dụng theo cách khác hơn. Các nguồn lực tài chính
từ Ngân sách được phân bổ có sự lựa chọn, cân nhắc, tính toán hơn, có trọng
tâm, trọng điểm hơn. Điều đó thể hiện xu hướng mới trong việc sử dụng chức
năng này của tài chính Nhà nước .
Vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước vào đời
sống thực tiễn, con người tổ chức quá trình động viên các nguồn lực tài chính
thuộc quyền chi phối của Nhà nước để tạo lập các quỹ tiền tệ của Nhà nước và
tổ chức quá trình phân phối, sử dụng các quỹ tiền tệ đó cho các mục đích đã
định.
Trong các quá trình kể trên, Nhà nước là chủ thể phân bổ với tư cách là
người có quyền lực chính trị, hoặc là người có quyền sở hữu, hoặc là nguời có
quyền sử dụng các nguồn tài chính và các nguồn lực tài chính thuộc quyền chi
phối của Nhà nước chính là đối tượng phân bổ.
Kết quả trực tiếp của việc vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực qua tài
chính Nhà nước là các quỹ tiền tệ của Nhà nước được tạo lập, được phân phối và
được sử dụng. Đến lượt nó, việc tạo lập, phân phối và sử dụng một cách đúng
đắn, hợp lý các quỹ tiền tệ đó, tức là sự phân bổ một cách tối ưu các nguồn lực
tài chính thuộc quyền chi phối của Nhà nước lại có tác động mạnh mẽ tới việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính; thúc đẩy hoàn thiện cơ cấu sản
xuất, cơ cấu kinh tế - xã hội bằng việc tính toán, sắp xếp các tỷ lệ cân đối quan
trọng trong phân bổ các nguồn tài chính. Một sự phân bổ như thế sẽ là nhân tố
có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển vững chắc và ổn định của nền kinh tế.

Những kết quả cần phải đạt được đó của sự phân bổ có thể coi là những
tiêu chuẩn để đánh giá mức độ đúng đắn, hợp lý của việc sử dụng công cụ tài
chính Nhà nước trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính. Bên cạnh các tiêu
chuẩn đó, đòi hỏi sự phân bổ phải được tính toán trên cơ sở thực lực nguồn tài
chính của toàn xã hội và của Nhà nước, có cân nhắc cho phù hợp với đặc điểm,
9


tình hình của đất nước trong từng thời kỳ và theo sát các kế hoạch, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước cũng là một tiêu chuẩn không kém phần
quan trọng.
Chức năng phân bổ nguồn lực của tài chính Nhà nước là chức năng được
đề cập với sự quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh kinh tế của sự phân phối. Phân
bổ nguồn lực tài chính qua tài chính Nhà nước mà Nhà nước là chủ thể phải
nhằm đạt tới các mục tiêu của kinh tế vĩ mô là hiệu quả, ổn định và phát triển.
Nhằm đạt những mục tiêu kể trên, phân bổ nguồn lực tài chính của tài
chính Nhà nước phải chú ý xử lý mối quan hệ giữa khu vực Nhà nước và khu
vực tư nhân. Những tỷ lệ hợp lý trong phân bổ nguồn lực tài chính sẽ đảm bảo
nâng cao tính hiệu quả trên cả hai khía cạnh thuế khoá và chi tiêu của Nhà nước,
từ đó, có tác dụng vừa thúc đẩy tập trung vốn vào tay Nhà nước, vừa thúc đẩy
tích tụ vốn ở các đơn vị cơ sở; vừa thúc đẩy tăng tiết kiệm trong khu vực Nhà
nước, vừa thúc đẩy tăng tiết kiệm và tăng đầu tư trong khu vực tư nhân. Những
điều đó sẽ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển và ổn định kinh tế.
2. Chức năng tái phân phối thu nhập
Chức năng phân phối và tái phân phối thu nhập của tài chính Nhà nước
là khả năng khách quan của TCNN mà nhờ vào đó tài chính Nhà nước được sử
dụng vào việc phân phối và phân phối lại các nguồn tài chính trong xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong phân phối và hưởng thụ kết
quả của sản xuất xã hội.
Trong chức năng này, chủ thể phân phối là Nhà nước chủ yếu trên tư cách

là người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối là các nguồn tài chính
đã thuộc sở hữu nhà nước hoặc đang là thu nhập của các pháp nhân và thể nhân
trong xã hội mà Nhà nước tham gia điều tiết.
Công bằng trong phân phối biểu hiện trên 2 khía cạnh là công bằng về
mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội. Như đã biết, công bằng về kinh tế là
yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường. Do giá cả thị trường quyết định mà
việc đưa các yếu tố vào (chi tiêu) và việc thu nhận các yếu tố (thu nhập) là tương
xứng với nhau, nó được thực hiện theo sự trao đổi ngang giá trong môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Chẳng hạn, việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cá nhân
được thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo lao động, trong đó, cá nhân bằng
việc bỏ ra lao động mà có được thu nhập, nhưng thu nhập mà họ nhận được (thù
lao cho lao động) là tương xứng với số lượng và chất lượng lao động mà họ bỏ
ra. Đó là sự công bằng về kinh tế.
10


Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do những yếu tố sản
xuất của các chủ thể kinh tế hoặc các cá nhân không giống nhau, do sự không
giống nhau về sức khoẻ, độ thông minh bẩm sinh, hoàn cảnh gia đình… mà thu
nhập của các chủ thể kinh tế hoặc của các cá nhân có sự chênh lệch. Sự chênh
lệch thu nhập này vượt quá giới hạn nào đó sẽ dẫn đến vấn đề không công bằng
xã hội. Như vậy, công bằng xã hội là yêu cầu của xã hội trong việc duy trì sự
chênh lệch về thu nhập trong mức độ và phạm vi hợp lý thích ứng với từng giai
đoạn mà xã hội có thể chấp nhận được.
Trong lĩnh vực này, tài chính Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách Nhà nước,
được sử dụng làm công cụ để điều chỉnh lại thu nhập mà các chủ thể trong xã hội
đang nắm giữ. Sự điều chỉnh này được thực hiện theo hai hướng là điều tiết bớt
các thu nhập cao và hỗ trợ các thu nhập thấp. Đối với những thu nhập do thị
trường hình thành như tiền lương của người lao động, lợi nhuận doanh nghiệp,
thu nhập về cho thuê, thu nhập về tài sản, thu nhập về lợi tức cổ phần… thì chức

năng của tài chính Nhà nước là thông qua việc phân phối lại để điều tiết. Những
nhu cầu như y tế, bảo vệ sức khoẻ, phúc lợi xã hội, bảo đảm xã hội… thì tài chính
Nhà nước thực hiện sự phân phối tập trung, hỗ trợ thu nhập từ nguồn tài chính đã
được tập trung trong tay Nhà nước (cùng với việc thực hiện xã hội hoá và đa dạng
hoá các nguồn tài chính cho các hoạt động này).
Trong việc điều tiết thu nhập, thu thuế là biện pháp chủ yếu. Thông qua
các thứ thuế gián thu để điều tiết tương đối giá cả của các loại hàng hoá, từ đó
điều tiết sự phân phối các yếu tố sản xuất của các chủ thể kinh tế. Thông qua
thuế thu nhập doanh nghiệp để điều tiết lợi nhuận của doanh nghiệp. Thông qua
thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập lao động và thu nhập phi lao động
của cá nhân (thu nhập về tài sản, tiền cho thuê, lợi tức…). Thông qua công cụ
thuế, các thu nhập cao được điều tiết bớt một phần và được tập trung vào Ngân
sách Nhà nước.
Trong việc hỗ trợ thu nhập, chi tài chính Nhà nước là biện pháp chủ yếu.
Ngân sách Nhà nước sử dụng các nguồn tài chính đã tập trung được, trong đó có
một phần là nguồn tài chính điều tiết từ các thu nhập cao, để chi cho các biện
pháp văn hoá xã hội kể trên nhằm hỗ trợ thu nhập cho những người có thu nhập
thấp. Như vậy, với tư cách là chủ thể của chức năng phân phối thu nhập, Nhà
nước đóng vai trò như người trung gian trong việc điều hoà thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư, hạ thấp bớt các thu nhập cao và nâng cao thêm các thu nhập
thấp nhằm rút ngắn độ chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân.
11


Những phân tích kể trên cho thấy tái phân phối thu nhập trở thành một đòi
hỏi khách quan của xã hội. Kết quả của việc thực hiện chức năng này của tài
chính Nhà nước chính là nhờ vào nó có thể điều chỉnh để có được một khoảng
cách hợp lý về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư nhằm hướng tới mục tiêu công
bằng xã hội cho mọi thành viên xã hội.
Khác với chức năng phân bổ nguồn lực, chức năng tái phân phối thu nhập

của tài chính Nhà nước được đề cập với sự quan tâm nhiều hơn tới khía cạnh xã
hội của sự phân phối.
Tuy nhiên, vấn đề được đăt ra ở đây là cần nhận thức và xử lý hợp lý mối
quan hệ giữa mục tiêu công bằng và mục tiêu hiệu quả của kinh tế vĩ mô. Trong
nhiều trường hợp, để đạt tới mục tiêu công bằng, sự phân phối lại làm tổn hại tới
mục tiêu hiệu quả. Chẳng hạn: một sự đánh thuế quá cao vào thu nhập sẽ hạn
chế tác dụng thúc đẩy tăng tiết kiệm và tăng đầu tư của tư nhân, đồng thời, có
thể dẫn đến hiện tượng tìm cách trốn thuế tức là làm giảm tính hiệu quả của việc
thu thuế do tình trạng quá tải của thuế mang lại. Một ví dụ khác: Một sự trợ cấp
xã hội tràn lan, thiếu tính toán cân nhắc dễ dẫn đến tâm lý chờ được cứu tế, giảm
tính tích cực lao động, đồng thời làm giảm tác dụng tăng tiết kiệm của khu vực
Nhà nước…
Do đó, một sự tính toán cân nhắc trong chính sách phân phối và tái phân
phối thu nhập để có thể đạt tới mục tiêu công bằng trên cơ sở đảm bảo tính hiệu
quả kinh tế của sự phân phối và ít ảnh hưởng nhất tới mục tiêu hiệu quả là điều
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm sử dụng tài chính Nhà nước làm công cụ
thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
3. Chức năng điều chỉnh và kiểm soát
Để quản lý một cách hữu hiệu các hoạt động kinh tế - xã hội, việc tiến
hành điều chỉnh và kiểm soát thường xuyên là sự cần thiết khách quan. Với tư
cách là một công cụ quản lý trong tay Nhà nước, tài chính Nhà nước thực hiện
chức năng điều chỉnh và kiểm soát như một sứ mệnh xã hội tất yếu.
Chức năng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước là khả năng
khách quan của tài chính Nhà nước để có thể thực hiện việc điều chỉnh lại quá
trình phân phối các nguồn lực tài chính và xem xét lại tính đúng đắn, tính hợp
lý của các quá trình phân phối đó trong mọi lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế
quốc dân.
Đối tượng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước trước hết là
quá trình phân bổ các nguồn lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước. Nói khác
12



đi, đó là quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ mà Nhà nước nắm giữ. Tuy
nhiên cần nhận rõ rằng, việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của
Nhà nước lại luôn có mối liên hệ hữu cơ với việc tạo lập, phân phối và sử dụng
các quỹ tiền tệ của mọi chủ thể kinh tế - xã hội khác và được tiến hành trên cơ
sở các chính sách, chế độ do Nhà nước quy định. Do đó, đối tượng điều chỉnh và
kiểm soát của tài chính Nhà nước không chỉ là bản thân quá trình phân phối của
tài chính Nhà nước mà còn là các quá trình phân phối các nguồn tài chính ở mọi
chủ thể kinh tế xã hội theo các yêu cầu đặt ra của các chính sách thu, chi tài
chính.
Với đối tượng điều chỉnh và kiểm soát như vậy, có thể nhận thấy rằng,
phạm vi điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước là rất rộng rãi, nó bao
trùm mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội trong suốt quá trình diễn ra các hoạt động
phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Điều chỉnh và kiểm soát có cùng đối tượng quản lý và tác động, đó là quá
trình phân bổ các nguồn lực tài chính, quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền
tệ, nhưng giữa chúng vẫn có những sự khác nhau về nội dung và cách thức quản
lý và tác động.
Nội dung của kiểm soát - kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài
chính là: kiểm tra việc khai thác, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính;
Kiểm tra tính cân đối, tính hợp lý của việc phân bổ và kiểm tra tính tiết kiệm,
tính hiệu quả của việc sử dụng chúng. Còn nội dung của điều chỉnh quá trình
vận động của các nguồn tài chính là: điều chỉnh về mặt tổng lượng của nguồn tài
chính nhằm đạt tới cân đối về mặt tổng lượng cung cấp vốn và tổng lượng nhu
cầu vốn; điều tiết cơ cấu và mối quan hệ tỷ lệ giữa các mặt trong phân bổ các
nguồn tài chính như: quan hệ tỷ lệ giữa tích luỹ với tiêu dùng, giữa tiêu dùng xã
hội với tiêu dùng cá nhân, giữa trung ương với địa phương, giữa các ngành…
Kiểm soát quá trình vận động của các nguồn tài chính được thực hiện
thông qua đồng tiền và dựa vào kế hoạch, nó được tiến hành trong suốt quá trình

kế hoạch hoá tài chính từ khi xây dựng, xét duyệt, quyết định, thực hiện kế
hoạch và cả sau khi kế hoạch được thực hiện xong. Thông qua hoạt động của
con người việc kiểm tra - kiểm soát được thực hiện ở trạng thái tĩnh, trong phạm
vi nhất định và thường mang tính chất độc quyền. Còn điều chỉnh quá trình vận
động của các nguồn tài chính có thể được thực hiện thông qua nhiều công cụ
như kế hoạch, pháp luật, hành chính, các đòn bẩy kinh tế, trong đó quan trọng và
chủ yếu nhất là các đòn bẩy tài chính và tín dụng. Điều chỉnh được thực hiện
13


trong trạng thái động - trạng thái biến đổi và có phạm vi rộng lớn, mang tính
khách quan nhiều hơn.
Mặc dù có những nét khác nhau như vậy, nhưng giữa điều chỉnh và kiểm
soát lại gắn bó mật thiết với nhau, đều nhằm mục đích cuối cùng là thực hiện tốt
các mục tiêu chiến lược đã đặt ra, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển
một cách cân đối, ổn định và vững chắc. Mối quan hệ giữa điều chỉnh và kiểm
soát được thể hiện trên hai mặt: 1. Trên cơ sở kết quả của kiểm tra phát hiện
những mất cân đối, bất hợp lý trong quá trình phân bổ các nguồn tài chính mà
tiến hành những điều chỉnh cần thiết để đảm bảo cho quá trình đó được hợp lý,
đúng đắn hơn. Như vậy, kiểm tra là chỗ dựa và quỹ đạo của điều chỉnh; 2.
Ngược lại, kiểm tra có thực hiện được hay không và vận dụng có kết quả hay
không lại phụ thuộc vào sự hợp lý, đúng đắn của điều chỉnh. Bởi vì, các quan hệ
tỷ lệ trong phân bổ các nguồn lực tài chính do điều chỉnh tiến hành chính là cơ
sở để kiểm tra xem xét tính đúng đắn, hợp lý của nó. Vì những quan hệ nội tại
khăng khít đó, điều chỉnh và kiểm soát gắn bó với nhau cấu thành nội dung chức
năng điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước.
Kết quả của điều chỉnh và kiểm soát của tài chính Nhà nước được thể hiện
trên các khía cạnh:
Thứ nhất, đảm bảo cho việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ
của Nhà nước được đúng đắn, hợp lý, đạt kết quả tối đa nhất theo các mục tiêu,

yêu cầu đã định. Việc bảo đảm đó được thực hiện, trước hết, nhờ tính tự động
của điều chỉnh đối với các quá trình phân bổ trên cơ sở các điều kiện thực tế và
đòi hỏi khách quan của sự phát triển; sau nữa được thực hiện nhờ qua kiểm tra
mà phát hiện ra những bất hợp lý của quá trình phân bổ để có thể hiệu chỉnh lại
quá trình đó theo các mục tiêu và yêu cầu đã định.
Thứ hai, góp phần điều chỉnh quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế - xã hội khác, đảm
bảo cho các hoạt động thu, chi bằng tiền ở đó được thực hiện theo đúng các quy
định của chính sách, chế độ Nhà nước.
Các chức năng của tài chính Nhà nước là sự thể hiện bản chất của tài
chính Nhà nước. Vận dụng các chức năng này vào hoạt động thực tiễn, tài chính
Nhà nước sẽ phát huy những vai trò to lớn của nó.
III. Hệ thống tài chính Nhà nước
Chủ thể của các quan hệ tài chính Nhà nước là các cấp chính quyền Nhà
nước, các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước, gọi chung là
14


Nhà nước. Gắn với chủ thể là Nhà nước, các quỹ tiền tệ thuộc tài chính nhà
nước có tính đặc thù là việc tạo lập và sử dụng chúng luôn gắn liền với quyền
lực chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, còn
các chức năng của Nhà nước lại được thực hiện thông qua các bộ phận cấu thành
của bộ máy Nhà nước theo một cơ cấu tổ chức thích hợp với từng thời kỳ lịch sử
của sự phát triển xã hội. Từ đó có thể cho rằng, xét về mặt cơ cấu, tài chính nhà
nước được xem là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Từ những
phân tích kể trên có thể có khái niệm về hệ thống tài chính nhà nước như sau:
Hệ thống Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động tài chính gắn liền với
việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước và cơ cấu tổ chức của
bộ máy Nhà nước nhằm phục vụ và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về kinh
tế - xã hội mà Nhà nước đảm nhận.

Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau dựa trên các tiêu thức khác nhau có
thể có các cách phân loại khác nhau về hệ thống tài chính Nhà nước.
1. Theo chủ thể quản lý trực tiếp có thể chia tài chính Nhà nước
thành các bộ phận:
- Tài chính chung của Nhà nước.
- Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước.
- Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước.
- Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước.
1.1. Tài chính chung của Nhà nước
Tài chính chung của Nhà nước tồn tại và hoạt động gắn liền với việc tạo
lập và sử dụng các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước nhằm phục vụ cho hoạt động
của bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước.
Theo tính chất của các quỹ tiền tệ, tài chính chung của Nhà nước bao gồm các
bộ phận: Ngân sách Nhà nước và các quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách
Nhà nước
Chủ thể trực tiếp quản lý Ngân sách Nhà nước là Nhà nước (Chính phủ
TWvà chính quyền địa phương các cấp) thông qua các cơ quan chức năng của
Nhà nước (cơ quan tài chính, Kho bạc nhà nước...).
Chủ thể trực tiếp quản lý các quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách
Nhà nước là các cơ quan Nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức và
quản lý các quỹ.
1.2. Tài chính của các cơ quan hành chính Nhà nước
15


ở nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức bao gồm 3 hệ thống: Các cơ
quan lập pháp, các cơ quan hành pháp và các cơ quan tư pháp từ trung ương đến
địa phương. Các cơ quan hành chính thuộc bộ phận thứ 2 trong hệ thống kể trên.
Tuy nhiên, do hoạt động của các cơ quan lập pháp và các cơ quan tư pháp
cũng mang tính chất “hành chính” như các cơ quan hành chính, đồng thời chúng

cũng có những đặc điểm tương đồng về nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động
và yêu cầu sử dụng kinh phí, do đó, trong lĩnh vực quản lý tài chính, 3 loại cơ
quan kể trên được xếp vào cùng một dạng là các cơ quan hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công
cộng cho xã hội. Các cơ quan này được phép thu một số khoản thu về phí và lệ
phí nhưng số thu đó là không đáng kể. Do đó, nguồn tài chính đảm bảo cho các
cơ quan hành chính hoạt động gần như do Ngân sách Nhà nước cấp toàn bộ.
Nguồn tài chính ở đây được sử dụng để duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước
và thực hiện các nghiệp vụ hành chính, cung cấp các dịch vụ công cộng thuộc
chức năng của cơ quan.
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính các cơ quan hành chính Nhà nước là
các cơ quan hành chính Nhà nước.
1.3. Tài chính của các đơn vị sự nghiệp Nhà nước
Các đơn vị sự nghiệp Nhà nước là các đơn vị thực hiện cung cấp các dịch
vụ xã hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của
các ngành kinh tế quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục tiêu
lơi nhuận mà chủ yếu mang tính chất phục vụ. Các đơn vị này chủ yếu hoạt
động trong lĩnh vực văn hoá - xã hội. Hoạt động trong lĩnh vực kinh tế có các
đơn vị sự nghiệp của các ngành như: sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, giao
thông, thuỷ lợi...
Do hoạt động mang tính chất phục vụ là chủ yếu, ở các đơn vị sự nghiệp
số thu thường không lớn và không ổn định hoặc không có thu. Do đó, thu nhập
của các đơn vị này chủ yếu do Ngân sách Nhà nước cấp toàn bộ hoặc một phần.
Cá biệt, có một số đơn vị sự nghiệp có số thu khá lớn, Nhà nước có thể cho các
đơn vị này áp dụng chế độ tài chính riêng. * Với các dịch vụ kể trên, chi tiêu của
các đơn vị này chính là nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp Nhà nước là các
đơn vị sự nghiệp Nhà nước.
1.4. Tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước
Xem Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho các

đơn vị sự nghiệp có thu.
*

16


DNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có
cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.*
Các doanh nghiệp Nhà nước theo quan niệm sở hữu kể trên có thể hoạt
động trên hai lĩnh vực:
- Lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phi tài chính, thường
gọi là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ tài chính như các Ngân hàng thương
mại, Công ty tài chính, Công ty Bảo hiểm… thường gọi là các tổ chức tài chính
trung gian hay doanh nghiệp tài chính.
Các doanh nghiệp Nhà nước kể trên là các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Do đó, phương thức quản lý các doanh
nghiệp này cũng tương tự như phương thức quản lý đối với mọi doanh nghiệp
khác.
Chủ thể trực tiếp quản lý tài chính các DNNN là các DNNN
Trong 4 bộ phận cấu thành của Tài chính Nhà nước kể trên, 3 bộ phận
đầu là những bộ phận hợp thành Tài chính công, tài chính DNNN được xếp vào
tài chính tư.
So với tài chính tư, tài chính công có những đặc trưng cơ bản là:
Một là, Về hình thức sở hữu: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong tài
chính công thuộc sở hữu công cộng mà Nhà nước là người đại diện, thường gọi
là sở hữu Nhà nước.
Hai là, Về mục đích hoạt động: Các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ trong
tài chính công được sử dụng vì lợi ích chung của toàn xã hội, của toàn quốc, của

cả cộng đồng, không vì mục tiêu lợi nhuận.
Ba là, Về chủ thể quyết định: Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ
trong tài chính công do các chủ thể công quyết định. Các chủ thể công ở đây là
Nhà nước hoặc các cơ quan, tổ chức của Nhà nước được Nhà nước giao nhiệm
vụ thực hiện các thu, chi bằng tiền trong khi tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Bốn là, Về pháp luật điều chỉnh: Các quan hệ tài chính công chịu sự điều
chỉnh bởi các “luật công”, dựa trên các quy phạm pháp luật mệnh lệnh - quyền
uy. Khác với tài chính công, các quan hệ tài chính tư được điều chỉnh bằng các
“luật tư”, dựa trên các quy phạm pháp luật hướng dẫn, thoả thuận. Các quan hệ
Luật của Quốc hội nước CHXHCN ViệtNam số 14/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về doanh nghiệp nhà
nước, Điều 1.
*

17


tài chính công là các quan hệ kinh tế nảy sinh gắn liền với việc tạo lập và sử
dụng các quỹ công mà một bên của quan hệ là các chủ thể công.
Từ các nội dung và đặc điểm kể trên của tài chính công có thể nhận thấy:
chính sách tài chính công là phương thức mà Nhà nước sử dụng để tác động tới
các hoạt động kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô, trong đó chính sách Ngân sách là bộ
phận hạt nhân giữ vai trò quyết định.
2. Theo nội dung quản lý có thể chia tài chính Nhà nước thành các bộ
phận
- Ngân sách Nhà nước.
- Tín dụng Nhà nước.
- Các quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách Nhà nước.
2.1. Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là mắt khâu quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo
trong tài chính Nhà nước. Thu của Ngân sách Nhà nước được lấy từ mọi lĩnh

vực kinh tế - xã hội khác nhau, trong đó thuế là hình thức thu phổ biến dựa trên
tính cưỡng chế là chủ yếu. Chi tiêu của Ngân sách Nhà nước nhằm duy trì sự tồn
tại hoạt động của bộ máy nhà nước và phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà
nước. Ngân sách Nhà nước là một hệ thống bao gồm các cấp Ngân sách phù hợp
với hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp.* Tương ứng với các cấp Ngân sách
của hệ thống NSNN, quỹ NSNN được chia thành: quỹ Ngân sách của Chính phủ
Trung ương, quỹ Ngân sách của chính quyền cấp tỉnh và tương đương, quỹ
Ngân sách của chính quyền cấp huyện và tương đương, quỹ Ngân sách của
chính quyền cấp xã và tương đương. Phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của chính quyền Nhà nước các cấp, quỹ Ngân sách lại được chia thành nhiều
phần nhỏ để sử dụng cho các lĩnh vực khác nhau, như: phần dùng cho phát triển
kinh tế; phần dùng cho phát triển văn hoá, giáo dục, y tế; phần dùng cho các
biện pháp xã hội, an ninh, quốc phòng...
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng Ngân sách
Nhà nước là mang tính pháp lý cao gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà
nước và không mang tính hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
2.2. Tín dụng Nhà nước
Tín dụng nhà nước bao gồm cả hoạt động đi vay và hoạt động cho vay
của Nhà nước.
*

Xem Luật Ngân sách Nhà nước 2002.

18


Tín dụng Nhà nước thường được sử dụng để hỗ trợ Ngân sách Nhà nước
trong các trường hợp cần thiết. Thông qua hình thức Tín dụng Nhà nước, nhà
nước động viên các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi của các pháp nhân và thể
nhân trong xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu tạm thời của các cấp chính quyền Nhà

nước trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chủ yếu là
thông qua việc cấp vốn thực hiện các chương trình cho vay dài hạn. Việc thu hút
các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi qua con đường tín dụng Nhà nước được
thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ như: Tín phiếu Kho bạc Nhà
nước, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu công trình (ở Việt Nam hiện có
hình thức trái phiếu đô thị), công trái quốc gia (ở Việt Nam là công trái xây
dựng Tổ quốc) trên thị trường tài chính.
Đặc trưng cơ bản của các quan hệ trong tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ qua
hình thức tín dụng Nhà nước là mang tính tự nguyện và có hoàn trả.
2.3. Các quỹ tài chính nhà nước ngoài Ngân sách Nhà nước (gọi tắt là các
quỹ ngoài Ngân sách)
Các quỹ TCNN ngoài NSNN là các quỹ tiền tệ tập trung do Nhà nước
thành lập, quản lý và sử dụng nhằm cung cấp nguồn lực tài chính cho việc xử lý
những biến động bất thường trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và để hỗ
trợ thêm cho NSNN trong trường hợp khó khăn về nguồn lực tài chính.
Sự hình thành và phát triển các quỹ TCNN ngoài NSNN là một sự cần
thiết khách quan bắt nguồn từ chính yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô
nền kinh tế - xã hội. Đó là:
Thứ nhất, Để huy động thêm các nguồn lực tài chính hỗ trợ NSNN thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù NSNN là một quỹ TCNN
lớn nhất, có phạm vi ảnh hưởng lớn nhất đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội,
song do quy mô thu, chi NSNN luôn có giới hạn trong khi nhu cầu của nền kinh
tế - xã hội lại rất lớn nên trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể, để thực
hiện có hiệu quả các chức năng của mình nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước cần phải huy động thêm các nguồn lực
tài chính trong xã hội. Điều đó được thực hiện bằng cách thành lập các quỹ
TCNN ngoài NSNN thích ứng.
Thứ hai, Để tạo thêm công cụ phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân
(TSPQD) nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội trong phát triển. Mặc dù NSNN là
công cụ quan trọng nhất trong phân phối lại TSPQD, nhưng trong những thời kỳ

lịch sử nhất định, trong những hoàn cảnh cụ thể nhất định, chỉ bản thân công cụ
19


NSNN không thể xử lý vấn đề một cách có hiệu quả cao nhất, đặc biệt là vấn đề
công bằng trong phát triển. Trong những trường hợp đó, sự ra đời của các quỹ
TCNN ngoài NSNN sẽ cùng với NSNN tạo thành một bộ công cụ thực hiện có
hiệu quả hơn chức năng phân phối lại TSPQD, thực hiện tốt hơn yêu cầu công
bằng trong phát triển.
Thứ ba, Trợ giúp Nhà nước trong việc khắc phục những khiếm khuyết của
kinh tế thị trường và chuyển dần nền kinh tế - xã hội sang hoạt động theo cơ chế thị
trường. Các quỹ TCNN ngoài NSNN, một mặt, giúp xử lý các tình huống bất
thường nảy sinh do biến động của nền kinh tế, trong đó có những biến động do
nguyên nhân của cơ chế thị trường, mặt khác cơ chế hoạt động của các quỹ này lại
có tính đan xen giữa cơ chế quản lý Nhà nước thuần tuý và cơ chế quản lý thị
trường do đó là sự bổ sung quan trọng cho các cơ chế, chính sách khác trong quá
trình chuyển đổi kinh tế.
So với quỹ NSNN và các quỹ tiền tệ khác, các quỹ TCNN ngoài NSNN có
các đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, Về chủ thể: Chủ thể của các quỹ TCNN ngoài NSNN là Nhà nước.
Nhà nước là chủ thể quyết định việc thành lập quỹ, huy động nguồn tài chính, sử
dụng quỹ và tổ chức bộ máy quản lý quỹ. Nhà nước ở đây được hiểu là các cơ quan
công quyền thuộc khu vực hành pháp được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức và
quản lý quỹ.
Hai là, Về nguồn tài chính: Nguồn tài chính hình thành các quỹ TCNN
ngoài NSNN bao gồm:
- Một phần trích từ NSNN theo quy định của Luật NSNN. Nguồn tài chính
này đóng vai trò như vốn “mồi” cho quỹ hoạt động. Tỷ trọng của nguồn tài chính
này lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào chức năng hoạt động của từng loại quỹ.
- Một phần huy động từ các nguồn tài chính, trong đó có nguồn tài chính tạm

thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế - xã hội và các tầng lớp dân cư.
Với loại quỹ TCNN ngoài NSNN đảm nhận chức năng dự trữ, dự phòng cho
những rủi ro bất thường ảnh hưởng đến toàn cục thì nguồn tài chính trích từ NSNN
thường có tỷ trọng lớn, như: Quỹ dự trự quốc gia, Quỹ dự trữ tài chính, Quỹ dự trữ
ngoại hối… Với loại quỹ TCNN ngoài NSNN đảm nhận chức năng hỗ trợ cho quá
trình tăng trưởng kinh tế, có khả năng thu hồi vốn thì tỷ trọng nguồn tài chính từ
NSNN nhỏ, phần chủ yếu là huy động từ các nguồn tài chính, trong đó có nguồn tài
chính tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư, như: Quỹ hỗ
20


trợ phát triển, Quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số tỉnh, thành phố trực
thuộc TW, quỹ BHXH…
Ba là, Về mục tiêu sử dụng: Các quỹ TCNN ngoài NSNN được sử dụng
nhằm giải quyết những biến động bất thường không dự báo trước trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, không có trong dự toán NSNN nhưng Nhà nước phải có
trách nhiệm xử lý.
Bốn là, Về cơ chế hoạt động: So với NSNN, cơ chế huy động và sử dụng
vốn của các quỹ TCNN ngoài NSNN tương đối linh hoạt hơn. Phần lớn việc huy
động và sử dụng vốn của các quỹ TCNN ngoài NSNN được điều chỉnh bởi các văn
bản dưới luật do các cơ quan hành pháp quyết định mà không cần có sự tham gia
của các cơ quan quyền lực. Tính chất linh hoạt đó bắt nguồn từ mục tiêu sử dụng
của các quỹ TCNN ngoài NSNN. Đặc trưng này tạo ra hành lang rộng trong việc
sử dụng nguồn lực tài chính để xử lý tình huống. Việc sử dụng các quỹ TCNN
ngoài NSNN thường có mục tiêu, địa chỉ cụ thể, theo sự điều khiển của Nhà nước
đối với từng loại quỹ, đồng thời được thực hiện theo cơ chế tín dụng nhưng với lãi
suất ưu đãi.
Năm là, Về điều kiện hình thành và tồn tại: Sự ra đời và tồn tại của từng loại
quỹ TCNN ngoài NSNN tuỳ thuộc vào sự tồn tại các tình huống, các sự kiện kinh
tế - xã hội. Khi các tình huống, sự kiện đó được giải quyết dứt điểm, trở lại trạng

thái bình thường thì cũng là lúc từng loại quỹ TCNN ngoài NSNN để giải quyết
các tình huống, sự kiện đó cũng sẽ không có lý do tồn tại.
Hiện nay ở Việt nam hệ thống các quỹ TCNN ngoài NSNN đang được sắp
xếp lại và bao gồm các quỹ chủ yếu sau:
- Quỹ Dự trữ quốc gia (dưới hình thức hiện vật)
- Quỹ Dự trữ tài chính
- Quỹ Dự trữ ngoại hối (do NHNN quản lý)
- Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài
- Quỹ quốc gia giải quyết việc làm và Quỹ tín dụng đào tạo. Hiện nay 2 quỹ
này đã được sáp nhập vào Ngân hàng chính sách xã hội. Ngân hàng chính sách xã
hội là cơ quan quản lý nguồn tài chính sử dụng cho các mục tiêu kể trên.
- Quỹ Phòng chống ma tuý
- Hệ thống các quỹ môi trường (được thành lập ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, ngành than)

21


- Quỹ hỗ trợ phát triển (bao gồm cả Quỹ Bình ổn giá và Quỹ hỗ trợ xuất
khẩu đã được sáp nhập)
- Quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (7 địa phương)
- Quỹ bảo hiểm xã hội (bao gồm cả Quỹ Bảo hiểm y tế đã được sáp nhập).
- Và một số quỹ khác.
ở các quốc gia khác nhau và ngay ở trong một quốc gia, trong các thời kỳ
phát triển khác nhau việc tổ chức bao nhiêu quỹ TCNN ngoài NSNN là không
giống nhau. Điều đó phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ quản
lý TCNN của các quốc gia trong các thời kỳ lịch sử nhất định.
Việc tổ chức các quỹ tiền tệ thuộc tài chính Nhà nước theo cơ chế nhiều
quỹ thành quỹ Ngân sách Nhà nước và các quỹ ngoài Ngân sách là phù hợp với

việc thực hiện phân cấp, phân công quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Điều
đó đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của các địa phương, các
ngành, các đơn vị trong quản lý kinh tế - xã hội và là điều kiện thực hiện chuyên
môn hoá lao động trong quản lý tài chính Nhà nước đảm bảo cho việc quản lý
đó được chặt chẽ hơn, có hiệu quả hơn.
Từ các cách phân loại trên đây của tài chính Nhà nước lại có thể rút ra nhận
xét rằng, vốn của tài chính Nhà nước bao gồm vốn của Ngân sách Nhà nước và
vốn ngoài Ngân sách Nhà nước, trong đó, vốn của Ngân sách Nhà nước có quy
mô lớn nhất và giữ vai trò quyết định đến phạm vi cũng như hiệu quả hoạt động
của tài chính Nhà nước. Tuy vậy, trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
phát huy quyền tự chủ của các ngành, các địa phương và các đơn vị cơ sở, thực
hiện phương châm đa dạng hoá các nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội,
vốn ngoài Ngân sách cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng. Trong những năm
qua, các quỹ tài chính Nhà nước ngoài Ngân sách Nhà nước đã có tác dụng tích
cực trong việc khai thác, huy động các nguồn lực tài chính từ các chủ thể khác,
cùng với vốn Ngân sách Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu
quan trọng của kinh tế vĩ mô. Thực tế đó cho thấy, trong chính sách tài chính Nhà
nước, bên cạnh bộ phận hạt nhân là chính sách Ngân sách, việc nghiên cứu để có
chính sách hợp lý đối với việc quản lý và sử dụng vốn ngoài Ngân sách là cần
thiết.
IV. Vai trò của tài chính nhà nước
Vai trò của Tài chính Nhà nước có thể được xem xét trên hai khía cạnh: là
công cụ tập trung nguồn lực đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy
22


Nhà nước và là công cụ của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế thị
trường.
1. Vai trò của tài chính Nhà nước trong việc đảm bảo duy trì sự tồn
tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước

Để duy trì sự tồn tại và hoạt động, bộ máy Nhà nước cần phải có nguồn
tài chính đảm bảo cho các nhu cầu chi tiêu. Các nhu cầu chi tiêu của bộ máy
Nhà nước được đáp ứng bởi tài chính Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách Nhà
nước. Vai trò kể trên của tài chính Nhà nước được thể hiện trên các khía cạnh
sau đây:
Một là, Khai thác, động viên và tập trung các nguồn tài chính để đáp ứng
đầy đủ, kịp thời cho các nhu cầu chi tiêu đã được Nhà nước dự tính cho từng
thời kỳ phát triển. Các nguồn tài chính này có thể được động viên cả ở trong
nước và từ nước ngoài, từ mọi lĩnh vực hoạt động và mọi thành phần kinh tế,
dưới nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc và tự nguyện, có hoàn trả và không
hoàn trả, trong đó, tính bắt buộc và không hoàn trả là nét đặc trưng.
Hai là, Phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được vào tay Nhà nước
cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo những quan hệ tỷ lệ hợp lý nhằm
vừa đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước,
vừa bảo đảm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Ba là, Kiểm tra giám sát để đảm bảo cho các nguồn tài chính đã phân phối
được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhất, đáp ứng tốt nhất
các yêu cầu của quản lý Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.
2. Vai trò của tài chính Nhà nước trong hệ thống tài chính của nền
kinh tế quốc dân
Dựa trên cách tiếp cận về cơ cấu sở hữu và khu vực kinh tế có thể chia hệ
thống tài chính quốc dân thành hai bộ phận: Tài chính của khu vực Nhà nước và
tài chính khu vực phi Nhà nước.
Tính đặc thù của tài chính Nhà nước là ở chỗ các hoạt động thu, chi bằng
tiền trong quá trình phân phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ của Nhà nước luôn gắn liền trực tiếp với các hoạt động kinh tế của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho các nhu cầu chung - nhu cầu có tính xã
hội mà Nhà nước phải đảm nhận do sự đòi hỏi phải thực hiện các chức năng của
Nhà nước.

23


Do tính chất đặc biệt kể trên về vị trí, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của
nó, trong hệ thống tài chính quốc dân, tài chính Nhà nước, đặc biệt là Ngân sách
Nhà nước luôn giữ vai trò lãnh đạo và chủ đạo gắn liền với vai trò lãnh đạo của
Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Có thể nhận thấy vai trò đó
của tài chính Nhà nước trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, Tài chính Nhà nước có vai trò chi phối các hoạt động của tài
chính khu vực phi Nhà nước. Sự chi phối đó được thể hiện trên hai mặt của quá
trình phân phối các nguồn tài chính. Một mặt, Tài chính phi Nhà nước có nhiệm
vụ thực hiện các khoản thu của tài chính Nhà nước để tạo lập các quỹ tiền tệ
chung của Nhà nước, đóng góp cho việc thực hiện các nhu cầu chung của xã hội.
Mặt khác, với quy mô lớn của các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước, đặc biệt là
Ngân sách Nhà nước, tài chính Nhà nước có thể đầu tư cho việc xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tạo thuận lợi cho hoạt động của khu vực kinh tế phi
Nhà nước, đồng thời có thể thực hiện sự trợ giúp về tài chính cho khu vực kinh
tế này duy trì và đẩy mạnh hoạt động.
Thứ hai, Tài chính Nhà nước có vai trò hướng dẫn các hoạt động của tài
chính phi Nhà nước. Hoạt động của tài chính Nhà nước luôn gắn liền và phục vụ
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước, do đó, các hoạt động thu, chi của tài chính Nhà nước như là tấm
gương phản ánh các định hướng phát triển đó, từ đó có tác dụng hướng dẫn các
hoạt động thu, chi trong hoạt động kinh tế xã hội của khu vực phi Nhà nước.
Chẳng hạn, chính sách thuế có tác dụng hướng dẫn đầu tư, hướng dẫn tiêu dùng,
đầu tư của Nhà nước có tác dụng “châm ngòi” thu hút đầu tư và hướng dẫn đầu
tư của khu vực phi Nhà nước…
Thứ ba, Tài chính Nhà nước có vai trò điều chỉnh các hoạt động của tài
chính phi Nhà nước. Vai trò này được thể hiện, thông qua hoạt động kiểm tra
của Tài chính Nhà nước có thể phát hiện những điểm bất hợp lý, những sự chệch

hướng của các hiện tượng thu, chi trong các hoạt động phân phối nguồn tài
chính, trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của tài chính phi Nhà
nước, từ đó, đòi hỏi và có biện pháp hiệu chỉnh các quá trình kể trên đảm bảo
cho các nguồn tài chính vận động đúng hướng và nâng cao hiệu quả của việc sử
dụng chúng.
3. Vai trò của tài chính Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu
của kinh tế vĩ mô
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, việc đề cao vai trò của Nhà nước
trong quản lý vĩ mô nền kinh tế và phát huy vai trò của khu vực kinh tế Nhà
24


nước ở một giới hạn hợp lý là một trong những nhân tố cơ bản để điều tiết sự
phát triển của nền kinh tế nhằm đạt tới ổn định, hiệu quả và công bằng. Do vị trí
đặc biệt của mình, tài chính Nhà nước trở thành công cụ đóng vai trò chủ yếu
trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội nhằm đạt tới các mục tiêu đã
định của kinh tế vĩ mô. Có thể khái quát vai trò kể trên của tài chính Nhà nước
trên các khía cạnh chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, Tài chính Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của các hoạt động
kinh tế xã hội - Vai trò kinh tế của tài chính Nhà nước.
Vai trò này được phát huy nhờ vào việc vận dụng chức năng phân bổ
nguồn lực của tài chính Nhà nước trong hoạt động thực tiễn. Bằng việc tạo lập,
phân phối và sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý các quỹ tiền tệ của Nhà
nước, tài chính Nhà nước tác động tới việc phân bổ và góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn tài chính của toàn xã hội, từ đó tác động tới sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Thông qua công cụ thuế với các mức thuế suất khác nhau và ưu đãi về
thuế, tài chính Nhà nước có vai trò định hướng đầu tư; điều chỉnh cơ cấu của
nền kinh tế theo các định hướng phát triển của Nhà nước cả về cơ cấu ngành và

cơ cấu vùng lãnh thổ; kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh theo ngành
hoặc theo sản phẩm…
Thông qua hoạt động phân phối các quỹ tiền tệ chung của Nhà nước, đặc
biệt là quỹ Ngân sách Nhà nước, cho xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư vào các
ngành then chốt, các công trình mũi nhọn, hình thành các doanh nghiệp Nhà
nước, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp cần nâng đỡ khuyến khích (qua biện
pháp trợ giá, trợ cấp…), tài chính Nhà nước góp phần tạo điều kiện thuận lợi
cho phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần hình thành và hoàn thiện cơ cấu
sản xuất, cơ cấu kinh tế - xã hội, đảm bảo các tỷ lệ cân đối của nền kinh tế, từ đó
thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng trưởng.
Trong công cuộc xây dựng kinh tế, đặc biệt đối với các nước chậm phát
triển như Việt Nam, việc sử dụng các biện pháp tài chính để phát huy vai trò
kinh tế của tài chính Nhà nước nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát
triển kinh tế toàn diện và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế được coi
là mối quan tâm hàng đầu của chính sách sử dụng tài chính của Nhà nước.

25


×