Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Bản thu hoạch Quá trình hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.04 KB, 7 trang )

Nhóm 3:
1.Vũ Thị Lan Anh
2.Trương Thị Minh Hằng
3.Nguyễn Minh Hương
4.Thân Thị Minh Nguyệt
5.Nguyễn Huyền Trang

Bản thu hoạch
Quá trình hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam
I, Định nghĩa
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức sản xuất xã hội dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động
làm thuê và ra đời thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến.
II, Điều kiện ra đời của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
-Người lao động được tự do về thân thể và bị tước hết tư liệu sản xuất vì vậy
muốn duy trì cuộc sống thì phải bán sức lao động làm thuê, sức lao động trở thành
hàng hoá.
-Phải có một lượng tiền của, tài sản đủ lớn tập trung vào tay một số ít người để
lập ra xí nghiệp và thuê nhân công.
**) Hai điều kiện trên ra đời dưới tác động của các nhân tố sau:


+ Qui luật giá trị (là phân hoá và thực hiện sự lựa chọn tự nhiên giữa những
người sản xuất. Trong môi trường cạnh tranh, để giành những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, người nào có điều kiện sản xuất thuận lợi ( kỹ
thuật sản xuất hiện đại, quy mô lớn…) chi phí sản xuất thấp thu nhiều lợi nhuận,
tiếp tục mở rộng sản xuất và tiếp tục phát tài. Ngược lại, người nào có điều kiện
bất lợi, chi phí sản xuất cao, thua lỗ dẫn đến phá sản.Tình hình trên dẫn đến một
sự phân hoá trong xã hội, một số ít người giàu lên, trở thành ông chủ, ngược lại số
đông bị phá sản rơi vào điều kiện làm thuê.Cuối cùng dẫn đến sự ra đời của


phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Tuy nhiên quá trình này diễn ra tuần tự và
chậm chạp.)
+ Tích luỹ nguyên thuỷ bằng bạo lực tước đoạt để thúc đẩy nhanh sự ra đời
của chủ nghĩa tư bản.
III, Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ( 1858-1945)


Vào cuối thời kỳ phong kiến những mầm mống của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Pháp thuộc thì phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới hình thành rõ ràng và bùng lên mạnh mẽ.
Nguyên nhân
+) Triều đình nhà Nguyễn đã kìm hãm, trói buộc mầm mống tư bản chủ nghĩa
bằng các chính sách “ bế quan toả cảng” , “thắt chặt công thương” để bảo vệ cho
lợi ích của giai cấp phong kiến.
+) Khi Pháp sang xâm lược nước ta, Pháp là một nước tư bản chủ nghĩa hơn
200 năm. Nên Pháp đã mang phương thức sản xuất này áp dụng vào Việt Nam.
+) Bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mới, tiến bộ hơn phương
thức sản xuất phong kiến.Tư bản chủ nghĩa giúp Pháp khai thác tốt hơn các tiềm
năng từ thuộc địa.




Trong thời kì Pháp thuộc, các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện ở hầu
hết các lĩnh vực kinh tế.
1. Trong nông nghiệp:
Trong hơn 1,2 triệu ha diện tích ruộng đất chiếm đoạt, thực dân Pháp đã thành
lập các đồn điền trồng lúa, đồn điền trồng cây công nghiệp, đồn điền trồng 1 số
cây như: bông dừa, hồ tiêu… còn lại là dùng cho khai thác gỗ xuất khẩu. Một số
loại cây có giá trị kinh tế cao cũng được vào nước ta: cà phê, cao su ...

Vì lợi ích của Pháp, chính phủ thuộc địa đã đầu tư vào xây dựng 1 số
công trình thủy lợi, mở mang đường xá, xây dựng hệ thống kênh tiêu nước, công
trình tưới nước….
Góp phần mở rộng diện tích canh tác và tăng năng suất cây trồng
Tuy có 1 số biến chuyển trong nông nghiệp: xác lập 1 số cơ sở kinh




doanh tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, xây dựng cơ sở thủy lợi, sử dụng phân
bón thâm canh… song điều này là để khai thác thuộc địa có hiệu quả hơn, đem lại
lợi nhuận lớn cho tư bản Pháp.


Sự gia tăng các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu mà trước hết là lúa gạo
và ngô một mặt góp phần đẩy mạnh sản xuất phát triển, mặt khác chứng tỏ nền
nông nghiệp Việt Nam đã dần dần thoát khỏi tính chất tự cung tự cấp để chuyển
sang thời kỳ sản xuất có tính chất hàng hóa.
2. Công nghiệp và thủ công nghiệp
a. Công nghiệp
-Những phương thức kinh doanh mới đã xuất hiện, các công ty do giai cấp tư
sản lãnh đạo, hình thức công xưởng nhà máy tư bản chủ nghĩa lần đầu tiên xuất
hiện ở nước ta trong thời kỳ Pháp thuộc


Sự xuất hiện những nhân tố mới trong nền công nghiệp nước ta: kỹ

thuật và sản phẩm công nghiệp mới, góp phần làm tăng năng lực sản xuất công
nghiệp ở Việt Nam.





Hình thành giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công nghiệp Việm

Nam.
- Sau chiến tranh Thế giới I, hoạt động kinh doanh của tư sản VN nói chung và
trong lĩnh vực công nghiệp nói riêng được mở rộng và có quy mô lớn hơn trước
song vẫn rất nhỏ yếu. Cho đến những năm 40, tổng số vốn của các doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam chỉ chiếm 1% tổng số vốn và sử dụng 9% tổng số lao động làm
thuê trong công nghiệp. Sản xuất của họ chủ yếu dựa trên kỹ thuật lạc hậu và
nguyên liệu trong nước, phục vụ chủ yếu cho thị trường nội địa.
b. Thủ công nghiệp
Bên cạnh các xưởng thủ công do Nhà nước quản lý, một số xưởng thủ công tư
nhân cũng có những biến động. Do tác động của chính sách vơ vét và xuất cảng
lúa gạo của tư bản Pháp nên các cơ sở chế biến gạo, nhất là ở Nam kỳ có cơ hội
phát triển mạnh. Những xưởng thủ công có quy mô lớn và có tính chất tiền tư bản
chủ nghĩa chưa xuất hiện.


Sự xâm nhập của công nghiệp tư bản Pháp đem lại lợi nhuận lớn cho các nhà

tư bản Pháp. Tuy nhiên nó cũng góp phần làm tăng năng lực sản xuất công nghiệp
ở Việt Nam và thúc đẩy sự hình thành khu vực sản xuất công nghiệp của tư bản
Việt Nam. Còn mặt trái của quá trình đó là sự độc quyền của Pháp đã chèn ép sự
phát triển của công nghiệp và thủ công nghiệp dân tộc, làm nhiều ngành bị phá sản
hoặc không phát triển mạnh mẽ được.
3. Giao thông vận tải:
Việc xây dựng đường giao thông được người Pháp coi như 1 điều không thể
thiếu để khai thác nguồn tài nguyên 1 cách quy mô và hiệu quả ở thuộc địa. Vì

vậy, Pháp đã xây dựng 1 loạt hệ thống giao thông vận tải như: đường thủy , đường
bộ, đường sắt, hệ thống hàng không, …
-> Là sự trợ giúp đắc lực cho công cuộc khai thác thuộc địa, phục vụ mục
đích chính trị, kinh tế và quân sự của Thực dân Pháp, chứ không phục vụ lợi ích
của nhân dân Việt Nam.
4. Thương nghiệp:


- Ngoại thương, nội thương: Thực dân Pháp nắm độc quyền, các công ty lớn
cũng do Pháp nắm giữ. Thực dân Pháp độc quyền kinh doanh thuốc phiện, rượu,
muối.
-> Sự xuất hiện những yếu tố của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng
đã làm cho nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể. Nền kinh tế
nông nghiệp mang tính chất tự cung tự cấp đã chuyển dần sang nền kinh tế hàng
hóa mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Nó chứng tỏ thời Pháp thuộc, quan hệ buôn
bán trao đổi có điều kiện phát triển mạnh.
- Trong thời kỳ này cũng đã có nhiều tư sản Việt Nam bỏ vốn kinh doanh
thương nghiệp, cả nội và ngoại thương. Nhưng do thế lực yếu về kinh tế, tư sản
Việt Nam không thể cạnh tranh được với tư bản Pháp hoặc người Hoa trên thị
trường. Do đó, nhiều nhà tư sản VN đã tìm hướng kinh doanh khác như chuyển
sang làm thầu khoán, cho vay lấy lãi hoặc chuyển tiền về mua ruộng đất để phát
canh thu tô. Người Việt Nam chỉ buôn bán nhỏ, phụ thuộc vào Pháp.
- Có xuất hiện một số ngân hàng ngoài chức năng phát hành tiền còn có chức
năng kinh doanh lấy lãi đây là một hình thức dich vụ bậc cao.
IV. Một số vấn đề liên quan
1. Sự ảnh hưởng của chế độ phong kiến tới sự phát triển của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hai phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phong kiến song song cùng tồn
tại trong lòng xã hội Việt Nam đã có những tác động lẫn nhau.
- Phương thức sản xuất phong kiến dần tan rã là 1 điều kiện để phương thức

sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời. Nhưng nó lại song song cùng tồn tại với phương
thức sản xuất mới, điều này đã kìm hãm sự phát triển nhanh chóng của phương
thức sản xuất tiến bộ trên đất nước ta. Xã hội phong kiến với những chính sách lạc
hậu của triều đình nhà Nguyễn như: “bế quan toả cảng”, “thắt chặt công thương”,
đã làm cho nền kinh tế không có được những thay đổi cần thiết để phát triển và
tránh khỏi nguy cơ bị xâm lược.


- Thực dân Pháp cũng không xoá bỏ chế độ phong kiến mà duy trì và lợi dụng
nó để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của mình. Vì vậy sự ra đời của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không dựa trên sự tiêu diệt chế độ phong
kiến. Ngược lại, quan hệ phong kiến đã được duy trì và củng cố cho nên đã làm
chậm lại sự phát triển về kinh tế và xã hội nước ta.
2. Sự ảnh hưởng của phương thức sản xuất mới tới tài chính và tiền tệ
Phương thức sản xuất tiến bộ đã có những ảnh hưởng tích cực tới nền tài
chính của đất nước:
+) Để phục vụ cho sự thống trị và khai thác thuộc địa, Thực dân Pháp đã
thành lập 1 hệ thống ngân sách, từ ngân sách Đông Dương tới ngân sách các xứ,
các tỉnh thành, làng xã.
+) Pháp còn phát hành công trái và sổ số.
+) Năm 1875, thực dân Pháp thành lập ngân hàng Đông Dương. Ngân
hàng này đã phát hành đồng tiền Đông Dương, dùng làm đơn vị tiền tệ chính thức
và duy nhất ở Đông Dương. Đến 1895 thì đồng tiền này đã thống trị toàn Việt
Nam.
+) Ngân hàng Đông Dương ngoài chức năng phát hành tiền còn làm
chức năng cho vay lấy lãi. Đây là 1 loại hình dịch vụ mới ở nước ta.
+) Đồng tiền đúc bằng đồng và kẽm của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục được
duy trì, nhưng vị thế của nó đã suy yếu và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế là
rất nhỏ bé.



Như vậy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phần nào ảnh hưởng

tích cực tới sự phát triển của nền tài chính nước ta. Nó đã mang đến những loại
hình dịch vụ mới, đồng tiền chung.
V. Kết luận.
Tóm lại quá trình hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam diễn ra:
1. Hoàn cảnh


Dưới thời Thực dân Pháp thống trị nền kinh tế nước ta mất dần tính chất phong
kiến thuần tuý trở thành nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến, trong đó kinh tế đế
quốc chiếm vị trí thống trị, kinh tế tự cấp tự cung bị thu hẹp, sản xuất hàng hoá
phát triển nhưng quan hệ sản xuất phong kiến vẫn duy trì và tồn tại phổ biến. Các
chính sách đó đã tạo điều kiện để tư bản Pháp xâm nhập, tạo hình thức sở hữu tư
nhân tư bản, trước hết là của người Pháp do đó đã thúc đẩy sự phát triển của quan
hệ sản xuất tư bản ở Việt Nam.
2. Tính chất


Quan hệ sản xuất tư bản gắn với sự thống trị và độc quyền của Thực dân

Pháp đã không xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến mà hoà trộn, đan xen, trùm lên
các quan hệ phong kiến.


Thực dân Pháp đã duy trì và cấu kết với các tầng lớp phong kiến để kinh

doanh và bóc lột. Sự kết hợp lối cướp bóc đế quốc với hình thức bóc lột phong

kiến đối với người lao động là 1 đặc điểm của phương pháp bóc lột thuộc địa, đảm
bảo lợi ích lũng đoạn cho tư bản tài chính đế quốc.


Quá trình Pháp đô hộ Việt Nam đã thúc đẩy, rút gọn thời kỳ thai nghén và ra

đời của thành phần kinh tế tư bản tư nhân và giai cấp tư sản Việt Nam.


Nhưng ngay từ khi mới hình thành, giai cấp tư sản nước ta đã bị Pháp cạnh

tranh, chèn ép và chỉ có thể hoạt động được trong những khe hở của chủ nghĩa tư
bản độc quyền ngoại quốc.


Tiềm lực kinh tế của giai cấp tư sản Việt Nam còn rất nhỏ.

THE END



×