Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN đặc điểm, XU HƯỚNG BIẾN đổi tôn GIÁO ở VIỆT NAM và QUAN điểm, CHÍNH SÁCH tôn GIÁO của ĐẢNG và NHÀ nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.95 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2

I.

ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA

1.

TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam.

3
3

2.
II.

Xu hướng biến đổi của tôn giáo ở Việt Nam
QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ

11

1.

NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Cơ sở của quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín


13
14

2.

ngưỡng, tôn giáo.
Sự phát triển trong quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước Việt Nam
KẾT LUẬN

20
27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

20


2

MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội thuộc đời sống tinh thần của con
người, phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo. Theo lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều chỉ là sự phản ánh hư ảo
vào đầu óc người ta những sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh ở thế gian đã
mang hình thức sức mạnh siêu thế gian”. Tôn giáo đã và đang có ảnh hưởng
đến cuộc sống một bộ phận con người trong xã hội. Ngày nay, tôn giáo đang
là một trong những vấn đề nổi lên rất gay gắt và phức tạp trong cuộc đấu

tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng
tôn giáo đã chi phối sâu sắc đến đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân
theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Trong thời đại ngày nay, khoa học và
công nghệ phát triển như vũ bão, khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp và tưởng chừng con người cùng với khoa học có thể giải thích
được mọi vấn đề của tự nhiên, xã hội, tư duy mà không cần viện dẫn thần
linh. Nhưng thực tế đang có nhiều vấn đề diễn mà chúng ta chưa giải đáp
được. Trong những năm vừa qua, nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân
ta có xu hướng gia tăng, hoạt động của các tổ chức tôn giáo tiếp tục diễn ra
phức tạp, các thế lực thù địch luôn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá
cách mạng nước ta ngày càng thâm độc. Tất cả những tác động đó đã làm ảnh
hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của nhân dân ta và ngày càng gia tăng
trong tình hình hiện nay.
Tôn giáo vốn là một trong những vấn đề tế nhị, nhạy cảm và có liên
quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, luôn biến động cùng với
những biến thiên của lịch sử, nhận thức và giải quyết đúng vấn đề tôn giáo
vừa là vấn đề mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.


3

NỘI DUNG
I. ĐẶC ĐIỂM TÔN GIÁO VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA TÔN
GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam.
1.1. Các tôn giáo ở Việt Nam.
Việt Nam nằm ở vị trí giữa ngã ba của Đông Nam Á, giáp biển Đông - là
nơi giao lưu của nhiều luồng tư tưởng văn hoá khác nhau và có vị trí thuận lợi

cho việc tiếp thu hai nền văn minh ở phương Đông, đó là nền văn minh Trung
Hoa và văn minh Ấn Độ. Với địa hình đa dạng và phong phú, thuộc vùng nhiệt
đới gió mùa nên thiên nhiên vừa ưu đãi vừa luôn đặt con người trước những
nguy cơ, thiệt hại nặng nề của thời tiết khắc nghiệt. Do đó, thường nảy sinh tâm
lý sợ hãi dẫn đến nhu cầu cậy nhờ vào sự che chở của các lực lượng siêu nhiên.
Việt Nam vốn là nơi quần cư của nhiều tộc người, lại có sự pha tạp của nhiều
dòng máu nên nhu cầu tâm linh cũng vô cùng phong phú, đa dạng.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử thống
nhất và đoàn kết của cộng đồng dân tộc, giữa các tôn giáo và tín ngưỡng bản
địa với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài. Ngay từ thế kỷ thứ nhất sau Công
nguyên, sự du nhập của Phật giáo vào vùng kinh đô Luy Lâu (Thuận Thành,
Bắc Ninh ngày nay), đã nhanh chóng hoà nhập với tín ngưỡng và văn hoá bản
địa, trở thành một bộ phận tất yếu trong đời sống tâm linh của người Việt cổ.
Ở Miền Nam, Phật Giáo Nam Tông đã bắt đầu hình thành và phát triển ở thời
kỳ Vương quốc Phù Nam (thế kỷ I-VII), tiếp sau đó ảnh hưởng sâu đậm trong
cộng đồng dân tộc Khmer Nam Bộ vào thế kỷ XIII và XIV.
Vào đầu thế kỷ thứ X, Nho giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam qua sự
ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa. Phật giáo phục hưng và trở thành hệ tư
tưởng chính thống của triều đại Lý-Trần (thế kỷ XI-XIV) và chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống tâm linh của người dân thời kỳ này. Tuy nhiên, kể từ thời Hậu Lê
(thế kỷ VI) trở đi, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính trị - đạo đức chính
thống và là một trong những tôn giáo chính trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Theo những bước chân của các giáo sĩ truyền giáo Tây Âu, Công giáo
đã được đưa vào Việt Nam từ thế kỷ XVI và sau đó phát triển mạnh ở triều


4

Nguyễn và thời Pháp thuộc. Cuối thế kỷ XIX, đầu XX, đạo Tin lành bắt đầu
du nhập vào Việt Nam do các nhà truyền giáo đến từ Bắc Mỹ. Trong nửa đầu

và cuối thế kỷ XX là sự phát triển mạnh mẽ của các tôn giáo bản địa, đáng lưu
ý là Phật giáo Hoà Hảo, đạo Cao Đài, Tứ Ân Hiếu Nghĩa... Cùng với những
tín ngưỡng bản địa đã hình thành từ lịch sử ngàn năm của dân tộc, như tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo ngoại sinh và nội sinh đã làm phong
phú và là bộ phận không thể thiếu đươc trong đời sống tâm linh và tinh thần
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Như vậy, ở Việt Nam có mặt hầu hết các tôn giáo lớn với đông đảo các
tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo hay
một số tôn giáo bản địa như Cao Đài, Hòa Hảo… Quyền tự do tín ngưỡng và
tự do không tín ngưỡng của nhân dân được quy định trong Hiến pháp: Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Theo thống kê, ở nước ta hiện nay có
khoảng 25 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm khoảng 26% dân số cả nước. Trong đó,
chủ yếu là các tôn giáo đó là:
Phật giáo, tính đến tháng 7-2007, số người theo Phật giáo có khoảng
11 triệu người, chiếm hơn 12% dân số cả nước; trong đó có 46.495 chức sắc,
10 nghìn chức việc; có 14.775 cơ sở thờ tự trên toàn quốc, trong đó Phật giáo
Bắc tông có 23.665 cơ sở thờ tự, Phật giáo Nam tông có 570 cơ sở thờ tự và
phái Khất sỹ có 540 cơ sở thờ tự. Hiện Giáo hội Phật giáo Việt Nam có hệ
thống đào tạo từ cấp cơ sở tới Học viện Phật giáo gồm: 04 Học viện Phật
giáo, 32 trường Trung cấp Phật học và một số lớp trình độ sơ cấp ở các chùa.
Công giáo hay gọi là Thiên chúa giáo, tính đến tháng 12-2012, Giáo
hội Công giáo Việt Nam có khoảng 6 triệu tín đồ, chiếm 6,84% dân số cả
nước; 4044 chức sắc, 7500 chức việc: 02 Hồng y; 3 Tổng Giám mục; 33
Giám mục; 2104 linh mục; 7500 tu sĩ (trong đó có 6000 nữ tu); 84 dòng và tu
hội; được tổ chức thành 26 giáo phận, khoảng 3.000 giáo xứ, 6000 giáo họ,
9000 cơ sở thò tự và 7 đại chủng viện. Đại đa số tín đồ chức sắc Công giáo
“sống tốt đời, đẹp đạo”, “Kính chúa yêu nước”, sống phúc âm trong lòng dân
tộc, phục vụ hạnh phúc đồng bào.



5

Đạo Tin lành, tính đến tháng 3-2011, đã có hơn 1 triệu tín đồ, chiếm
1,14% dân số cả nước; trong đó có 436 mục sư, 306 mục sư nhiệm chức, 458
truyền đạo, 455 chi hội, 4409 điểm nhóm, 351 nhà thờ, với hơn 90 tổ chức và
nhóm Tin lành. Trong số hơn 90 tổ chức, nhóm Tin lành hiện có ở Việt Nam,
có 10 tổ chức đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động.
Hồi giáo (hay Đạo Ixlam), tính đến năm 2013 ở Việt Nam có khoảng
75 nghìn tín đồ, chiếm 0,08% dân số cả nước, trong đó có 770 chức sắc, chức
việc, 79 cơ sở thờ tự (40 thánh đường, 22 tiểu thánh đường, 17 chùa) ở 13
tỉnh, thành phố, tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Ninh Thuận,
Bình Thuận, An Giang.
Đạo Cao Đài, tính đến tháng 12-2011, đạo Cao Đài có khoảng 2,4
triệu tín đồ, chiếm 2,76% dân số cả nước, trong đó có 1 vạn chức sắc, 2 vạn
chức việc, 1.290 cơ sở thờ tự, hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố, tập trung chủ
yếu ở Trung Bộ và Nam Bộ. Trên phạm vi cả nước, có 34 tỉnh, thành phố có
đạo Cao Đài, chính quyền cấp tỉnh công nhận gần 1.000 họ đạo với hơn
20.000 chức Sắc, chức việc hoạt động ở các Ban Đại diện, Đại diện tỉnh,
thành phố và các họ đạo.
Phật giáo Hòa Hảo, tính đến tháng 12-2011, tín đồ Phật giáo Hoà Hảo
ở trong nước có khoảng 1,5 triệu người, chiếm 1,7% dân số cả nước, trong đó
có 3.200 chức việc, 94 chùa, 50 Hội quán, 399 tòa đọc giảng ở 22 tỉnh, thành
phố, tập trung đông nhất là ỏ An Giang, nơi có Tổ đình Phật giáo Hoà Hảo và
Trụ sở của Ban Trị sự Trung ương.
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có gần 1,5 triệu tín đồ, cùng với 4.800
chức sắc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh;
trên 3.000 người làm công việc chế biến thuốc Nam, hiện diện ở 24 tỉnh,
thành phố phía Nam từ Khánh Hoà tới Cà Mau.
Đạo Baha’i Việt Nam, tháng 8- 2008 được Ban Tôn giáo Chính phủ cấp
quyết định công nhận hoạt động. Hiện nay có hơn 7.000 tín đồ Baha’i đang

sinh hoạt trong 93 cộng đồng, phân bố ở 45 tỉnh, thành phố, tập trung đông
nhất tại một số tỉnh, thành phố, như: Hà Nội, Đà Nẵng, Quảng Nam Gia Lai,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Cần Thơ, Kiên Giang.


6

Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có khoảng 15.000 tín đồ sinh sống tập trung ở
các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Sóc Trăng,
Vĩnh Long, Tiền Giang và Bến Tre.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có khoảng 78.000 tín đồ, tập trung ở các tỉnh
Tây Nam Bộ như: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Tiền Giang, Kiên Giang, Bà Rịa - Vung Tàu. Trong đó, An Giang là trung
tâm của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa…
Đồng thời theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước
hiện có khoảng 8.000 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 332 lễ hội lịch
sử cách mạng, 544 lễ hội tôn giáo, 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài vào và 40
lễ hội khác. Trong đó, có nhiều tín ngưỡng gắn với lễ và hội, mỗi tín ngưỡng,
mỗi vùng lại có những lễ hội riêng mang đậm nét văn hóa của từng khu vực.
Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng
riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
1.2. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Từ đặc điểm tự nhiên, lịch sử và văn hoá đó đã tác động sâu sắc đến tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, làm cho tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam có
những đặc điểm sau:
* Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo
khác cùng tồn tại với tâm thức tôn giáo mềm dẻo hòa đồng là nổi trội, không
có những tình cảm cực đoan.
Do những đặc điểm riêng về vị trí địa lý, thành phần cư dân, lịch sử,
văn hóa mà Việt Nam có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Việt Nam ở vị

trí địa lý mở nối liền bắc - nam, đông - tây, biển - lục địa; lại ở vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa, thuận lợi trồng lúa nước... nên nhiều tộc người sinh thành,
tụ cư; trong lịch sử luôn bị các thế lực ngoại bang nhòm ngó, xâm lược... buộc
các tộc người phải sống chung lưng đấu cật chống thiên tai, địch họa... đã
sớm tạo nên văn hóa cởi mở, khoan dung, trong đó có sự nảy sinh, tiếp biến
các tín ngưỡng, tôn giáo của các tộc người, dân tộc bên ngoài đem đến. Từ
những hình thức tôn giáo, tín ngưỡng sơ khai đến hiện đại, từ tôn giáo phương


7

Đông cổ đại đến phương Tây cận, hiện đại, tất cả đã và đang cùng tồn tại bên
cạnh tín ngưỡng dân gian, bản địa của nhiều dân tộc, bộ tộc khác nhau.
Dưới góc độ văn hóa, sự đa dạng của tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam đã
góp phần làm cho văn hóa Việt Nam da dạng, phong phú. Mỗi loại hình tín
ngưõng, tôn giáo đều góp mặt trang điểm cho bộ mặt văn hóa Việt Nam đa
sắc, đa màu. Chúng ta có thể nói đến văn hóa Phật giáo, giá trị Phật giáo được
thể hiện trong đời sống tinh thần, trong kiến trúc, hội họa... Tương tự ta cũng
có thể nói văn hóa Công giáo, Tin lành, Hồi giáo; văn hóa trong thờ cúng tổ
tiên, trong các hình thức tín ngưõng của các tộc người thiểu số... Đây là một
thế mạnh, một lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Chúng ta có
thể biến các giá trị văn hóa này để phát triển kinh tế du lịch văn hóa; có thể
quảng bá giá trị văn hóa này trong giao lưu hội nhập quốc tế hiện nay...
Dưới góc độ quản lý xã hội, sự đa dạng, phong phú của tín ngưỡng, tôn
giáo đòi hỏi Đảng, Nhà nước, vừa phải có quan điểm, chính sách chung đúng
đắn, vừa phải cụ thể hóa để phù hợp với từng tín ngưỡng, tôn giáo của các tộc
người cụ thể. Với một bộ phận đồng bào tộc người thiểu số có tín ngưỡng, tôn
giáo đã đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta cùng lúc giải quyết cả vấn đề dân tộc và
vấn đề tôn giáo vốn là hai vấn đề khá phức tạp, nhạy cảm.
* Các tôn giáo ở nước ta phong phú đa đạng nhưng không có chiến

tranh tôn giáo, mang tính đan xen, hoà đồng, khoan dung và đậm tính dân
tộc, các tôn giáo ngoại nhập nhanh chóng được Việt hóa.
Khác với một số nước ở châu Âu (với Kitô giáo), Trung Đông (với Hồi
giáo) ở đó tín dồ am hiểu giáo lý khá sâu sắc, vâng phục thần quyền khá triệt để,
tính độc thận khá cao. Không ít người thường coi tôn giáo mình hơn tôn giáo
người khác, nên trong lịch sử và cả hiện nay xung đột tôn giáo thường hay xảy
ra. Ngược lại, đa số người Việt Nam thường tin theo tín ngưỡng, tôn giáo chủ
yếu để bù đắp những thiếu hụt về tinh thần trong cuộc sống trần tục mong “ăn
nên, làm ra” là chính, ít quan tâm, am hiểu giáo lý mà họ tin theo. Ngay cả
những người được coi là sùng đạo thì sự hiểu biết giáo lý của họ thường cũng
không thành hệ thống và không hoàn chỉnh, chi trừ một số chức sắc tôn giáo.


8

Tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Nam mang tính hoà đồng cao,
không cuồng tín. Điển hình của tính hoà đồng là hiện tượng tam giáo đồng
nguyên Phật - Nho - Lão với sự “ngồi chung” của các vị thần ở các điện thờ,
chùa, đình, đền, miếu; “sự bá tạp, hỗn dung” được thể hiện cả trong giáo lý và
điện thờ của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo; tư tưởng vạn vật hữu linh theo
kiểu “đất có thổ công, sông có hà bá”, “có bệnh thì vái tứ phướng” của người
Việt Nam... Điều đó chứng tỏ đa số người Việt Nam ít cuồng tín tôn giáo, ưu
tiên quan tâm đến cuộc sống kiện tại, nhưng nó cũng dễ làm tăng tính thực
dụng cầu xỉn, hối lộ cả thần thánh và việc lợi dụng tín ngưởng, tôn giáo để
hành nghề mê tín, buôn thần, bán thánh...
* Trong sinh hoạt tôn giáo nổi bật là yếu tố nữ, vai trò của người phụ
nữ được coi trọng trong hệ thống tín ngưõng, tôn giáo ở Việt Nam: Trong lịch
sử chống giặc ngoại xâm, người phụ nữ có vai trò quan trọng trong xã hội
không chỉ vì họ gánh vác công việc nặng nề thay chồng nuôi con ở hậu
phương mà còn xông pha trận mạc. Dù mẫu quyền được thay thế bởi phụ

quyền từ lâu, nhưng tàn dư chế độ này còn kéo dài dai dẵng đến tận ngày nay.
Hơn nữa, ở một xứ sở thuộc nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, vốn
coi trọng yếu tố âm - đất - mẹ, người mẹ biểu tượng cho ước muốn phong
đăng, phồn thực; hình tượng của sự sinh sôi, nãy nở, sự trường tồn của giống
nòi, sự bao dung của lòng đất. Vì vậy, một trong những đặc điểm đáng quan
tâm trong tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam là truyền thống tôn thờ yếu tố nữ.
* Tính cách sinh hoạt tôn giáo mang nặng tính tiểu nông và tín đồ các
tôn giáo Việt Nam hầu hết là nông dân lao động.
Theo ước tính hiện nay, trong Phật giáo, Công giáo có khoảng 80 - 85%
tín đồ là nông dân, trong Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo có 65% tín đồ là nông
dân. Đại đa số họ có đối sống và dân trí thấp. Người có tín ngưỡng và tín đồ
các tôn giáo ở Việt Nam, với các lối sống đạo khác nhau, nhưng nhìn chung
đều có tình cảm và niềm tin tôn giáo khá sâu sắc nhưng không cuồng tín.
Đây là yếu tố quan trọng phản ánh lợi ích cơ bản của họ thống nhất với lợi
ích của giai dấp công nhân, lợi ích dân tộc, là cơ sở khách quan thuận lợi trong
đoàn kết dân tộc, tập hợp lực lượng thực hiện sự nghiệp cách mạng của Đảng.


9

Thực tế, mặc dù có tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng cơ bản họ là người có tinh thần
yêu nước, có ý thức gắn bó cùng dân tộc, dễ gần và đi theo cách mạng. Nhiều tín
đồ, chức sắc tôn giáo đã tích cực góp phần xứng đáng cùng khối đại đoàn kết
toàn đân trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc và trong xây
dựng đất nước, ban vệ Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta có
phần đóng góp đáng kể của đông đảo quần chúng có tín ngưỡng, tôn giáo.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong từng thời kỳ lịch sử có lúc, có
nơi vẫn còn một bộ phận tín đồ thành kiến, mặc cảm với chính quyền, chưa thật
tin tưỏng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc do Đảng lãnh đạo, thậm chí bị
kẻ xấu và các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng, đi ngược lại

lợi ích của dân tộc và Tổ quốc, cũng như lợi ích của đại đa số tín đồ. Đặc điểm
này quy dịnh nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt
Nam: là công tác vận động quần chúng, công tác với con người.
* Thần thánh hoá những người có công với gia đình, làng, nước: Con
người Việt Nam vốn có lòng yêu nước, trọn tình “uống nước, nhớ nguồn”,
“ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng thấm
đượm tinh thần ấy. Từ xưa, ở Việt Nam đã hình thành 3 cộng đồng gắn bó với
nhau là gia đình, làng xóm và quốc gia.
Gia đình là tế bào của xã hội, dù nghèo hay giàu, song nhà nào cũng có
bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ - những người đã khuất. Làng xóm có cơ cấu,
thiết chế rất chặt chẽ. Mỗi làng có phong tục, lối sống riêng. Trong phạm vi
làng xã từ lâu đã hình thành tục thờ cúng thần địa phương và việc thờ cúng
này trở nên phổ biến ở nhiều tộc người. Những người có công với gia đình,
làng xóm, đất nước đều được người Việt Nam tôn vinh, sùng kính.
* Một số tôn giáo ở Việt Nam bị các thế lực thù địch phản động trong
và ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính trị.
Trong xã hội có giai cấp đốỉ kháng, giai cấp thống trị bóc lột một mặt
sử dụng công cụ bạo lực để trấn áp, mặt khác, chứng sử dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để an ủi, mê hoặc, ru ngủ quần chúng. Các tổ chức tôn giáo mong muốn
thông qua nhà nước thế quyền để mở rộng đức tin, gây ảnh hưởng lớn hơn


10

đến xã hội. Sự gặp gỡ về lợi ích đó tạo nên sự cấu kết, “cộng sinh” giữa thần
quyền và thế quyền nhằm phục vụ cho lợi ích của mỗi bên.
Ở Việt Nam, do phải thường xuyên đối phó với các cuộc chiến tranh;
có nhiều tôn giáo ngoại nhập; sự phân hoá trong nội bộ tôn giáo; tính thực
dụng của tín ngưỡng, tôn giáo... làm cho việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
của cấc thế lực thù thù địch Việt Nam càng “thuận lợi” và nguy hại hơn.

Trong lịch sử, các thế lực thù địch đều lợi dụng tôn giáo để xâm lược,
nô dịch, đồng hoá dân tộc ta. Trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ, không ít
tổ chức tôn giáo, chức sắc và tín đồ bị kẻ thù lợi dụng chống lại cách mạng.
Hiện nay chủ nghĩa đế quốc, với chiến lược “diễn biến hoà bình” vẫn
luôn coi vấn đề tôn giáo là một trọng điểm “ưu tiên”, “huyệt” nhạy cảm nhất
để lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Việc tăng cường truyền đạo Tin
lành ở Tây Bắc, Tây Nguyên, đạo Vàng Chứ của người Mông ở Tây Bắc, cái
gọi là “Tinh lành Đềga” ở Tây Nguyên.., là minh chứng cụ thể cửa sự lợi
dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.
Chứng kích động chia rẽ quan hệ lương - giáo và giữa các tôn giáo;
mua chuộc, lôi kéo, ép buộc đồng bào các tôn giáo chống đối chính quyền, di
ciầ và vượt biên trái phép, gây bất ổn chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các
“điểm nóng” để vu khống Việt Mam đàn áp các tôn giáo vi phạm “dân chủ”,
“nhân quyền” để cô lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam... Điểnnhình là các
vụ bạo loạn năm 2001, 2004 ỏ Tây Nguyên; tụ tập đông người, gây mất trật tự
an ninh ở Mường Nhé, Điện Biên vào tháng 4-2011, có hàng ngàn người
tham gia biểu tình, bạo loạn, chống đối chính quyền, phá hoại kinh tế.
* Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có những biến thối mới theo hướng
thế tục hóa, thương mại hóa
Do tác động của nền kinh tế thị trường, tín ngưỡng, tôn giáo có xu
hướng thế tục hoá nhanh chóng. Một mặt, bằng chức năng phi tôn giáo như
cạc hoạt động xã hội từ thiện, tôn giáo đã hoà nhập vào đời sống xã hội. Mặt
khác, các hoạt động tôn giáo cũng bị kẻ xấu lợi dụng để đầu cơ, trục lợi,
thương mại hoá khá sâu sắc. Việc buôn thần, bán thánh khá phổ biến; tệ “ăn
chặn” bắt bí khách đi lễ, tham quan du lịch xảy ra thường xuyên, điển hình


11

như Lễ hội Bà Chúa Kho (Bắc Ninh), Lễ hội Đền Trần (Nam Định), Chùa

Hương (Hà Nội)... Nhiều nơi sinh hoạt tôn giáo tôn nghiêm bị biến thành
điểm hành nghề mê tín. Nhiều hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện. Theo thống
kê sơ bộ, nước ta cô hàng trăm “tạp giáo” lớn nhỏ, như: đạo "Siêu thoát" tại
Quảng Binh, Quảng Trị, Hà Tĩnh, đạo “Trương Thành Tâm” tại Lâm Đồng,
đạo “Vàng Chứ” ở tộc người Mông, tộc người Dao, đạo “Tam Tổ Thánh
hiền”, đạo “Bạch”, đạo “Tràng”, đạo “Ngọc Phật Hồ Chí Minh”, đạo “Vô vi
khoa học huyền bí”, đạo “Tổ tiên Chính thống giáo”... Phần lớn các “tạp
giáo” này là sự hỗn tạp của các tôn giáo cũ, và không ít trong các “tạp giáo”
đó mang tính phi nhân, phản văn hóa, tín đồ bị lợi dụng về tình cảm, tiền bạc,
gây hậu quả xấu cho người tin theo và cho xã hội. Thực chất phần lớn trong
các “tạp giáo” đó là các hoạt động mê tín, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
mưu lợi cá nhân, thậm chí chống phá chế độ ta.
2. Xu hướng biến đổi của tôn giáo ở Việt Nam.
Từ khi xuất hiện cho đến nay, tôn giáo luôn biến động. Vào những năm
50-60 của thế kỷ XX, tôn giáo có xu hướng suy giảm. Những thập kỷ gần đây
dường như tôn giáo lại được phục hưng. Bởi thế, một số người đã dự báo, thế kỷ
XXI là thế kỷ của dân tộc và tôn giáo. Nhìn một cách tổng thể thì bức tranh tôn
giáo vẫn là đa sắc màu, đậm nhạt khác nhau trên mỗi vùng, mỗi quốc gia, hay
châu lục. Trên lĩnh vực lý luận, tôn giáo vẫn được coi là một ngành khoa học
gây nhiều tranh cãi. Song dù muốn hay không, hầu hết những người quan tâm
đến tôn giáo hiện nay đều nhận thấy một xu thế tất yếu là toàn cầu hóa đang tác
động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có tôn giáo. Sự vận động, biến
đổi và phát triển của tôn giáo ở Việt Nam cũng không tách rời sự tác động ấy
2.1. Xu hướng hiện đại hóa tôn giáo
Ở nước ta, trong xu thế hiện đại hóa của các tôn giáo trên thế giới và sự
tác động của nó; đồng thời trước những biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội
trong nước, các tôn giáo đều có những thích ứng khác nhau để phù hợp với
thời đại. Ở mỗi tôn giáo, quá trình hiện đại hóa diễn ra sớm muộn có thể khác
nhau; song tập trung và dễ nhận thấy trong khoảng hơn chục năm gần đây, khi
đất nước chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường. Hiện đại



12

hóa tôn giáo ở Việt Nam không chỉ có sự khác nhau về nội dung, phương thức
và trình độ hiện đại hóa mà còn có sự khác nhau giữa các vùng, miền, địa
phương và khu vực; thậm chí giữa các bộ phận tín đồ ngay trong cùng một
tôn giáo. Điều dễ nhận thấy ngay trong xu hướng hiện đại hóa tôn giáo là việc
tôn giáo đã áp dụng các thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại trên cả
hai phương diện lý luận và thực tiễn. Cụ thể là, một số lý thuyết khoa học
được lợi dụng để chứng minh cho luận thuyết tôn giáo, hoặc lý giải mới về
các quan điểm tôn giáo cho phù hợp với khoa học hiện đại. Nhiều phương
tiện kỹ thuật hiện đại được sử dụng để phát huy tối đa hiệu quả của việc
truyền đạo và quản đạo; như loa truyền thanh, tivi, máy chiếu phim, vi tính,
đèn huỳnh quang màu các loại... Tất cả đã thực sự trở thành một bộ phận
không thể thiếu của quá trình hiện đại hóa tôn giáo hiện nay
2.2 Xu hướng đa dạng hóa tôn giáo.
Đối với nước ta, do đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử nên tôn giáo
cũng mang những dấu ấn riêng. Ở các tộc người vẫn còn một số hình thức tôn
giáo sơ khai như: tô tem, ma thuật, phù thủy tồn tại kết hợp với sự du nhập
của các tôn giáo lớn như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Kitô giáo..., tạo nên
sự đa dạng và phong phú về tôn giáo ở nước ta. Trong con người Việt vừa có
cái tâm linh của Phật giáo, cái duy lý của Nho giáo, vừa có cái siêu thoát của
Lão giáo. Cũng chính sự kết hợp của ba tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên” ấy
đã làm phong phú thêm những giáo lý, lễ nghi thờ cúng trong nghi thức, hành
vi của mỗi tôn giáo tồn tại trong làng xóm hay trong mỗi cộng đồng. Và trên
cái nền di sản tôn giáo đó, khi Kitô giáo - tôn giáo độc thần, từ phương Tây
du nhập vào Việt Nam cũng phải biến đổi ít nhiều để phù hợp với sự đa dạng
của các hình thức tôn giáo ở Việt Nam.
2.3 Xu hướng phát triển tôn giáo

Xu hướng tôn giáo gắn kết với dân tộc: Trước sự du nhập ồ ạt về văn
hóa của các nước phát triển phương Tây, những dân tộc nhỏ, trình độ phát triển
thấp như Việt Nam không thể không tăng cường cảnh giác, ra sức giữ gìn, bảo
vệ bản sắc văn hóa riêng của mình. Trong sự phản vệ đó, văn hóa truyền thống
của dân tộc đã được phát huy, coi đây là chất keo gắn kết dân tộc. Tuy nhiên,


13

cũng cần phải thấy rằng, trong tình trạng còn lạc hậu, sự đứt đoạn của văn hóa,
tín ngưỡng truyền thống thường tạo ra cơ hội cho sự thẩm lậu văn hóa, tôn giáo
từ bên ngoài. Cũng do vậy, ý thức dân tộc đã mặc nhiên, vô tình hay chủ ý duy
trì và phát triển văn hóa truyền thống ở một số dân tộc. Ngay cả những tôn giáo
vốn được du nhập từ bên ngoài mà nhiều nơi người ta vẫn cố tìm cách “lai
hóa”, ‘dân tộc hóa” để trở thành đặc trưng riêng có của họ.
Xu hướng xuất hiện nhiều tôn giáo mới: Theo thống kê sơ bộ, nước ta
có hàng trăm “tạp giáo” lớn nhỏ. Phần lớn các “tạp giáo” này là sự hỗn tạp
của các tôn giáo cũ, và không ít trong các “tạp giáo” đó mang tính phi nhân,
phản văn hoá, tín đồ bị lợi dụng về tình cảm, tiền bạc, gây hậu quả xấu cho
ngời tin theo và cho toàn xã hội.
Xu hướng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tích cực lợi dụng
tôn giáo chống phá cách mạng nước ta: Trong lịch sử, tôn giáo luôn bị kẻ thù
lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch, với chiến lược “diễn biến hoà bình” vẫn đang ráo riết lợi
dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng nước ta. Mặt khác, một bộ phận tín đồ,
chức sắc tôn giáo còn có nhận thức hạn chế, chưa hiểu đúng, đầy đủ về những
quan điểm, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, chưa nhận
rõ nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm của một tín đồ, một công dân của nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa nên đã tin và nghe theo những luận điệu xuyên tạc, bị
kích động, xúi dục viết đơn thư khiếu kiện gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự,

xã hội. Thực tế vấn đề tôn giáo trong lịch sử và hiện nay đã chứng minh điều
đó. Tình hình, đặc điểm tôn giáo Việt Nam là cơ sở thực tiễn quan trọng để
Đảng, Nhà nước ta đề ra và thực hiện chính sách tôn giáo đúng đắn, hiệu quả.
II. QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Quan điểm, chính sách tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong toàn
bộ hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, có ảnh
hưỏng lớn đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hôi. Các quan điểm, chính sách
này được thể hiện trong một chỉnh thể thống nhất giữa các quan điểm của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo. Các bộ phận ấy vừa


14

liên hệ gắn bó khăng khít với nhau, tạo điều kiện, tiền để cho nhau tồn tại,
phát triển vừa mang tính độc lập tương đối, với những thuộc tính đặc thù của
chúng. Trong đó quan điểm về tôn giáo của Đảng là cở sở, nền tảng, quyết
định mục tiêu, phương hướng, nội dung, hình thức của các chính sách, pháp
luật về tôn giáo của Nhà nước, đồng thời, chính sách, pháp luật về tôn giáo
của Nhà nước lại là công cụ, phương tiện quan trọng nhất để thể chế hoá, hiện
thực hoá các quan điểm về tôn giáo của Đảng trong thực tiễn. Mặt khác, quan
điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước như kết quả
của quá trình vận động, phát triển không ngừng.
1. Cơ sở của quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo.
Quan điểm, chính sách của Đang, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là
kết quả tổng hợp của cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, cả các
hoạt động nghiên cứu nhận thức, vận dụng, phát triển lý luận và hoạt động
lãnh đạo, chỉ đạo. Do vậy, muốn nhận thức đúng đắn, hiểu sâu sắc quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo, trước hết cần nhận

rõ những cơ sở ly luận và thực tiễn của những quan điểm, chính sách đó.
1.1. Quan điểm khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở ly luận căn bản để Đảng, Nhà nước Việt Nam
xây dưng các quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo.
Các Nhà kinh điển Mác – Lênin không viết những tác phẩm chuyên
biệt bàn về vấn đề tôn giáo. Nhưng qua toàn bộ bác tác phẩm của mình,
nhất là các tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen - Lời nói đầu”, “Về vấn đề Do Thái, Luận cương về Phoiơbắc” của
C.Mác, “Chống Đuyrinh, Lút vích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức” của Ph. Ăngghen, “Chủ nghĩa xã hội và tôn giáo”; “Thái độ
của đảng công nhân đôì với tôn giáo”; “Chủ nghĩa duy vật chiến đấu” của
V.I.Lênin, các ông đã thể hiện sự hơn hẳn so với các nhà tư tưởng khác
trong lịch sử khi luận giải một cách cơ bản, toàn diện, hệ thống và rất đúng
đắn khoa học về nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trò và các mối quan
hệ của tôn giáo với các hiện tượng xã hội khác. Từ quan điểm đuy vật về


15

lịch sử, C. Mác đã khẳng định: chính “… con người sáng tạo ra tôn giáo,
chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người” [2, 569]. Cho nên, tồn giáo là
một hiện tượng lịch sử, nó chỉ xuất hiện và tồn tại trong một giai đoạn nhất
định, gắn với những điểu kiện kinh tế, xã hội, nhận thức và tâm lý và nhất
định nó sẽ mất đi khi các điều kiện đó không còn.
Trên cơ sỏ nguồn gốc của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
đúng đắn bản chất, chức năng và vai trò của tôn giáo trong lịch sử. Từ quan
niệm bản chất của tôn giáo là sự phản ánh hự ảo thế giới khách quan vào
trong đầu óc những con người chưa tìm thấy mình hoặc tự đánh mất mình
một lần nữa, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra một cách toàn diện các chức
năng của tôn giáo, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tính phức tạp của chức năng

đền bù “hư ảo” của tôn giáo. “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [ 1 ,570]
“Tôn giáo là thứ rượu tinh thần, làm cho những người nô lệ của tư bản mất
phẩm cách con người” [11, 170]
Một trong những bộ phận quan trọng nhất trong tư tưỏng các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là việc khẳng định tính tất yếu và chỉ ra
con đường, biện pháp đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tín
ngưõng, tôn giáo một cách khoa học và cách mạng. Từ thực tiễn lịch sử và trên cơ
sở luận giải bản chất, chức năng, vai trò của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đi
đến kết luận: Con người không có một lối thoát nào khác... là khắc phục một cách
căn bản tất cả mọi quan niệm tôn giáo và quay trở về một cách kiên quyết, thành
thực không phải với Thượng đế mà với bản chất của mình. Nhưng C.Mác và
Ph.Ẳngghen, V.I.Lênin lại kiên quyết đấu tranh với những quần điểm cực đoan,
siêu hình muốn tuyên chiến với tôn giáo, dùng bạo lực hành chính để xoá bỏ tôn
giáo. Các ông luôn luồn đòi hỏi những người cộng sản phải thật sự “bình tĩnh,
kiên trì và nhẫn nại” trong cuộc đấu tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của tín
ngưỡng, tôn giáo phải gắn cuộc đấu tranh chống những ảnh hưởng tiêu cực của
tôn giáo với cuộc đấu tranh giai cấp và không bao giờ được đưa vấn đề tôn giáo
lên hàng đầu của cuộc đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh chống những ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo, V.I.Lênin đòi hỏi phải tuyên truyền tư tưởng đoàn kết và
đưa khoa học vào trong cuộc đấu tranh ấy.


16

Những quan điểm tư tưởng trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về tín
ngưỡng, tôn giáo đã, đang và sẽ luôn là cơ sở nền tảng cho Đảng, Nhà nước ta
nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nên hệ thống quan điểm về tôn

giáo rất độc đáo và sáng tạo, góp phần to lớn vào thắng lợi của công tác tôn
giáo nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem
xét rất toàn diện, lịch sử cụ thể vấn đề tôn giáo, tin ngưỡng, Tôn giáo được
Người xem xét dưới cả góc độ: văn hóa, triết học và đạo đức. Người viết: Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài ngưòi mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo... Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Và tuy tôn giáo là duy tâm,
cộng sản là duy vật; nhưng theo Người, trong đạo đức tôn giáo “Cái gì tốt thì
ta nên khôi phục và phát triển, còn cái gì xấu, thì ta phải bỏ đi” [ 11, 557]
Đồng thời Người rất tôn trọng, khâm phục tinh thần hy sinh cao cả của
những ngưòi sáng lập ra Kitô giáo và Phật giáo. Người viết: Phật, Chúa tròi,
Khổng tử là những vị chí tôn, Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ cứu nạn
muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn. Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác
ma, Chúa Cơ đốc hy sinh để cứu loài người khỏi ách nô lệ và đưa loài người
về hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, tự do. Người mạnh dạn dự đoán: “Nếu đức
Chúa Giêsu sinh ra vào thời đại của chúng ta và phải đặt mình trước nỗi khổ
đau của người, đương thời, chắc ngài sẽ là một người xã hội chủ nghĩa đi tìm
con đường cứu khổ cho loài người” [11, 405].
Một trong những tư tưỏng đặc sắc và một đóng góp to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là
đã xác định: Mục đích cao nhất, nội dung xuyên suốt của công tác tôn giáo là
giữ vững tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo, đoàn
kết giữa đồng hào các tôn giáo khác nhau, làm cho “Nước vinh đạo sáng”, “Tốt
đời, đẹp đạo”, góp phần ngày càng to lớn vào kháng chiến, kiến quốc. Cho nên,
ngay cả những lúc vận mệnh của cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”,


17

Người vẫn xác định một trong sau nhiệm vụ cấp bách đầu tiên mà Chỉnh phủ

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thực hiện là: Tín ngưỡng tự do, lương giáo
đoàn kết. Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương, giáo, Người
đã chỉ ra sự đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những
người sáng lập tôn giáo. Nay đồng bào ta... kháng chiến để cứu quốc dân ra
khỏi khổ nạn... là chúng ta làm theo lòng đại từ, đại bi của đức Phật Thích Ca.
Những việc Chính phủ và nhân dân ta làm, đều hợp với tinh thần Phúc âm. Từ
đó đã cùng Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân ta làm hết sức mình, kể cả hy
sinh xương máu để giữ gìn sự đoàn kết đó; đồng thòi phê phán sâu sắc cách
nhìn thiển cận trong xây dựng khối đoàn kết lương, giáo.
Như vậy, nhờ quán triệt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng sự thấu hiểu sâu sắc lịch sử, văn
hóa xã hội và con người Việt Nam đã giúp Hồ Chí Minh sáng tạo nên những
tư tưởng vô cùng độc đáo về tôn giáo, mang đậm phong cách, bản sắc Việt
Nam, phù hợp với cách nghĩ, cách làm của toàn thể dân tộc Việt Nam và
trong đó có đồng bào có đạo. Cho nên, những quan điểm, chính sách độc đáo
về tôn giáo ấy, sẽ mãi mãi là nền tảng tư tưỏng để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục
nhận thức đúng đắn và xử lý sáng tạo vấn đề tôn giáo trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện hay.
1.2. Từ thực tế kết quả giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo của
một số nước trên thế giới và của các triều đại phong kiến Việt Nam là cơ sở
quan trọng để Đảng, Nhà nước ta nghiên cứu rút kinh nghiệm trong quá
trình xây dưng, thực thi các quan điểm, chính sách về tín ngưởng, tôn giáo.
Nhận thức và giải quyết vấn đề tôn giáo đã được đặt ra từ lâu trong lịch
sử ở từng quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Tùy theo lập trường, quan điểm
và chế độ chính trị khác nhau, mà các nhà nước có sự nhìn nhận, giải quyết
vấn đề tôn giáo không giống nhau.
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, cũng mắc những sai
lầm, khuyết điểm không nhỏ khi xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề này. Điển hình là Hiến pháp Liên Xô năm 1936, trong
khi khẳng định: “quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng”, lại đồng thời khẳng định



18

“quyền tự do chống tôn giáo”. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, đưa đến sự
chia rẽ các lực lượng cách mạng, tạo điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng
lôi kéo quần chúng nhân dân, gây khủng hoảng chính trị, xã hội, một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp để chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước này.
Ở Trung Quốc, trong gần hai mươi năm từ năm 1957 đến năm 1976,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo đã bị hiểu hoàn toàn sai lạc
“... tôn giáo bị coi là một loại hình thái ý thức phản động, công cụ của giai cấp
bóc lột... và nhiệm vụ căn bản của công tác tôn giáo là nhanh chóng xóa bỏ
tôn giáo” [ 12, 294]. Trong Đại cách mạng văn hóa, mọi hoạt động tôn giáo
chính đáng của quần chúng bị đình chỉ hoặc trở thành đối tượng bị đả kích,
bức hại hoặc bị đưa đi lao động, hoàn tục; nhiều cơ sở hoạt động tôn giáo bị
đóng cửa hoặc sử dụng vào mục đích khác. Sai lầm đó làm cho Trung Quốc
phải trả giá hết sức nặng nề.
Ở khu vực Đông Nam Á, các nước Inđônêxia, Philippin, Malaixia với
chủ trương “cầu đồng tôn dị”, mong muốn sự đồng thuận và tôn trọng sự khác
biệt giữa các tôn giáo, nên tuy là những quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng
nhưng cơ bản các quốc gia này vẫn giữ được an ninh tôn giáo, góp phần vào
sự ổn định chính trị của đất nước. Tuy nhiên, với chủ trương lấy Phật giáo
làm quốc giáo và chỉ ưu tiên phát triển Phật giáo; hạn chế o ép sự tồn tại phát
triển của cốc tôn giáo khác, trọng đó có Hồi giáo, Thái Lan đã phải trả giá đắt
bằng cuộc cuộc xung đột đẫm máu, mang màu sắc khủng bố của các tín đồ
đạo Hồi ở đây gây ra ở miền Nam Thái Lan.
Vốn là quốc gia đa tôn giáo, từ lâu tôn giáo đã trở thành vấn đề được
các triều đại phong kiến Việt Nam hết sức quan tâm. Với tư duy mềm dẻo, lại
luôn luôn phải lãnh đạo nhân dân chống các thế lực xâm lược hùng mạnh, nên
phần lớn các nhà nước phong kiến Việt Nam đều nhận thức sâu sắc rằng, vấn

để bức xúc của dân tộc này, đất nước này không phải là vấn đề tôn giáo, mà là
vấn đề bảo vệ nền độc lập dân tộc và tôn giáo không đơn thuần là vấn đề tư
tưởng, tín ngưỡng, tâm linh của mỗi cá nhân, mà là vấn đề lực lượng, vấn đề
đoàn kết dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược. Vì thế, về cơ bản các nhà


19

nước phong kiến Việt Nam đều giải quyết đúng đắn vấn đề tôn giáo, góp phần
quan trọng giữ cho đất nước vững bền và phát triển.
Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận sai lầm tệ hại của các triều
đại nhà Nguyễn trong nhận thức giải quyết vấn để tôn giáo nói chung và vấn đề
Công giáo nói riêng. Vì nhiều lý do, có thời điểm nhà Nguyễn đã đồng nhất
giáo dân với kẻ thù dân tộc; Chủ trương “giết dân theo đạo Thiên Chúa để trừ
bè đảng của Pháp...”, nhà Nguyễn đã vô tình đẩy hàng triệu người dân vô tội
vào thế đối lập với triều đình, đẩy nhiều nhà tu hành, linh mục, tín đồ tôn giáo
tham gia các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, tạo thêm cả thế và lực cho
thực dân Pháp tăng cường chiến tranh xâm lược nước ta, đưa cả dân tộc ta lâm
vào cảnh nước mất, nhà tan, sống nô lệ lầm than hơn 80 năm trường.
Những bài học thành công và thất bại trên đây của các nước trên thế
giới và của các triểu đại phong kiến Việt Nam sẽ là những kinh nghiệm quý
báu giúp Đảng, Nhà nước ta nhận thức xử lý vấn đề tôn giáo một cách đứng
đắn hơn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam vừa là cơ sở, vừa là
mục tiêu của quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà
nước Việt Nam.
V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, không được đặt vấn đề tôn giáo một cách trừu
tượng, mà nhận thức, xử lý vấn đề tôn giáo phải gắn với đấu tranh giai cấp,
với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Điều đó có nghĩa: quan điểm, chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam phải dựa trên yêu cầu, nhiệm và phải

đáp ứng yêu cầu của cách mạng góp phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam. Khi tinh hình, nhiệm vụ cách mạng đã thay đổi, thì
quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước cũng phải
nhận thức và điều chỉnh theo cho phù hợp.
Nhận thức rõ yêu cầu này, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc bám sát tình hình cách mạng Việt
Nam, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là vấn đề
có tính nguyên tắc của quá trình xây dựng, hoàn thiện quan điểm, chính sách
tín ngưỡng, tôn giáo của mình. Nhờ quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc


20

nguyên tắc đó, nên trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc
Cách mạng Tháng Tám và tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã góp phần tổ chức động viên đồng bào
có đạo ở cả hai miền Nam - Bắc, tích cực tham gia, ủng hộ kháng chiến, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã có những những quan
điểm, chính sách thể hiện rõ những nhận thức mới của mình về tín ngưỡng,
tôn giáo nhằm giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện thuận lợi
góp phần thực hiện thắng nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Ngoài những cơ sở trên, tình hình, đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam như
phần thứ nhất đã luận giải cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng của quan điểm,
chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
2. Sự phát triển trong quan điểm, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
của Đảng, Nhà nước Việt Nam
2.1 Quan điểm, chủ trương về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà

nước Việt Nam
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ cách mạng, trong công
cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về tín ngưỡng, tôn giáo
và công tác tôn giáo. Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính
trị khóa VI “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” đã nêu hai
luận điểm mang tính đột phá: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân” và “Tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với
chế độ mới”. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Đảng ta đã thông qua
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác tôn giáo”. Đại hội XI
của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc,
tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng


21

và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt
theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận,
đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu
tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [ 8 , 245]
Tất cả các chỉ thị, nghị quyết, pháp lệnh nêu trên đều thể hiện nhất quán
một số quan điểm và chính sách sau đây:
* Về phương hướng: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn mới phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh.
* Về quan điểm, chính sách
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo
bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo
là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo
tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích
cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc
và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia
rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia.


22

Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng.
Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp
chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền,
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào

nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó
có đồng bào các tôn giáo.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của
các tôn giáo, phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Vì vậy,
công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
nhiều cấp, nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo
là lực lượng tham mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần
được củng cố, kiện toàn, nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng
bào tôn giáo. Công tác tôn giáo thực chất là công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành,
xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo,.. của
mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo,


23

hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm
cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái

phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, quan điểm, chính sách của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất
quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào
có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hoà bình” vô
cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách
tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.
2. Nhân thức mới trong quan điểm, chính sách của Đảng ta về tôn
giáo trong thời kỳ đổi mới.
2.1. Thừa nhận tính tất yếu và khả năng tồn tại lâu
dài của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển nhận thức mang tính đột phá về tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu
bước khởi đầu sự nghiệp đổi mối toàn diện đất nước, nhưng do nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân là: “So với đổi mới tư duy kinh tế, việc đổi mới
tư duy về các vấn để văn hoá và xã hội, về cơ chế quản lý văn hoá, xã hội... còn
chậm” [7, 114], nên mãi tới năm 1990 chúng ta mới có Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Ghính trị về tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới. Nghị quyết có nhiều nội dung, một trong những nội dung đó
là việc Đảng ta khẳng định: “Tôn giáo là vấn để còn tồn tại lâu dài. Tín ngưởng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Sau 13 năm thực hiện,
kế thừa tinh thần ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá IX khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta”. [ 6, 48] . Quan điểm trên chỉ rõ trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta việc tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo là một thực tế



24

khách quan. Nó là nhu cầu tinh thần phức tạp, tồn tại thật trong một bộ phận
quần chúng nhân dân. Tôn trọng và đáp ứng nhu cầu này là tôn trọng quyền con
người là tạo nên động lực của một bộ phận nhân dân, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trinh xây dựng chủ nghĩa xã hội là một đột
phá lốn trong nhận thức về tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Nó góp phần đấu tranh khắc phục tư tưởng coi tôn giáo chỉ như một hiện tượng
tàn dư, còn rơi rớt lại từ các xã hội cũ, cần nhanh chóng loại bỏ càng sớm càng tốt,
hoặc quan niệm coi tôn giáo là sản phẩm chủ yếu từ các hoạt động chống phá của
kẻ thù, dẫn đến nóng vội chủ quan duy tâm, duy ý chí trong công tác tôn giáo của
không ít cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây sẽ là cơ sở nền tảng để hình thành, phát
triển các quan điểm, giải pháp mới về tôn giáo vầ công tác tôn giáo.
2.2. Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xem xét, đánh giá tín
ngưỡng, tôn giáo toàn diện, lích sử, cụ thể hơn.
Xem xét tôn giáo một cách toàn diện, trong mối quan hệ phong phú đa
dạng của nó với các lĩnh vực khác của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội làm cơ sở xác định quan điểm, chính sách đối với tôn giáo là một truyền
thống của Đảng, Nhà nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta tiếp
tục coi trọng xem xét, đánh giá tôn giáo trong sự thống nhất biện chứng giữa
ý thức tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo. Bằng tổ chức,
hoạt động tôn giáo và thông qua tổ chức, hoạt động tôn giáo mà sức mạnh và
vai trò của tôn giáo đối với xã hội và con người được thực hiện. Vì thế, các
“hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phù hợp với
truyền thông, bản sắc văn hoá dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường”[ 10, 14]
và có mục tiêu, phương hướng, “...nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các
tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [6, 48]. Đồng thời khẳng định
Mọi hoạt động tôn giáo xa rời hoặc trái với mục tiêu, phương hướng ấy cần


25

được đấu tranh, phê phán, thậm chí phải kiên quyết “đình chỉ”. Đây là một
căn cứ cơ bản để xây dựng các văn bản pháp luật quản lý, điều chỉnh các hoạt
động tôn giáo và là tiêu chí quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động của công
tác tôn giáo trong thời kỳ mới. Cho nên, có thể coi đây là một trong những nội
dung quan trọng nhất, thể hiện sự đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta về
tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Đảng, Nhà nước ta từng bước khẳng định những "hạt" tích cực
trong đạo đức, văn hoá, cộng đồng tôn giáo và tạo điều kiện giữ gìn, phát
huy những giá trị tích cực ấy vào xây dưng xã hội mới.
Nhận thức sâu sắc vấn đề trên, trong Nghị quyết số 24/NQ- TW của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, Đảng ta đã nhận định: “Đạo
đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [6,
tr. 45-46]. Và tiếp theo các kỳ Đại hội, cho đến Đại hội X và Đại hội XI,
Đảng ta chỉ rõ: “Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những
người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo”,
“Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo” [ 8, 245],
đến Đại hội XII Đảng ta tiếp tục khẳng định : Xây dựng nếp sống văn hoá tiến
bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá”. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá
giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát
huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng.
Quan điểm trên đây của Đảng ta là nguồn động lực to lớn, tạo nên niềm

phấn khởi, cổ vũ đồng bào các tôn giáo, nhất là các tín đồ, chức sắc tiến bộ,
tích cực tham gia vào phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các cộng đồng
tôn giáo ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, “sống tốt đời, đẹp đạo”.
2.4. Trong thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta xác định: Nội dung cốt
lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Cái mới trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo
trong thời kỳ mới, chính là việc nhấn mạnh vị trí, vai trò “cốt lõi” của công


×