Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

ứng dụng ergonomics trong thiết kế nội thất lớp học tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM
KHOA LÂM NGHIỆP

ĐỒ ÁN MÔN HỌC
ERGONOMICS TRONG THIẾT KẾ NỘI THẤT

ỨNG DỤNG ERGONOMICS TRONG THIẾT KẾ NỘI
THẤT PHÒNG HỌC TIỂU HỌC
GVHD: TS. Hoàng Thị Thanh Hương.
Nhóm sinh viên thực hiện:
Bùi Văn Quốc – 14115097.
Nguyễn Văn Thạch – 14115372.
Võ Nguyễn Huy Tâm - 14114399.
Nguyễn Phúc Bảo – 14115285.
Trương Văn Hoàng – 14115041.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 4 tháng 10 năm 2016.

1


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Ergonomics là khoa học liên ngành, được cấu thành từ các khoa học về con
người để phù hợp công việc, hệ thống máy móc, thiết bị, sản phẩm và môi trường
2


với các khả năng về thể lực, trí tụê và cả với những hạn chế của con người. Sao cho
họ đạt được sự thỏa mãn tối đa, đồng thời tăng năng suất lao động


Tâm sinh lý của con người ảnh hưởng ít nhiều đến phương thức sử dụng cũng
như hiệu quả của sản phẩm. Qua đó thể hiện được hiệu năng của sản phẩm đối với
người dùng. Năm bắt tâm sinh lý của người sử dụng cũng là nắm bắt thị hiếu của
người tiêu dùng.
Ergonimics là làm cho công việc, máy móc phù hợp với con người, chứ không
phải bắt con người phải thích nghi với máy móc.(khác hoàn toàn với những quan
điểm cổ xưa là bắt con người phải phù hợp và thích nghi với công việc và máy
móc). Hiểu được tâm sinh lý con người để áp dụng ergonomics được vào trong thiết
kế giúp cải thiện được sản phẩm phù hợp với con người cũng như kinh tế, tăng
năng suất lao động, giảm thời gian trống cũng như tăng được vốn đầu tư sản xuất.
Ergonomics là yếu tố không thể thiếu trong thiết kế nội thất. Ergonomics được
áp dụng và ứng dụng trong thiết kế, là nhân tố thành công của một sản phẩm. Trong
số đó, việc dạy và học ergonomics cũng đóng một vai trò quan trọng, có ảnh hưởng
như thế nào đến tổng thể mô hình dạy và học? Câu trả lời sẽ có được khi bạn tham
khảo đồ án: “ Ứng dụng Ergonomic trong thiết kế phòng học tiểu học”

3


CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Giáo dục là một trong những vấn đề được thế giới quan tâm và phát triển. Ở
Việt Nam thì giáo dục là một trong những vấn đề được phát triển hàng đầu và được
coi là nhân tố quyết định đến sự phát triển của đất nước. Vì thế muốn có một nền
giáo dục phát triển thì việc trang bị một cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị học tập
rất quan trọng. Đặc biệt là việc thiết kế phòng học và trang thiết bị (bàn, ghế, …)
sao cho phù hợp với học sinh là một điều rất quan trọng.
2. Mục đích thiết kế:


Nhằm đáp ứng nhu cầu về giáo dục, có thể áp dụng xây dựng vào thực tế. Đề
tài thiết kế không gian phòng học chho học sinh tiểu học không chỉ dừng lại ở mục
đích xây dựng nơi học tập cho học sinh mà còn để hướng tới việc tạo ra sự thoải
mái và hứng thú trong học tập cho học sinh. Chúng tôi tiến hành đề tài này mong
muốn đóng góp một ý tưởng mới hiện đại phù hợp với thực tiễn xã hội.
3. Mục đích nghiên cứu:

Mục đích đầu tiên là ứng dụng ergonomics vào thiết kế không gian phòng học
tiểu học. Ngoài ra, ergonomics trong nội thất nên được thiết kế để tạo điều kiện
giảm thiểu mệt mỏi bằng các thiết bị phù hợp với kích cở và phạm vi chuyển động
của người sử dụng.
4. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn:

Là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các đơn vị xây dựng, sản xuất trong và
ngoài nước không chỉ riêng ngành nội thất mà còn liên quan đến ngành sản xuất đồ
gỗ. Là tài liệu tham khảo khi thiết kế các không gian khác ( phòng họp, phòng hội
4


nghị, hội trường, …). Không gian thất dựa trên mối quan hệ với không gian kiến
trúc. Và đó là không gian thống nhất giúp nâng cao cảm hứng học tập.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:

Yếu tố không gian là yếu tố vừa rộng lại vừa hẹp. Không gian ở đây tôi muốn
nói đến là không gian gắn kết giữa không gian kiến trúc và không gian nội thất
(không gian phòng học và bàn ghế) các không gian đó phải phù hợp với lứa tuổi học
sinh tiểu học.

5



CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN
1.

Lịch sử của ergonomics:

Về mặt lịch sử , phần lớn các nội thất được kết hợp với nhau và kết hợp với
nhau rất thành công , như là một phần tự nhiên trong quá trình xây dựng một công
trình. Những xã hội bản địa cổ xưa, mà vẫn còn tồn tại tới ngày nay, đã phát triển
rất nhiều hình thức, cơ sở hạ tầng phát triển từ các phòng học,bàn ghế và các đồ
dùng cần thiết để giải quyết về vấn đề cư trú trong trong một khí hậu đặc biệt, phục
vụ cho việc học tập với những vật liệu có sẵn. Thế rồi, đơn giản họ đem một ít vật
dụng sắp xếp vào phòng học một cách gọn gàng có khoa học. Tạo không gian rộng
rãi, thoải mái mà phòng học của chúng ta cần có.


Tên gọi:
Egronomics là một môn khoa học tương đối trẻ, tên của nó cũng tương đối

nhiều. Ở Mỹ gọi là Human Factors, ở Anh và các nước châu Âu là Egronomics, ở
Nhật Bản có tên là “ Nhân gian công học”, còn ở trong lĩnh vực thiết kế và đồ mộc
Trung Quốc có tên là “ Nhân thể công trình học”. Ở nước ta tên gọi này giống với các
nước châu Âu.


Định nghĩa:
Egronomics là một môn khoa học giáp ranh nghiên cứu con người và vật liên

quan đến con người ( máy, đồ mộc, công cụ…), hệ thống và môi trường của nó, làm

cho nó phù hợp với các đặc tính sinh lý học, tâm lý học, giải phẫu học, từ đó cải thiện
môi trường làm việc và nghỉ ngơi, nâng cao tính dễ chịu và hiệu quả.
• Nguồn gốc- phát triển
Tuy trong quá trình phát triển tự thân của loài người, tự giác hoặc không tự
giác vận dụng nguyên lý của Egronomics, nhưng Egronomics trở thành môn khoa
học hệ thống còn rất trẻ, loài người tự giác tiến hành thí nghiệm nghiên cứu hệ thống
6


phối hợp giữa công cụ và người sử dụng chỉ mới là công việc của gần một thế kỷ, tên
Egronomics xuất hiện mới được khoảng 40 năm. Phát triển của Egronomics có thể
chia làm 4 giai đoạn:
1. Thời kỳ manh nha của Egronomics- Từ cuối thế kỷ XIX đến chiến tranh thế

giới thứ nhất
2. Thời kỳ phát triển của Egronomics- Từ chiến tranh thế giới thứ nhất đến chiến
tranh thế giới thứ hai
3. Thời kỳ thành thục của Egronomics- Từ chiến tranh thế giới thứ hai đến những
năm 60 của thế kỷ XX
4. Egronomics từ những năm 70 của thế kỷ XX đến nay


Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Egronomics hiện đại liên quan đến các lĩnh vực của

đời sống con người, vì thế phương pháp nghiên cứu cũng rất đa dạng. Từ phương
pháp thủ công đến phương pháp thực nghiệm, phương pháp mô phỏng phương pháp
quan sát hiện trường và phương pháp điều tra... Nội dung nghiên cứu có phương
pháp đánh giá đo sinh lý học, phương pháp đánh giá đo tâm lý học và phương pháp
nghiên cứu giải phẩu bao hàm đo cơ thể người... Căn cứ vào mục tiêu và đối tượng

nghiên cứu để chọn phương pháp phù hợp. Trong thiết kế tủ quần áo, sử dụng
phương pháp đo cơ thể và sinh lý học.

2. Sự hình thành và phát triển Ergonomics: (trên thế giới và trong nước):
2.1. Trên thế giới:

7


Trên thế giới những nền văn minh phát triển đã tìm ra những cách thích hợp
để xây dựng nên những công trình công phu hơn, tạo nên những thể loại không gian
nội thất của riêng họ. Người ta không thể nghĩ về không gian nội thất của một nhà
thờ Gothic độc lập với cấu trúc của chính công trình, kính, những hoa văn gỗ chạm
khắc, và những yếu tố trang trí khác tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh, cả bên trong
và bên ngoài. Ít nhất là cho đến thời kỳ hiện đại, những phòng học và trường làng
luôn luôn được thiết kế và xây dựng theo những truyền thống đã ăn sâu vào lối sống
của những người cư ngụ trong đó. Sự trang trí đồ đạc tiến hóa từ những truyền
thống tương tự, sáng tạo nên những nội thất hoàn toàn phù hợp với những cấu trúc
kèm theo, cùng với những tập quán và nhu cầu học tập của các em học sinh.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế giữa thành phố và nông thôn kéo theo
sự phát triển cơ sỡ hạ tầng về các lớp học có sự chênh lệch với nhau.Vì vậy nghề
thiết kế đã bắt đầu hình thành trong thời đổi mới hiện nay như là kết quả của những
quá trình tìm hiểu ở bên ngoài mang tính truyền thống khắt khe cùng với cách suy
nghĩ mang cá tính nhiều hơn đối với sự thiết kế cho từng thể loại. Xã hội công
nghiệp hiện đại đã tạo ra thêm những sự phức tạp to lớn về công nghệ , cả về bản
chất của các công trình cũng như những mục tiêu chức năng phục vụ khác.
Cho dù những cái được và mất trong nền văn minh hiện đại là gì đi chăng nữa,
thì rõ ràng chúng ta không thích trở lại với những cách sống đơn giản; do đó, tâm lý
của chúng ta muốn làm việc và học tập trong những không gian nội thất tốt hơn.
Điều này làm cho chúng ta có động cơ mạnh mẽ để cố gắng làm cho những không

gian nội thất tiện nghi, hữu dụng, tươi vui và phù hợp tâm lý. Điều này trở nên quá
rõ ràng đến nỗi chúng ta ít khi quan tâm tới mục đích của những việc làm này, trong
khi lại muốn tạo dựng nên một cơ sỡ hạ tầng nhanh chóng.
Trong một hoàn cảnh nào đó sẽ có những lý do của riêng nó – lịch sử, kinh tế,
công nghệ, hay những sự kết hợp khác nhau của những áp lực thực tế - nhưng rất
nhiều những lời giải thích này hóa ra lại là những lý do. Chúng ta đã vượt qua
8


những khó khăn về lịch sử, kinh tế và công nghệ để đạt được tất cả các thành tựu
đáng ngạc nhiên. Chúng ta có thể bay vảo không gian, truyền thông tin trực tiếp qua
một khoảng cách lớn, tích lũy hàng khối những thông tin một cách tự động – thực
tế, chúng ta có thể , lẽ dĩ nhiên, làm bất cứ điều đã từng được xem như là phi
thường.
Chúng ta cũng có thể sáng tạo những không gian mà người ta học tập và rèn
luyện thoải mái, làm việc tốt, và có những trải nghiệm vui vẻ qua một số rất lớn
những ví dụ minh họa. Tuy nhiên những ví dụ này vẫn còn khác thường trong một
thế giới mà trong đó, tất cả những môi trường nhân tạo thường là bất cứ thứ gì
không tiện nghi và vui tươi. Chúng ta đã đánh mất cách tiếp cận truyền thống cho
những giải pháp thân thiện, dễ dàng cho những vấn đề của không gian sống, và nền
văn minh công nghiệp đã làm tình hình tệ hại hơn khi cung cấp những giải pháp
toàn cầu hóa.
Dường như do những hạn chế về tư duy, một loại chướng ngại làm cho chúng
ta khác biệt với môi trường của chúng ta hoặc, khi mà chúng ta không khác biệt thì
làm cho chúng ta không còn thích hợp tới mức sẽ không bao giờ chịu đựng được
trong một nền sản xuất dây chuyền, sự quản lý về tiền bạc, hoặc trong nghiên cứu
khoa học. Các thị trấn, thành phố, và (thường là tệ nhất) là các ngoại ô được cho
phép phát triển trong sự hỗn loạn hoặc rơi vào sự hủy hoại. Các tòa nhà được dựng
lên với một số những quan tâm về chất lượng kỹ thuật (sức bền kết cấu, hệ thống
máy móc) nhưng sự chú ý tới thiết kế là rất ít. Thực ra, động cơ chính cho việc xây

dựng đôi khi là việc mang lại lợi nhuận nhanh chóng hơn là bất cứ những quan tâm
nào đến việc sử dụng thực sự cho một khoảng thời gian lâu dài. Những không gian
trong những công trình như thế thường giới hạn những khả năng thỏa mãn thực sự
cho cuộc sống hay công việc.
Ngay cả khi chúng ta xây dựng với những động cơ tốt như : bệnh viện hay
những công trình công cộng khác hoặc nhà ở cho riêng mình thì công việc sắp đặt
9


các không gian nội thất lại với nhau thường hay bị làm vụng theo nhiều cách. Bởi vì
những thứ tạo thành một không gian phòng học quá quen thuộc ; một căn phòng,
một văn phòng, thư viên, phòng tự học nên nó dường như rõ ràng và dễ dàng sắp
xếp. Tất cả các bằng chứng cho thấy rằng điều này không phải như vậy. Một căn
phòng trở thành một thực thể rất phức tạp được tạo nên từ nhiều yếu tố mà để thành
công về mặt hữu dụng, thoải mái, bằng cách này hay cách khác phải thống nhất.
Có lẽ đa phần các không gian phòng học được sắp xếp bởi chủ nhân của
nó. Văn phòng và các không gian làm việc khác cũng được thiết kế, ít nhất là ở một
mức độ nào đó, bởi những người sử dụng chúng. Trong khi điều này thường được
những người tự làm chủ hay những người làm việc tại nhà yêu thích nhất, thì ngay
cả những văn phòng công ty cũng thường xuyên được thiết kế, hoặc ít nhất là cải
tạo bởi những người sử dụng. Những văn phòng có tiêu chuẩn thường để một mức
độ linh hoạt nhất định, cho phép người sử dụng có thể điều chỉnh nội thất theo thị
hiếu riêng của họ.
Đó là một thực tế mà có rất nhiều các nơi có không gian hầu như không thể
coi là được thiết kế tất cả. Rất nhiều người được học tập và làm việc trong không
gian phòng hình thành từ những căn phòng còn sót lại khi họ ngẫu nhiên tìm thấy
chúng cộng với sơn từ thẻ màu tiêu chuẩn của những thợ sơn, bàn và kệ tủ được
thừa kế, mượn hoặc lấy ngẫu nhiên tại một cửa hàng địa phương và đồ đạc thu được
theo một cách nào đó hay một bộ đồ đạc theo bất cứ cách nào cho phù hợp. Nếu
may mắn, những kết quả có thể có là thoải mái, hòa hợp vừa đủ; thông thường hơn

là một không gian có tổ chức, bất tiện và không thoải mái, nếu không muốn nói là
chán ngắt và vô hồn.
Nếu điều này là thật về những không gian được người sử dụng có đủ sự kiểm
soát, thì không có gì ngạc nhiên là những không gian riêng còn ở vào tình trạng tệ
hại hơn nhiều. Quá nhiều các cửa hàng và văn phòng nhỏ, nhà hàng và những quán
cà phê, các phòng trong trường học và học viện, bệnh viện, nhà máy, nhà ga hàng
10


không và trạm xe buýt trở thành những mớ lộn xộn của những yếu tố không liên hệ
mà dường như không có sự kết nối nào với nền văn minh tiến bộ đã sản sinh ra
chúng.
Thế giới hiện đại của chúng ta cũng đầy những không gian được thiết kế với
những nỗ lực và quan tâm, nhưng nỗ lực đã bị định hướng sai. Nhà ăn và cửa hàng,
khách sạn và nhà nghỉ, văn phòng và các tòa nhà công cộng thường phản ánh những
cố gắng thiết kế, nhưng mục đích thường là xúc tiến các sản phẩm hoặc dịch vụ và
làm hài lòng những gì được nghĩ như là “ thị hiếu công chúng” – được định nghĩa
như là một mẫu số chung thấp nhất. Rất nhiều các nội thất nhà nghỉ và đại lý cửa
hàng fast-food là thí dụ cho loại nỗ lực thiết kế lạc đường kiểu này, thường dựa vào
những kiểu mẫu náo nhiệt, bố cục màu sắc chói chang và những chi tiết cầu kỳ.
Ngoài những sự đánh giá khá ảm đạm về hiện tượng thiết kế nội thất đang tồn tại,
thì vẫn có những ngoại lệ. Chúng ta phải tìm thấy những công trình tốt và cố gắng
nhớ những văn phòng, nhà hàng và đặc biệt là những nhà ở thực sự được mô tả như
là một tác phẩm thiết kế.
Khi nội thất được thiết kế tốt, sự thành công là tất yếu. Đa số các nội thất tốt là
kết quả của một trong hai cách tiếp cận. Đầu tiên là việc sử dụng những người giỏi
chuyên môn, tài năng và kỹ thuật thực hành tốt. Phần lớn những không gian hiện
đại, đa dạng được giải quyết tốt bởi các chuyên gia có trình độ cao trong kỹ năng
chuyên môn. Chúng ta đến các chuyên gia để điều trị y khoa, để tư vấn tài chánh,
thậm chí là sửa xe hơi. Chúng ta chấp nhận ý tưởng rằng để trở thành một đầu bếp

giỏi, một vận động viên quần vợt giỏi, hay một nhạc sĩ chấp nhận được thì cần phải
học tập và thực hành. Một thái độ tương tự cũng nên tác động vào thiết kế nội
thất, một nghề sẽ phải giải quyết các vấn đề về đồ đạc và ánh sáng, màu sắc và bố
cục, sự dự trữ và nghệ thuật, nằm trong những yếu tố khác.
Cách tiếp cận thứ hai, bởi những cá nhân riêng biệt không được đào tạo bài
bản, là học về những gì tác động vào thiết kế tốt một nội thất và suy nghĩ thật cẩn
11


thận đến những quyết định cần thiết. Trở thành một nhà chuyên môn được đào tạo
bài bản cũng cần nhiều nỗ lực như việc trở nên lành nghề trong bất cứ lĩnh vực phức
tạp khác, nhưng học giải quyết những vấn đề nội thất chính trong nhà ở và văn
phòng là nằm trong phạm vi tiến tới của bất kỳ cá nhân nhiệt huyết nào muốn vượt
qua thử thách.
2.2. Trong nước:


Quá trình phát triển chung .
Trước đây, điều kiện kinh tế, nhu cầu thụ hưởng và mức sống còn hạn
chế, trừ một số ít nguời có điều kiện về kinh tế và tiếp xúc nhiều bên ngoài, đại đa
số người dân tích góp tài chính trong thời gian dài làm việc, mong mỏi đóng góp
vào cho nhà nước được một khoảng tiền nhất định để xây dựng nên một ngôi trường
cho chính con em họ có một nơi chốn để tới trường. Do vậy việc xây dựng hoàn tất
chỉ dừng lại ở một mức độ nào nhất định, họ chưa hiểu rõ được bản chất bên trong
một ngôi trường có gì đơn thuần họ chỉ mong muốn con em họ có một nơi ăn học là
đủ, nên họ chưa cung cấp đầy đủ tất cả về mặt tài chính để tạo điều kiện tốt nhất về
một môi trường học tập. Rất nhiều công trình được tạo ra nhưng chưa đáp ứng được
nhu cầu cấp thiết về không gian,công cụ học tập vẫn còn rất sơ xài. Các cơ sở vật
chất hạ tầng vẫn chưa được phân chia chức năng sử dụng hợp lý cũng như điều kiện
về vật chất vẫn còn thiếu hụt. Các công trình riêng của mỗi cá nhân nào đó,họ đã tự

nghĩ ra tự thiết kế cho họ một không gian riêng của họ mà không cần đến sự tham
gia của các kiến trúc sư, nhà thiết kế, dẫn đén sự hỗn tạp về hình thức, kiến trúc và
không gian nhà ở.

• Quá trình phát triển của công tác thiết kế TTNT.

12


Hiện nay, kinh tế phát triển trình độ nhận thức và nhu cầu cải thiện điều
kiện sống ngày một bức thiết. Trong kiến trúc xây dựng, những quy chuẩn nhà nước
buộc các công trình phải có thiết kế từ các kiến trúc sư và các đơn vị có chức năng.
Các lý do trên đã thúc đẩy làm thay đổi quan điểm về nhu cầu xây dựng công trình
không chỉ ở mà phải đạt tiện nghi tối đa, đáp ứng mọi nhu cầu về công năng thẩm
mỹ và công năng tinh thần của nguời sử dụng. Đầu tư chi phí cho phần trang trí nội
thất, ngoại thất dần chiếm nhiều kinh phí hơn xây dựng cơ bản công trình. Trong
tương lai việc thiết kế trang trí nội ngoại thất công trình là bắt buộc, như vậy nhu
cầu trang trí nội ngoại thất là rất lớn và cấp thiết, liệu ngành thiết kế trang trí nội
thất có thể lớn mạnh, phát triển và đáp ứng kịp thời nhu cầu này của xã hội không ?
Trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới, chúng ta sẽ tiếp nhận
nhiều công nghệ xây dựng và sản xuất vật liệu tân tiến hiện đại, nguồn vật liệu
phong phú với giá thành cạnh tranh, do vậy người tiêu dùng càng có nhiều cơ hội
tiếp cận sử dụng để nâng cao chất lượng không gian học tập của mình, càng khẳng
định tính cấp thiết, vai trò và nhu cầu to lớn của trang trí nội ngoại thất và dụng cụ
cần thiết trong không gian của trường học ở lĩnh vực kiến trúc, xây dựng để chúng
ta không bị tụt hậu mà có thể lớn mạnh, tạo dựng được phong cách, khẳng định vị
thế nước ta trên trường quốc tế, nguời dân được hưởng môi trường, điều kiện học
tập, làm việc hiện đại để phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
3. Nhận xét và kế luận :
3.1. Nhận xét :


Nhìn chung tình hình thiết kế trang trí nội thất của thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng đang trên đà phát triển . Chúng đi từ cái hoang sơ , cơ bản cho
đến những hình thức trang trí thiết kế cầu kì phức tạp bởi đời sống không ngừng
thay đổi con người cũng cuốn theo đó yêu cầu thị hiếu , cái thẩm mĩ …cũng theo
nó mà phát triển .Xu hướng phát triển công tác thiết kế trang trí nội thất xưa và nay
có một đặc điểm chung đều phục vụ tính thẩm mỹ , nhu cầu của con người .
13


Xong công tác thiết kế trang trí nội thất hiện nay đang phát triển một cách
thiếu hệ thống không có một khuôn khổ nào , mệnh ai nấy chạy ,trăm hoa đua nở
chưa có tiếng nói chung .Hình thiết kế chủ yếu là theo hình thức nhà ở dân dụng và
phục vụ công nghiệp là chính .Chưa có nhiều hình thức mới và độc đáo sáng tạo ,
mức độ đột phá trong công tác của thiết kế đang còn chậm so với độ phát triển kinh
tế .
3.2. Kết luận:

Công tác phát triển công tác thiết kế trang trí nội thất của thế giới nói
chung đang phát triển với tốc dộ khá cao có nhiều ý tưởng hay và độc đáo. Đi
ngược với tình hình thiết kế trang trí của thế giới ở Việt Nam sự phát triển đó chưa
có sự đồng bộ. Nguồn nhân lực trong ngành thiết kế trang trí nội thất đào tạo ra
chưa có được ứng dụng thực tế đa phần là trên bản vẽ, thiết kế đắp đống không đưa
vào thực tế được .Sự phát triển nguồn nhân lực một cách tràn lan chưa có chất
lượng.Nói chung chưa bắt kịp so với thế giới nhưng hi vọng trong tương lai không
xa Việt Nam sẽ có những công trình tầm cỡ thế giới kiến trúc sư của Việt nam sẽ
không thua so thua những kiến trúc sư của Pháp, Mỹ, Anh…..vv
Về mặt chuyên ngành trong công tác thiết kế phải biết hài hòa, biết kết
hợp nhiều yếu tố màu sắc, ánh sáng, tiêu chí, tỷ lệ, cân bằng, trọng tâm ,trọng
điểm…vv và không quên yếu tố phong thủy. Không gian kiến trúc và không gian

nội thất nên tách rời, độc lập về mục đích cũng như yêu cầu sử dụng không gian
không nên đi ngược nhau về phong cách và ý tưởng chủ đạo của kiến trúc sư lẫn
nhà thiết kế nội thất, mà phải gắn với bảo mật thiết nhằm tạo tính thống nhất về ý
thủ pháp thiết kế của một công trình .
CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nội dung và phương pháp nghiên cứu thực hiện:

14


1.1. Nội dung:

- Tiến hành khảo sát một số loại hình không gian đang có hiện nay về kích
thước, phong cách thiết kế.
- Khảo sát kích thước các sản phẩm đặt trong không gian và kích thước người
sử dụng.
- Đề xuất ý tưởng lên bản vẽ thiết kế không gian theo các chỉ tiêu đã khảo sát
điều tra.
- Tính toán kinh phí xây dựng và trang trí nội thất cho không gian phù hợp với
mục đích yêu cầu đề ra khi thiết kế không gian.
* yêu cầu sử dụng:
Khi thiết kế không gian nội thất cần quan tâm đến việc là không gian đó phục
vụ vào mục đích gì và có đảm bảo yêu cầu sử dụng không? Yêu cầu sử dụng bao
gồm yêu cầu an toàn về chức năng, thuận tiện và tiện nghi trong sử dụng. Đối với
một không gian phục vụ cho học tập thì cần đảm bảo các chức năng như thông
thoáng, đầy đủ ánh sáng, gió, ….
Một điều quan trong khi thiết kế không gian là các sản phẩm đặt trong không
gian cần tìm hiểu về sản phẩm, để có thể thiết kế một không gian với kích thước
hợp lý với người sử dụng. từ đó đánh giá đúng được không gian có chức năng phù
hợp hay chưa rồi tính toán đến yêu cầu khác.

Để đảm bào yêu cầu sử dụng, ngoài những vấn đề nói trên ta cần đặc biệt lưu
ý đên việc thiết kế không gian nội thất sao cho phù hợp với điều kiện và nhu cầu
tâm sinh lý của đối tượng sử dụng.
Đặc biệt không gian khi hoàn thành thiết kế xây dựng cần đảm bảo sử dụng
lâu dài và bền vững. các trang thiết bị sử dụng cũng đảm bảo chức năng sử dụng
trong thời gian dài.
15


* yêu cầu về kinh tế:
Về vấn đề kinh tế, khi thiết kế một không gian ta cần tính đến việc không gian
đó có được ứng dụng xây dựng phổ biến rông rãi trong xã hội hay không. Vì thế khi
thiết kế muốn đảm bảo yêu cầu về kinh tế thì phải đảm bào yêu cầu về thẩm mỹ, sử
dụng vật liệu đảm bảo chất lượng và giá thành hợp lý. Một không gian đảm bảo
chất lượng và kinh phí hợp lý mang ý nghĩa kinh tế rất lớn và khả năng ứng dụng
cao hơn.
* yêu cầu thẩm mỹ:
Như trên đã nói yếu tố thẩm mỹ cũng là một yếu tố quan trọng khi tính toán
thiết kế một không gian. ở đây với một không gian học tập tính thẩm mỹ không đòi
hỏi quá cao nhưng cũng cần phù hợp với nhu cầu của đối tượng sử dụng, và không
có khuyết điểm gì sau khi thi công.
1.2. Phương pháp nghiên cứu:

Dựa trên quá trình khảo sát các loại hình không gian tương tự, các tài liệu liên
quan đến không gian đang thiết kế sẵn có tiến hành lên bản vẽ.
Áp dụng các kiến thức ergonomics vào thiết kế nội thất và đồ mộc, cũng với
các phần mềm hỗ trợ cho việc thực hiện bản vẽ như autocad, 3dsmax,… đem đến
một bài làm hoàn chỉnh.

2. Khảo sát một số loại hình không gian trang trí nội thất tương tự:


Dưới đây là một số loại hình không gian tương tự khảo sát trong khu vực TP.
HCM:
16


Hình 1.
Trường tiểu học Hoàng Diệu nằm ở đường: số 33 Lê Văn Chí, P.Linh Trung,
Q.Thủ Đức, TP.Hồ Chí Minh. Ngôi trường nằm ở gần vị trí trung tâm quận thủ đức.
Có đường xá đi lại thuận lợi, và đồng thời gần siêu thị coop.max ngã tư Thủ Đức,
bệnh viện Thủ Đức và chung cư Linh Trung. Ở đó có môi trường giáo dục tốt sẽ là
điều kiện tốt để phát triển nhân cách cho học sinh. Các em sẽ thấy được "Mỗi ngày
đến trường học là một ngày vui", bản thân các em thêm yêu và gắn bó với trường

17


lớp hơn. Chính vì vậy Liên đội đã phối hợp với nhà trường tổ chức Hội thi trang trí
lớp học.

Hình 2.
Phòng học này nằm ở ngôi trường Phước Long A, Hồ Bá Phấn, Phước Long
A, Quận 9, Hồ Chí Minh. Ngôi trường này có nhiều bàn ghế trong lớp học được sắp
xếp gọn gàng, tủ đồ dùng học tập xinh xắn. Phía trên tấm bảng đen là khẩu hiệu:
“Thi đua dạy thật tốt, học thật tốt”. Vì vậy, các em luôn tuân thủ quy định của nhà
trường và nghe lời cô giáo.
Ngôi trường này có nhiều bóng mát cây xanh và ghế đá ở sân trường, cho các
em có bóng mát vui chơi. Tạo cho các em có cảm giác yêu quý trường và các em
luôn đến trường mỗi ngày để được học, vui chơi, nô đùa cùng bạn bè cùng trang
18



lứa. Vào giờ ra chơi, các em ra sân chơi với nhau các trò chảy dây, đánh bóng dưới
những tán cây phượng ngoài sân. Thích nhất là được nhặt hoa phượng ép vào trang
vở mỗi khi hè về.
Phụ huynh có con em đi học trường này, tin tưởng về đào tạo quản lý học sinh
của thầy cô, giáo.

Hình 3.
Trường tiểu học Kỳ Đồng nằm trên đường: 24 Kỳ Đồng, phường 9, Quận 3,
Hồ Chí Minh.Ở đây không gian phòng học được thiết kế khang trang, hiện đại.

19


Phòng học được thiết gam màu trắng sáng, sang trọng, khang trang, cơ sở vật
chất hiện đại, đầy đủ, đúng chuẩn là một trong những thước đo quan trọng về chất
lượng hoạt động và giáo dục của nhà trường.
Phòng học có hệ thống đèn led hiện đại, khung mành chiếu trực diện tạo lên
tầm view tốt nhất cho học viên.
Để giảm bớt căng thẳng trong phòng học được treo thêm những khung tranh
hình vuông, và tạo thêm điểm nhất cho căn phòng.
Với những nội thất trường học, trung tâm đào tạo đẹp và trang thiết bị trường
học hiện đại là yếu tố quan trọng làm tăng chất lượng đào tạo, lượng học sinh cho
các trường.
3. Khảo sát một số sản phẩm nội thất dùng trong phòng học tiểu học:

Sản phẩm nội thất sử dụng chủ yếu trong phòng học tiểu học thường là bàn
ghế dành cho học sinh và bàn ghế cho giáo viên. Ngoài ra còn trang bị một số vật
dụng khác như tủ đựng tài liệu hay kệ sách …

Dưới đây là một số sản phẩm khảo sát:
* Bàn ghế học sinh:

Hình 4. Sản phẩm bàn ghế đơn
20


Hình 5. Sản phẩm bàn ghê đôi.
* Bàn giáo viên:

21


Hình 6.
-

-

-

Tên sản phẩm: Bàn giáo viên BGV 101.
Kiểu dáng:
+ Bàn hình chữ nhật
+ Có ngăn kéo đựng tài liệu và kệ để cây CPU.
Kích thước: Chiều dài 1200mm, chiều rộng 600mm, chiều cao 750mm.
Chất liệu:
+ Bàn làm từ gỗ công nghiệp phủ Melamine (MFC) cao cấp nhập khẩu chống
cháy, chống trầy xước, chống thấm nước, dễ vệ sinh lau chùi.
+ Khung chân bàn là ống thép phi 30x30 sơn tĩnh điện.
Màu sắc: Màu Melamine BU07


22


Hình 7.
-

Tên sản phẩm: Bàn giáo viên BGV06
Kiểu dáng: hình chữ nhật
Kích thước: 1400x600x1000 (mm)
Màu sắc: Màu vân gỗ tự nhiên
Khung gỗ verneer sáng bóng, chống chầy xước
Chất liệu: ván MDF phủ verneer

23


Hình 8.
-

-

-

Tên sản phẩm: Bàn giáo viên BGV03
Kích thước: 1200 x 600 x 750m.
Kiểu dáng
+ Bàn hình chữ nhật
+ Có ngăn kéo đựng tài liệu
Chất liệu:

+ Ván gỗ ghép dày 15mm phủ sơn PU 3 lớp.
+ Chân sắt chữ nhật 25x50mm, 20x40mm.
Màu sắc: phủ sơn PU

* Ghế giáo viên:

24


Hình 9.
+ Ghế giáo viên khung sắt sơn tĩnh điện không chì, phần gỗ ghép cao su 18ly
+ Kích thước: 0.4x0.85x0.45

25


×