Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh ngân hàng phát triển Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.89 KB, 115 trang )

Header Page 1 of 145.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

CHUYÊN NGÀNH

QUẢN TRỊ KINH DOANH

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
QUẢN TRỊ KINH DOANH

KHOÁ 2010

PHÚ THỌ - 2013
Footer Page 1 of 145.


Header Page 2 of 145.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI


--------------------------------------NGUYỄN MẠNH CƯỜNG

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN LONG

PHÚ THỌ - 2013

Footer Page 2 of 145.


Header Page 3 of 145.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngân hàng phát triển Việt Nam (Tên giao dịch là The Vietnam Development
Bank - VDB) được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày
19/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển để
thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT), Tín dụng Xuất khẩu của
Nhà nước và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2006. Sự chuyển đổi mô hình
và tính chất hoạt động phù hợp với quá trình phát triển, hội nhâp của nền kinh tế đất
nước vào kinh tế thế giới trong tình hình mới.
Chi nhánh NHPT Phú Thọ - đơn vị trực thuộc Ngân hàng phát triển Việt Nam

(NHPT) là một trong những trung gian tài chính, kênh dẫn vốn lớn thực hiện huy
động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín
dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng bền vững và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý. Hoạt động tín dụng
Ngân hàng nói chung tiềm ẩn rủi ro, luôn đòi hỏi phải nâng cao chất lượng trong
hoạt động của mình, đối với Chi nhánh NHPT Phú Thọ không nằm ngoài xu thế đó
và thực tế trong thời gian qua đã xuất hiện những khoản nợ vay khó đòi, một phần
xuất phát từ đặc trưng của bản thân NHPT là thực hiện chính sách tín dụng của Nhà
nước đầu tư vào những lĩnh vực, những ngành nghề khó khăn mà các NHTM ít
quan tâm vì các lĩnh vực, ngành nghề này tạo ra ít lợi nhuận nhưng lại chứa đựng
nhiều rủi ro, điều này đòi hỏi Chi nhánh NHPT Phú Thọ, NHPT Việt Nam luôn
luôn phải nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Cùng với đó
môi trường kinh doanh biến động, đặc biệt là thời điểm hiện nay nền kinh tế bất ổn,
dấu hiệu phục hồi chậm và Chính phủ tiếp tục đề ra các giải pháp để ổn định nền
kinh tế vĩ mô, các quy định, chế độ của Ngân hàng phát triển từ khi thành lập cơ
bản đã ban hành đầy đủ, tuy nhiên trong quá trình thực hiện cần hoàn thiện hơn ...

Footer Page 3 of 145.

1


Header Page 4 of 145.

nên phần nào cũng ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) và
tín dụng xuất khẩu (XK) của Nhà nước.
Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ
đã đạt được những thành công nhất định đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh
tế của đất nước và địa phương. Bên cạnh đó chất lượng hoạt động cho vay đầu tư
(các dự án đầu tư trong nước) cũng đã bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng tới sự an

toàn và phát triển bền vững của hệ thống NHPT. Hiện nay tình hình nợ quá hạn, lãi
phải thu chưa thu được của hoạt động cho vay đầu tư đang có xu hướng gia tăng về
số lượng dự án và trong từng dự án. Tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng nợ quá
hạn đang có xu hướng tăng tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ để đề xuất những giải
pháp thiết thực, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đầu tư
phát triển là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Là cán bộ tín dụng với những kiến thức
được học tập cùng kinh nghiệm thực tiễn, tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao
chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ”
làm đề tài luận văn thạc sỹ với mục tiêu đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động
cho vay đầu tư trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng của công tác này tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và ý nghĩa của
nó đối với sự phát triển kinh tế đất nước.
Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân hoạt động tín dụng đầu tư phát
triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Hoạt động Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú
Thọ. Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại
Chi nhánh NHPT Phú Thọ từ khi đi vào hoạt động (01/07/2006) đến hết năm 2012.

Footer Page 4 of 145.

2


Header Page 5 of 145.


4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận cơ bản dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện
chứng kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để làm rõ
thực trạng chất lượng hoạt động cho vay đầu tư tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ đồng
thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp phù hợp.
5. Kết cấu của luận văn.
Kết cấu luận văn bao gồm 03 phần chính, bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại
Chi nhánh NHPT Phú Thọ.
Chương III: Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ.

Footer Page 5 of 145.

3


Header Page 6 of 145.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC

1.1 Các quan điểm về đầu tư phát triển.
1.1.1 Trường phái Keynes và các nhà kinh tế học Mỹ.
John May nard Keynes (1884 - 1946) [28] là nhà kinh tế học người Anh, giáo
sư trường đại học Cambridge, một nhà hoạt động xã hội, một chuyên gia trong lĩnh
vực tài chính và lưu thông tiền tệ, thống đốc ngân hàng Anh, cố vấn kinh tế Chính
phủ Anh về ngân khố quốc gia, chủ bút tạp chí Nhà kinh tế.
Đầu tư, theo lý thuyết của Keynes là phần tăng thêm giá trị của tư bản trang bị

do kết quả hoạt động sản xuất trong thời kỳ nhất định. Đó là phần thu nhập không
được chi vào việc tiêu dùng. Như vậy, đầu tư là kết quả thái độ chung của các nhà
kinh doanh. Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ đi phần đã hao mòn
trong quá trình sản xuất, còn nếu trừ đi phần đó thì có đầu tư thuần tuý (hoặc đầu tư
ròng). Nói khác đi đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi hao mòn tài sản cố định.
Theo Keynes, đầu tư có ảnh hưởng lớn đến việc làm, giữa đầu tư và thu nhập
có mối quan hệ gắn bó với nhau. Quan hệ giữa tăng thu nhập với gia tăng đầu tư (cụ
thể là sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho thu nhập gia tăng lên bao nhiêu lần) đó là số
nhân đầu tư.
Keynes cho rằng, mỗi sự gia tăng của đầu tư sẽ thu hút thêm công nhân vào
làm việc tức là cầu thêm về lao động, cầu thêm về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng, từ đó làm cho thu nhập của công nhân tăng lên. Thu nhập tăng lên là tiền đề
cho việc gia tăng của đầu tư. Như vậy trong quan hệ đó có tác dụng mang tính dây
truyền: Tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập mới làm tăng đầu tư mới, tăng
đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới (làm phóng đại thu nhập lên nhiều lần).
Keynes cho rằng đầu tư của Chính phủ có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế:
Trước tiên là giải quyết việc làm, đó là đầu tư cho sự phát triển. Keynes khẳng định
cần có Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường (điều này trái ngược với

Footer Page 6 of 145.

4


Header Page 7 of 145.

quan điểm của trường phái của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và tân cổ
điển về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường).
Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân gây thiếu hụt đầu tư Keynes đưa ra
những kiến nghị mà tập trung nhất là sử dụng ngân sách Nhà nước (NSNN) để kích

thích đầu tư tư nhân và bản thân Nhà nước cần chủ động đầu tư (ĐTPT) cụ thể là:
Nhà nước cần thực hiện tăng thêm những đơn đặt hàng đối với các công ty,
trước hết với các công ty lớn về các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất
hàng tiêu dừng... đó là biện pháp tăng đầu tư về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và
cầu về sức lao động.
Tăng cường trợ cấp tài chính tín dụng từ ngân sách để đảm bảo tỷ suất lợi
nhuận và lợi nhuận cho các tổ chức độc quyền, cũng có nghĩa là đảm bảo hiệu quả
đầu tư ở mức độ có lợi cho các doanh nghiệp (DN), nhất là các DN lớn để họ yên
tâm đầu tư. Các biên pháp Nhà nước cần áp dụng đó là giảm lãi suất, thực hiện tín
dụng ưu đãi với những chương trình "trọng điểm" giảm thuế với các DN nhằm
khuyến khích đầu tư.
Thực hiện "lạm phát có mức độ", Ông cho rằng để tăng đầu tư bằng việc giảm
lãi suất cần phải tăng số lượng tiền tệ vào lĩnh vực lưu thông, thực hiện "lạm phát có
mức độ" đó là biện pháp để kích thích thị trường và không có gì nguy hiểm khi nền
kinh tế đạt trạng thái cân bằng ứng với sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm phát
tự động dừng lại.
Cần tăng thuế để điều tiết một phần thu nhập trong dân cư đưa vào ngân sách
để đầu tư, thực hiện phát hành công trái để bổ sung cho ngân sách. Việc tăng thu
của ngân sách sẽ tạo điều kiện tăng chi cho mục đích ĐTPT.
Thực hiện khuyến khích mở rộng các hình thức đầu tư, các lĩnh vực đầu tư.
theo Ông đầu tư vào lĩnh vực nào cũng tốt vì như vậy sẽ giải quyết được việc làm
có thêm thu nhập, chống được khủng khoảng và thất nghiệp.
Bổ sung vào lý thuyết "số nhân" của J.M. Keynes [24], các nhà kinh tế Mỹ
đưa ra lý thuyết "gia tốc" [27]. Lý thuyết này không những nghiên cứu các quyết
định đầu tư, mà còn chứng minh mối liên hệ giữa gia tăng sản lượng làm cho đầu tư

Footer Page 7 of 145.

5



Header Page 8 of 145.

tăng lên và sau đó đầu tư tăng lên sẽ gia tăng sản lượng với nhịp độ nhanh hơn. Sự
tăng nhanh tốc độ đầu tư so vối sự thay đổi về sản lượng nói lên ý nghĩa của nguyên
tắc "gia tốc". Theo lý thuyết "gia tốc", để vốn đầu tư tiếp tục tăng lên thì sản lượng
bán ra phải tăng lên liên tục. Nhưng Lôgích của vấn đề là ở chỗ, số lượng sản phẩm
bán ra ngày hôm nay là kết quả đầu tư của thời kỳ trước, năm trước.
Thực tế của các nưóc Châu Á đã chứng minh lý thuyết trên. Cách đây vài ba
thập kỷ, Châu Á không được biết đến với tư cách là vùng kinh tế có tăng trưởng.
Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật và mở rộng giao lưu quốc tế đã làm thay
đổi dần bộ mặt của các nước và một số lãnh thổ trong vùng. Cơn lốc của sự tăng
trưỏng kinh tế của các nước phát triển đã tràn đến Châu Á để tìm thị trường mới và
từ đó Châu Á bắt đầu được biết đến như một vùng kinh tế mới. Khi nền kinh tế thế
giới dao động ở tốc độ tăng trưởng 3 - 5% mỗi năm thì các nước và các lãnh thổ
đang phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, từ điểm xuất phát
thấp, tài nguyên nghèo nàn, thị trường nội địa nhỏ, đã trở thành những nước và lãnh
thổ công nghiệp mới xuất phát từ nông nghiệp. Đặc trưng của các nơi này là quá
trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, từ nông công nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp.
Sở dĩ đạt được sự phát triển thần kỳ đó vì các nơi này đã khai thác một cách
tối đa lợi thế so sánh. Một chiến lược đầu tư cao được thực hiện trong những năm
đầu công nghiệp hóa, có nơi đạt 40% GDP như Singapore, các nơi khác còn lại trên
30% GDP.
Tóm lại: Có thể nói đầu tư là tổng thể các chi phí phản ảnh quá trình bỏ vốn
vào tái sản xuất mở rộng nó bao gồm đầu tư để phát triển vốn cố định, tăng vốn lưu
động sản xuất và vốn lưu thông. Như vậy bản thân đầu tư đã bao hàm cả sự phát
triển còn ĐTPT chỉ là cụm từ nhằm nhấn mạnh thêm.
1.1.2 Quan điểm của các nhà kinh tế học Việt Nam [14]
- Đầu tư theo nghĩa rộng có thể hiểu là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền,
nguồn lực và công nghệ) để đạt được mục đích (hay mục tiêu) nhất định [29]. Đó có

thể là những mục tiêu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...

Footer Page 8 of 145.

6


Header Page 9 of 145.

- Đầu tư theo nghĩa hẹp:
+ Thứ nhất, có thể hiểu đầu tư là việc đưa một lượng vốn nhất định vào quá
trình hoạt động kinh tế nhằm thu lại được một lượng lớn hơn sau một khoảng thời
gian nhất định. Điều này sẽ giúp chúng ta phân biệt được hoạt động đầu tư và các
động nhân đạo khác.
Cần phân biệt các hoạt động đầu tư với các hoạt động bỏ tiền nhằm duy trì
hoạt động thường xuyên của các tổ chức. Các tổ chức phải chi phí một khoản tiền
rất lớn cho các hoạt động mang tính thường xuyên của đơn vị nhằm đảm bảo cho
quá trình sản xuất được duy trì. Hoạt động đó có thể gọi là hoạt động sản xuất, kinh
đoanh(SX-KD). Còn hoạt động đầu tư nhằm mục đích nâng cao năng lực sản xuất
(cả về số lượng và chất lượng) cũng như tạo ra các năng lực sản xuất mới.
+ Thứ hai, có thể hiểu khái niệm đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng.
Đầu tư thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra
năng lực sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển
sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của mọi nền kinh tế và là
cơ sở của sự phát triển tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn được biểu hiện dưới những mục tiêu
kinh tế - xã hội cụ thể. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư luôn phải vạch ra được
các mục tiêu cụ thể. Xác định cụ thể mục tiêu là nhân tố đảm bảo cho hoạt động đầu
tư đem lại hiệu quả cao.
Bản chất cơ bản của hoạt động đầu tư: Là quá trình bỏ vốn (tiền, nhân lực,

nguyên liệu, công nghệ...) vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh (SX-KD) và
dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
- Có hai hình thức đầu tư: Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại
hiệu quả cao cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: mua cổ phiếu, tín phiếu, tín dụng....
Đây là loại hình đầu tư khá phát triển hiện nay. Những người có vốn hoặc họ không

Footer Page 9 of 145.

7


Header Page 10 of 145.

biết kinh doanh hoặc họ không thích nghề này và không có điều kiện tham gia hoạt
động đầu tư trực tiếp đã lựa chọn hình thức gián tiếp. Chính phủ của một số nước
trên thế giới đã thông qua các chương trình tài chính cho Chính phủ của một số
nước khác vay với một lãi suất ưu đãi cũng là một hình thức đầu tư gián tiếp. Đầu
tư gián tiếp có thể là đầu tư tài chính với sự tham gia của các tổ chức kinh doanh
tiền tệ.
+ Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào
hoạt động và quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này có thể thực hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như: Hợp đồng, liên doanh, các công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn... Đầu tư trực tiếp có thể chia làm hai nhóm: Đầu tư chuyển
dịch và Đầu tư phát triển.
Đầu tư chuyển dịch là sự đầu tư có chuyển dịch vốn đầu tư từ một người này
sang người khác theo cơ chế thị trường. Đó chính là việc mua lại cổ phần trong một
DN. Việc chuyển dịch sở hữu các cổ phần trong các DN không làm thay đổi vốn

của DN, nhưng có khả năng tạo ra một năng lực quản lý mới, năng lực xã hội mới.
Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta hiện
nay là một hình thức đầu tư chuyển dịch. Quyền sở hữu Nhà nước toàn bộ tài sản
của DN sẽ từng bước chuyển sang các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện cho
các DN áp dụng các phương thức quản lý mới.
Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Người có vốn đầu
tư (cá nhân, tập thể hay nhà nước) gắn liền với hoạt động kinh tế của đầu tư nhằm
nâng cao năng lực của các cơ sở sản xuất cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng
lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo ra
việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đầu tư từ nguồn vốn của Nhà nước là quá trình Nhà nước sử dụng nguồn vốn
NSNN đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội. Phần đầu tư này chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Xét về mặt tính chất đầu tư gián tiếp hoặc đầu tư chuyển dịch không tự nó vận
động và tồn tại nếu như không có ĐTPT. Do đó Để có thể đạt được quy mô lớn nếu

Footer Page 10 of 145.

8


Header Page 11 of 145.

như có sự kết hợp với các hình thức đầu tư khác. Có thể nói, nói đến đầu tư là thực
chất nói về ĐTPT.
Hiện nay, Chính phủ không áp dụng một hình thức đầu tư nào bắt buộc với
mọi thành phần kinh tế. Nhà nước thực hiện những biện pháp can thiệp nhất định để
đảm bảo cho thị trường vốn ĐTPT phù hợp với tăng trưởng kinh tế, sử dụng các
chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau nhằm làm cho thị
trường vốn phát triển ổn định.

Nội dung cơ bản của đầu tư, trước hết là phải xác định được mục tiêu của hoạt
động đầu tư, nguồn vốn đầu tư cùng các điều kiện khác nhau của việc sử dụng vốn
phương thức đầu tư (đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp...), thời gian đầu tư và cuối cùng
là hiệu quả của hoạt dộng đầu tư.
Mọi hoạt động đầu tư, đặc biệt là dầu tư từ nguồn vốn NSNN đều được thực
hiện qua DA đầu tư. Những nội dung trên được thể hiện cụ thể, chi tiết trong DA
đầu tư. Quản lý hoạt động đầu tư trước hết, trực tiếp và quan trọng nhất là quản lý
DA đầu tư.
Học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành công mối quan hệ
nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế. Lý thuyết đó bắt nguồn từ quan điểm hệ
thống và quan điểm phát triển đã được khảo nghiệm qua thực tiễn ở nhiều nước.
Quan điểm đó cho rằng, đầu tư là chìa khoa phát triển được cụ thể hóa trong mối
tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng trưởng GNP hoặc GDP. Một nền
kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức trung bình thì phải giữ được
tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư hợp lý. Tỷ lệ "hợp lý" đó không thấp hơn 15% GDP
[14]. Quan hệ tỷ lệ đó có nghĩa là không có tăng trưởng đầu tư hợp lý thì sẽ không
có tăng trưởng kinh tế và không có tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong quá trình xây dựng và phát triển nén kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) cần nắm vững các quan điểm cơ bản sau:
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là quan điểm cơ bản
xuyên suốt đường lối kinh tế.

Footer Page 11 of 145.

9


Header Page 12 of 145.


Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho
một nước công nghiệp là nhu cầu bức thiết. Phải sử dụng sức mạnh tổng hợp của
đất nước, kết hợp các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm xây dựng tiềm lực kinh
tế và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH. Hoàn thành và vận hành
tốt thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của nền kinh tế
nhà nước.
Tiếp tục đổi mới một cách đồng bộ, toàn diện các lĩnh vực kinh tế; xã hội, bộ
máy nhà nước nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy
sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát
triển nhanh, bền vững. Tranh thủ và sử dụng tốt các nguồn lực bên ngoài, cải thiện
môi trường đầu tư. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng gắn kết với nhau
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước.
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về
đường lối phát triển theo định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH - HĐH, cơ cấu kinh tế
hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh, có thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên
nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và
bản sắc văn hoa dân tộc, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, đa
phương hoá, đa dạng hoa các quan hệ kinh tế đối ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi
âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh, phân bổ hợp lý
việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trên các vùng đất nước; hoàn chỉnh chiến lược
quốc phòng, chiến lược an ninh quốc gia phù hợp với tình hình mới, phát triển công
nghiệp quốc phòng và sử dụng nó để phát triển kinh tế - xã hội; coi trọng sản xuất
một số mặt hàng vừa phục vụ kinh tế vừa sẵn sàng phục vụ quốc phòng - an ninh.
Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực, qua thực tế từ khi đổi
mới nước ta đến nay có thể rút ra một số kết luận về đầu tư như sau:


Footer Page 12 of 145.

10


Header Page 13 of 145.

Một là: Đầu tư là cơ sở, điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế; đầu tư là yếu tố cơ bản đảm bảo thực hiện thành công chiến lược
CNH - HĐH, tránh được nguy cơ tụt hậu.
Hai là: Đầu tư đúng là thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, mục tiêu
chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo đảm được thực hiện.
Ba là: Để đẩy mạnh đầu tư, Nhà nước phải có chính sách, cơ cấu đầu tư hợp lý
đặc biệt là tăng cường hệ thống pháp luật, trong đó chính sách và biện pháp khuyến
khích đầu tư và tiết kiệm đóng vai trò quyết định.
Mục đích của chính sách đầu tư là tái tạo và nâng cao năng lực sản xuất của tài
sản cố định, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và tiến bộ kỹ thuật trước hết
là nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Chính sách đầu tư đúng sẽ tạo hành
lang pháp lý cho việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào mục tiêu đã định trên cơ
sở tăng năng lực SX-KD của từng đơn vị, cơ sở cũng như các địa phương và toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, cần phải có cơ chế quản lý đầu tư thích hợp, đặc biệt là nguồn vốn
đầu tư từ NSNN để nâng cao hiệu quả đầu tư, hạn chế, xoá bỏ thất thoát, ngăn chặn
các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động đầu tư.
1.2. Khái niệm, đặc trưng của tín dạng đầu tư phát triển của nhà nước.
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của quan hệ tín dụng.
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần
một lượng hàng hóa cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có tiền
hoặc số tiền hiện có chưa đủ họ có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng nhu
cầu. Có hai cách vay mượn: Vay chính loại hàng hóa đang có nhu cầu hoặc vay tiên

để mua loại hàng hóa đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng, mong số
vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa
quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị (dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật) từ người sở hữu sang

Footer Page 13 of 145.

11


Header Page 14 of 145.

người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu.
Như vậy, một quan hệ tín dụng phải thỏa mãn những đặc trưng sau:
- Thứ nhất, quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Tính chất tạm
thời của sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó. Thực chất
trong quan hệ tín dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá trị tạm
thời nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền
sở hữu đối với lượng giá trị đó.
- Thứ hai, tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả
đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và lãi. Phần lãi đảm
bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch này là
giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời.
- Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được trả khi đến hạn. Người đi vay cũng tin
tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Cơ sở của sự tin tưởng có thể
do uy tín của người đi vay, do giá trị tài sản thế chấp và do bảo lãnh của người thứ

ba.
1.2.2 Khái niệm và đặc trưng của tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hoạt động vay trả giữa nhà nước và các tác
nhân hoạt động trong nền kinh tế nhằm hỗ trợ vốn cho các đơn vị kinh doanh thực
hiện đầu tư theo yêu cầu phát triển kinh tế của Nhà nước, thúc đẩy các đơn vị sử
dụng vốn tiết kiệm có hiệu quả.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước là một biện pháp chuyển dần hình thức cấp
phát của NSNN sang hình thức đầu tư tín dụng ưu đãi, cho vay có hoàn trả nhằm
nâng cao trách nhiệm của người sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Nó làm cho
các DN, các nhà đầu tư phải "tư duy", "động não", "suy tính" để hoạt động đầu tư,
SX - KD có hiệu quả, hoàn trả được vốn vay, không trông chờ ỷ lại vào sự cấp phát

Footer Page 14 of 145.

12


Header Page 15 of 145.

của Nhà nước. Nó không chỉ là công cụ củng cố tiềm lực tài chính quốc gia mà còn
là công cụ để Nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Là loại hình tín dụng nên tín dụng ĐTPT có những đặc trưng cơ bản của tín
dụng. Nhưng nó không phục vụ các đối tượng kinh tế đơn thuần mà nhằm vào các
đối tượng vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã hội để thực hiện vai trò điều
tiết vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Tuy nhiên, vì là một loại hình
tín dụng đặc biệt nó có những đặc tính sau:
Một là, Tín dụng ĐTPT của Nhà nước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực then
chốt có vai trò quan trọng, đòn bẩy đối với nền kinh tế của đất nước hoặc của một
ngành, của một khu vực, của một vùng.
Hai là, Tín dụng ĐTPT của Nhà nước tập trung vào lĩnh vực mà tín dụng

thương mại với mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận không thể giải quyết được do hiệu
quả trực tiếp cho các nhà đầu tư không được đảm bảo, do quy mô nguồn vốn quá
lớn do thời gian thu hồi vốn đầu tư quá dài, rủi ro cao... hoặc để giải quyết các vấn
đề xã hội của đất nước như công ăn việc làm, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xoá đói
giảm nghèo quy hoạch vùng lãnh thổ, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng... Các đặc
tính này được cụ thể hóa bằng các điểm sau đây:
Mục đích của tín dụng ĐTPT của Nhà nước là hỗ trợ các dự án ĐTPT của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế
lớn có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế bền vững.
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước được hình thành từ các nguồn sau:
Vốn NSNN hàng năm dành cho tín dụng ĐTPT; vốn huy động theo chủ trương của
Chính phủ; vốn vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn vốn viện trợ quốc tế
dành cho tín dụng ĐTPT; vốn thu hồi nợ vay (gốc và lãi) các công trình đã đầu tư
trước đây đến hạn trả nợ; vốn huy động và các nguồn vốn khác theo quy định của
Chính phủ.
Tuỳ theo mục đích điều tiết nền kinh tế trong từng thời kỳ của Nhà nước mà
tín dụng ĐTPT của Nhà nước được tập trung cho các đối tượng nhất định thường là

Footer Page 15 of 145.

13


Header Page 16 of 145.

các ngành, các lĩnh vực then chốt, trọng điểm hoặc các vùng có khó khăn để tạo
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Từng thời kỳ, Chính phủ ban hành Nghị
định quy định về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, hiện nay
Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ quy định cụ thể danh

mục các dự án, chương trình được vay vốn tín dụng ĐTPT, cụ thể danh mục các dự
án vay vốn tín dụng đầu tư hiện nay như sau.
Biểu 01: Danh mục các dự án vay vốn Tín dụng đầu tư của nhà nước
(Ban hành kèm theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ)
STT

I

1

Ngành nghề, lĩnh vực

Giới hạn,
quy mô

Kế cấu hạ tầng kinh tế xã hội (Không phân biệt địa bàn
đầu tư)
Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ sản
xuất và sinh hoạt.

Nhóm A, B

Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại
2

các khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất,
khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng

Nhóm A, B


nghề.
Dự án xây dựng nhà ở cho sinh viên thuê, dự án nhà ở cho
3

công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê, dự án nhà

Nhóm A, B

ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị theo quyết

và C

định của Thủ tướng Chính phủ.
Dự án đầu tư hạ tầng, mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới và
thiết bị trong lĩnh vực xã hội hóa: giáo dục đào tạo, dạy nghề,
4

y tế, văn hóa, thể thao, môi trường thuộc Danh mục hưởng
chính sách khuyến khích phát triển theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.

Footer Page 16 of 145.

14

Nhóm A, B


Header Page 17 of 145.


5

II

1

2

3
III

Dự án hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghiệp hỗ trợ, khu
chế xuất, khu công nghệ cao.

Nhóm A, B

Nông nghiệp và nông thôn (Không phân biệt địa bàn đầu
tư)
Dự án nuôi, trồng thủy, hải sản gắn với chế biến công
nghiệp.
Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây
lâm nghiệp.
Dự án chăn nuôi gia súc, gia cầm gắn với chế biến công
nghiệp

Nhóm A, B

Nhóm A, B

Nhóm A, B


Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư)
Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản:
- Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn
tấn/năm;

1

- Sản xuất kim loại màu có công suất tối thiểu 5 nghìn

Nhóm A, B

tấn/năm;
- Sản xuất bột màu đioxit titan có công suất tối thiểu 20
nghìn tấn/năm.
Dự án đầu tư sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc cai nghiện,
2

vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS; sản

Nhóm A, B

xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP.
Dự án đầu tư xây dựng nhà máy phát điện sử dụng các nguồn
3

năng lượng: gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh học và các tài

Nhóm A, B


nguyên năng lượng khác có khả năng tái tạo.
Dự án đầu tư xây dựng thủy điện nhỏ, với công suất nhỏ hơn
4

hoặc bằng 50MW thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn.

5

Footer Page 17 of 145.

Nhóm A, B
và C

Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm theo

Nhóm A, B

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

và C

15


Header Page 18 of 145.

6

Dự án thuộc danh mục các ngành công nghiệp hỗ trợ theo


Nhóm A, B

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

và C

Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, đặc biệt khó khăn; Dự án tại vùng đồng bào
dân tộc khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương
IV

trình 135 và các xã Biên giới thuộc chương trình 120, các
xã vùng Bãi ngang (không bao gồm dự án thủy điện, nhiệt

Nhóm A, B
và C

điện, sản xuất xi măng, sắt thép; dự án đầu tư đường bộ, cầu
đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt).
Các dự án cho vay theo Hiệp định chính phủ; các dự án
V

đầu tư ra nước ngoài theo Quyết định của Thủ tướng
chính phủ; các dự án cho vay theo chương trình mục tiêu

Nhóm A, B

sử dụng vốn nước ngoài.


Ghi chú: Nhóm A, B và C được phân loại theo quy mô và tính chất theo quy
định tại Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/02/2009 của Chính phủ về quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình.
- Nguyên tắc tín dụng ĐTPT của Nhà nước quy định như sau:
+ Cho vay những dự án đầu tư có thu hồi vốn trực tiếp, có hiệu quả và khả
năng trả nợ.
+ Dự án đầu tư vay vốn phải được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định
phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay.
+ Chủ đầu tư vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích; trả nợ gốc, lãi vay
đầy đủ và đúng thời hạn theo hợp đồng tín dụng đã ký; thực hiện đầy đủ các cam
kết trong hợp đồng và các quy định của Nghị định này.
- Điều kiện cho vay: Thuộc đối tượng tại Danh mục dự án vay vốn đầu tư theo
quy định của Chính Phủ; Thực hiện đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định của pháp
luật; Chủ đầu tư có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, có hiệu quả, bảo đảm trả
được nợ; được Ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài chính,

Footer Page 18 of 145.

16


Header Page 19 of 145.

phương án trả nợ và chấp thuận cho vay; Chủ đầu tư có vốn chủ sở hữu tham gia dự
án tối thiểu 20% và phải bảo đảm đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, các điều kiện
tài chính cụ thể của phần vốn đầu tư ngoài phần vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà
nước; Chủ đầu tư thực hiện bảo đảm tiền vay theo các quy định tại Nghị định này
và quy định của pháp luật; Chủ đầu tư phải mua bảo hiểm tài sản tại một doanh
nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đối với tài sản hình thành từ vốn
vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc trong suốt thời hạn vay vốn; Chủ đầu

tư phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính theo quy định của
pháp luật; báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán bởi cơ quan kiểm toán
độc lập; Trường hợp dự án đầu tư ra nước ngoài theo Hiệp định giữa hai Chính phủ
và dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì thực
hiện theo quy định của Điều 11 Nghị định này.
- Mức vốn cho vay: Mức vốn cho vay đối với mỗi dự án tối đa bằng 70% tổng
mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động), đồng thời phải đảm bảo
mức vốn cho vay tối đa đối với mỗi chủ đầu tư không được vượt quá 15% vốn điều
lệ thực có của Ngân hàng Phát triển Việt Nam; Trường hợp đặc biệt, dự án, chủ đầu
tư nhất thiết phải vay với mức cao hơn mức tối đa theo quy định nêu trên, Ngân
hàng Phát triển Việt Nam báo cáo Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định.
- Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi
vốn của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư phù hợp với đặc điểm sản xuất,
kinh doanh của dự án nhưng không quá 12 năm.
- Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay đầu tư không thấp hơn lãi suất bình quân
các nguồn vốn cộng với phí hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam; Tổng
Giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam tính toán mức lãi suất bình quân các
nguồn vốn và chi phí hoạt động báo cáo Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát
triển Việt Nam trình Bộ Tài chính công bố lãi suất cho vay tín dụng đầu tư. Trường
hợp lãi suất huy động bình quân có biến động lớn, Chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân
hàng Phát triển Việt Nam báo cáo Bộ Tài chính điều chỉnh lãi suất cho phù hợp; Lãi

Footer Page 19 of 145.

17


Header Page 20 of 145.


suất cho vay được ghi trong hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cho vay được điều
chỉnh theo từng lần giải ngân theo lãi suất cho vay được công bố. Lãi suất nợ quá
hạn đối với mỗi khoản giải ngân bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với từng
khoản giải ngân.
- Bảo đảm tiền vay: Các chủ đầu tư, nhà xuất khẩu khi vay vốn tín dụng đầu
tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước phải thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay
tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo
đảm. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, sử
dụng tài sản hình thành trong tương lai và các biện pháp bảo đảm khác (nếu có)
theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Ngân hàng Phát triển Việt Nam
được xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; được
cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác hoặc được góp vốn
liên doanh bằng tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật đối với các tổ chức
kinh tế để thu hồi nợ;
- Tổ chức cho vay: Ngân hàng Phát triển Việt Nam tổ chức thực hiện chính
sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo đúng quy định tại Nghị
định này và Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg thành lập Ngân hàng Phát triển Việt
Nam trên cơ sở tổ chức lại hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển.
1.3 Vai trò tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước ra đời là một trong những cơ sở để tách các
hoạt động tín dụng mang tính kinh tế - xã hội ra khỏi hoạt động có tính thương mại
của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động kinh doanh của các tổ chức
trung gian tài chính sang cơ chế hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Việc
tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng có tác dụng tích cực trong việc
xử lý rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM.
1.3.1.Điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
Mục tiêu đặt ra với tín dụng ĐTPT của Nhà nước là thực hiện chức năng điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần
thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển các


Footer Page 20 of 145.

18


Header Page 21 of 145.

lĩnh vực, ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế... Mặt khác, tín dụng ĐTPT của
Nhà sẽ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc
đẩy tăng trưởng tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội nhằm cải thiện đời
sống, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, loại trừ nguy cơ tụt hậu.
1.3.2. Nâng cao hiệu qủa và xoá bao cấp trong đầu tư:
Các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước được đưa ra chặt
chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước, trong và sau quá trình đầu tư một cách nghiêm
ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ
quan quản lý nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu
nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra
mà phải trả lãi cho khoản tín dụng ĐTPT.
1.3.3. Giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư phát triển SX - KD:
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có tác dụng duy trì sự liên tục cũng như khả
nâng mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất của các đơn vị kinh tế:
Thứ nhất, các DN thuộc đối tượng tín dụng ĐTPT của Nhà nước sẽ có động lực
để mở rộng SX - KD dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị công nghệ,
tăng quy mô… thông qua việc trực tiếp nhận được các khoản vay tín dụng ĐTPT
của Nhà nước hoặc sự bảo lãnh hay HTSĐT của Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ khuyến khích và lôi kéo các thành
phần kinh tế mở rộng SX - KD thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho
sản xuất hoặc phát triển một khâu nào đó của chu trình sản xuất.
Vấn đề có nghĩa sâu rộng hơn là sự phát triển cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà
nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu

chuyển, điều hòa các nguồn tài chính trong nền kinh tế đảm bảo việc duy trì liên tục
và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hóa.
1.3.4. Điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua NHPT:
Từ những năm 1990, đường lối cải cách kinh tế của Đảng và Nhà nước ngày
càng được khẳng định rõ nét và đi vào thực tiễn sâu rộng. Trong lĩnh vực đầu tư và
xây dựng nhiều chủ trương, chính sách mới nhằm huy động tối đa các nguồn vốn

Footer Page 21 of 145.

19


Header Page 22 of 145.

thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đã được ban hành để thu hút vốn
ĐTPT kinh tế - xã hội đất nước.
Thời kỳ này vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB được thực hiện thông qua hai
kênh là: Cấp phát trực tiếp cho DA đầu tư theo hình thức không hoàn lại và cho vay
ưu đãi có hoàn trả theo kế hoạch của Nhà nước.
Khác với thời kỳ trước đổi mới, thời kỳ này đã huy động được nhiều nguồn
lực tham gia ĐTPT kinh tế - xã hội. Do vậy, vốn đầu tư thực hiện đã tăng cả về quy
mô lẫn tốc độ, cơ cấu nguồn vốn huy động đạt được đều theo xu hướng tích cực
hơn.
Năm 1990, chỉ có một đầu mối cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước là Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đến năm 1995 khi thành lập Tổng cục ĐTTT
có hai đầu mối cho vay tín dụng ĐTPT của Nhà nước cùng tồn tại. Năm 1996 và
năm 1997, có thêm ba Ngân hàng Thương mại khác cũng được giao nhiệm vụ làm
đầu mối cho vay đầu tư là: Ngân hàng Công thương Việt Nam; Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Ngoài ra, một số DN còn trực tiếp ký các hợp đồng vay vốn với cơ quan tài chính

đối ngoại thuộc Bộ Tài chính theo các dự án ODA. Như vậy, thực tế có sáu đầu
mối cho vay nguồn vốn tín dụng ưu đãi này.
Từ năm 2000, đầu mối cho vay được tập trung chủ yếu tại Quỹ HTPT. Quỹ
HTPT được Nhà nước thành lập và giao nhiệm vụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông
qua công cụ tín dụng ĐTPT Nhà nước với những nhiệm vụ huy động vốn, tiếp nhận
và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện chính sách tín dụng ĐTPT
thông qua hình thức: Cho vay đầu tư, BLTDĐT, HTSĐT, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu;
cho vay theo hiệp định của Chính phủ và thực hiện một số nhiệm vụ khác của Thủ
tướng Chính phủ giao.
Sự ra đời và hoạt động của Quỹ HTPT và từ ngày 01/7/2006 chuyển thành
Ngân hàng Phát triển Việt Nam là chủ trương đúng đắn và từng bước phù hợp với
mục tiêu phát triển từng thời kỳ, phù hợp với nền kinh tế ngày càng tham gia hội
nhập quốc tế sâu, rộng hơn. Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tăng trưởng

Footer Page 22 of 145.

20


Header Page 23 of 145.

cao và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến nay dư nợ tín
dụng ĐTPT đạt 110.091 tỷ đồng, chiếm khoảng 10,24% tổng dư nợ tín dụng của
toàn bộ nền kinh tế có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế biểu hiện trên các mặt chủ
yếu sau:
Một là, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực của
nền kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đến hết
31/12/2012 tổng số dự án vay vốn tín dụng đầu tư Ngân hàng phát triển của 1.783
dự án với tổng số tiền là 110.091 tỷ đồng, trong đó đầu tư một số dự án lớn như: Dự
án đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dự án Lọc dầu Dung Quất, dự án Thuỷ điện Sơn

La và nhiều dự án có quy mô lớn trên toàn quốc, giải quyết việc làm cho hàng ngàn
lao động, thu ngân sách nhà nước hàng ngàn tỷ đồng để tái đầu tư phát triển và giải
quyết các vấn đề xã hội, các dự án đầu tư vay vốn Tín dụng đầu tư phát triển nhà
nước tại Ngân hàng phát triển là cơ sở, điều kiện và tiền đề thu hút các nguồn lực
khác cùng tham gia đầu tư. Nhờ vậy đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH – HĐH, tập trung hỗ trợ đầu tư những lĩnh vực, chương trình, DA, sản
phẩm trọng điểm có ý nghĩa nền tảng của nền kinh tế, Hỗ trợ phát triển kinh tế vùng
miền, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA thông qua việc cho vay lại và
đảm bảo đủ nguồn vốn đối ứng để thực hiện DA. Cho vay lại vốn ODA tại Ngân
hàng Phát triển đến 31/12/2012 với tổng số 432 dự án, tổng dư nợ 122.885 ngàn
triệu đồng/tổng số cam kết cho vay là 11.069 triệu USD tương đương 230.235 ngàn
triệu đồng góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh. Dư nợ
cho vay bình quân cho vay từ 150 – 180 khách hàng từ năm 2006-2012 hàng năm
12.822 ngàn triệu đồng chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực dệt may, da giày và một
số sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, thủy sản, gạo, cà phê,
dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ,... vào các thị trường lớn như ASEAN, Mỹ,
Nhật, EU.... góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu và làm
tăng kim ngạch hàng tỷ USD mỗi năm, tăng khả năng cạnh tranh của một số mặt
hàng có lợi thế, cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng qua

Footer Page 23 of 145.

21


Header Page 24 of 145.

chế biến, giữ vững thị trường truyền thống, khai thác, mở mang thị trường mới.
Ba là, tạo sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn

cho đầu tư, thúc đẩy phát triển của thị trường tài chính, góp phần giải quyết các vấn
đề xã hội.
Tóm lại: Có thể khẳng định vai trò của tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong
thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế như sau:
Đã thực hiện thành công chủ trương đổi mới trong lĩnh vực đầu tư và xây
dựng, xóa bỏ tư tưởng bao cấp nặng nề trong hoạt động đầu tư. Khắc phục một
bước tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng cho ĐTPT trong khi nguồn NSNN còn
nhiều khó khăn chưa có cách khắc phục. Cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã
từng bước thực hiện vai trò là đòn bẩy quan trọng để đổi mới quản lý đầu tư và xây
dựng.
Đã có đủ điều kiện để tập trung vốn đầu tư cho các chương trình lớn, các DA
quan trọng và then chốt của nến kinh tế. Các tổ chức cho vay (TCCV) đã có kinh
nghiệm trong khâu xét duyệt, ký kết hợp đồng, triển khai thực hiện, theo dõi và
quản lý các DA đầu tư.
Hình thức thực hiện ngày càng đa dạng và phát triển theo hướng tiến bộ: Cho
vay đầu tư, BLTDĐT; HTSĐT.... Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã góp
phần tăng đáng kể năng lực của các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Tuy hoạt động của tín dụng ĐTPT của Nhà nước đã đạt được những kết quả
nhất định, song về cơ chế quản lý vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế, chưa phát huy
được đầy đủ các mặt tích cực đối với công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt những khó khăn trong thời gian qua . Do vậy, trong
thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nhằm củng cố về quan
điểm và nâng cao nhận thức hoạt động thực tiễn, đảm bảo thực hiện vai trò hết sức
quan trọng của tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước
mà hệ thống Ngân hàng Phát triển là lực lượng nòng cốt.

Footer Page 24 of 145.

22



Header Page 25 of 145.

1.4 Chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
1.4.1 Khái niệm chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Có nhiều quan niệm về chất lượng sản phẩm, chất lượng là phù hợp với mục
đích sử dụng hoặc là một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều và độ tin cậy với
chi phí thấp phù hợp vối thị trường. Theo Hiệp hội tiêu chuẩn Pháp thì chất lượng là
"năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thỏa mãn những nhu cầu của người
sử dụng"[12].
Như vậy, có thể hiểu chất lượng tín dụng ĐTPT của Nhà nước là sự thoả mãn
các nhu cầu hợp lý của khách hàng có lựa chọn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế - xã hội theo đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và đảm bảo sự phát triển của TCCV. Hoặc có thể hiểu chất lượng tín dụng
ĐTPT của Nhà nước là kết tinh tổng hợp những thành quả hoạt động tín dụng của
Nhà nước được thể hiện ở sự phát triển ổn định, vững chắc đúng định hướng của
nền kinh tế quốc dân, của TCCV và của khách hàng có chọn lựa.
Hai cách diễn đạt trên đây về chất lượng tín dụng ĐTPT tuy có đôi chút khác
nhau nhưng về nội dung cơ bản là thống nhất. Như vậy, khách hàng là đối tác của
TCCV tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, TCCV thỏa mãn những yêu cầu hợp lý của khách hàng như: Đáp ứng các yêu
cầu về số tiền cho vay, lãi suất, kỳ hạn cho vay của các DA đầu tư đúng đối tượng
cần khuyến khích ĐTPT của Nhà nước.
Chất lượng tín dụng ĐTPT được xét đến từ 3 giác độ: khách hàng (chủ đầu
tư)- nền kinh tế - xã hội và TCCV tức là tổ chức thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT
của Nhà nước.
Thứ nhất, xét từ giác độ khách hàng: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu
cầu hợp lý của khách hàng về mục đích sử dụng tiền vay, số tiền, lãi suất, kỳ hạn nợ
với thủ tục đơn giản, thuận tiện và phong cách, thái độ phục vụ tốt nhất mà vẫn đảm
bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đảm bảo sự
đầu tư phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế và sự phát triển của TCCV góp

phần lành mạnh hoá tài chính DN.

Footer Page 25 of 145.

23


×