MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, tình hình kinh tế xã hội nước ta đã có những bước
phát triển mạnh mẽ, kéo theo sự thay đổi về mọi mặt trong đời sống
xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị
trường mang lại thì mặt trái của cơ chế thị trường đã có những tác
động tiêu cực đến đời sống xã hội như: sự tha hoá trong lối sống, tệ
nạn xã hội và đặc biệt là tội phạm có điều kiện phát sinh, tồn tại.
Trong đó, có tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đây là một trong những
tội xâm phạm sở hữu có diễn biến phức tạp, ngày càng gia tăng với
nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.
Với diễn biến phức tạp của loại tội phạm này, các cơ quan THTT
của TP Đà Nẵng, mặc dù đã nỗ lực nhưng vẫn còn những hạn chế nhất
định như: chưa kịp thời, chưa toàn diện và từ đó mới chỉ đáp ứng phần
nào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc nghiên cứu tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản dưới một góc nhìn thực tiễn tại địa phương
không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa
trong thực tiễn áp dụng của công tác định tội danh và QĐHP, nhằm
đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt
Nam. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”
để nghiên cứu làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, các tội xâm phạm sở hữu đã được đề cập
trong một số công trình khoa học nghiên cứu về luật hình sự, trong
các tập bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến
1
sĩ của một số tác giả nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài
xâm phạm sở hữu trên các phương diện khác nhau, như luận án tiến
sĩ của Đặng Quang Phúc về “Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, hay một số
luận văn thạc sĩ như luận văn của tác giả Dương Thị Ngọc Thuỷ về
“Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh”; luận văn của tác giả Trần Thị Phương Hiền
về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”. Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí của Toà
án, Viện kiểm sát… Qua nghiên cứu, nhìn chung các tác giả đã đề
cập khá sâu sắc và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội
phạm này; phân biệt rõ các trường hợp phạm tội này với một số tội
phạm khác có chung đặc điểm là dấu hiệu gian dối. Tuy nhiên, chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản từ thực tiễn TP Đà Nẵng dưới góc độ pháp lý hình sự. Cụ thể
hơn, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập vấn đề định tội
danh và quyết định hình phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực
tiễn TP Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
QĐHP đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Đà
Nẵng để đưa ra những đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
pháp luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, nêu và phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Phân tích quy định về dấu hiệu định
khung đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
hiện hành; Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác; Khái quát lịch sử lập pháp
hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
2
Hai là, trình bày những vấn đề lý luận về áp dụng các quy định
đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn TP Đà Nẵng trong
05 năm từ năm 2012 đến năm 2016.
Ba là, nêu và phân tích các yêu cầu đối với áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy các quan điểm khoa
học pháp lý hình sự, các quy định của pháp luật hình sự, thực tiễn
định tội danh và thực tiễn QĐHP đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn TP Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình
sự. Luận văn tập trung phân tích thực tiễn hoạt động định tội danh
cũng như QĐHP đối với loại tội phạm này trên địa bàn TP Đà Nẵng
trong thời gian từ năm 2012-2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng ta về Nhà nước và pháp luật, về tội phạm, hình phạt và về
phòng ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tổng hợp, phương
pháp thống kê, phương pháp lịch sử và hệ thống, phương pháp phân
tích và so sánh,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, sâu
sắc với cái nhìn tổng quan nhất, đặt trong mối quan hệ biện chứng
các vấn đề lý luận góp phần làm phong phú thêm lý luận nhận thức
về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài này được nghiên cứu và đánh giá
3
một cách khách quan, toàn diện qua thực tiễn hoạt động định tội danh
và thực tiễn QĐHP của cơ quan THTT đối với tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng. Đánh giá về thực trạng các vấn đề
tích cực cần phát huy và qua nghiên cứu phát hiện được những hạn
chế, tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hoạt
động tố tụng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục bảng biểu, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Áp dụng các quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và phân biệt tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm khác
1.1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khoa học luật hình sự đã đưa ra khái niệm chung với các tội
xâm phạm sở hữu như sau: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS; do người có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến
quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
4
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội phạm xâm
phạm sở hữu. Vì vậy, khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải
thoả mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời
phải thoả mãn các dấu hiệu đặc thù riêng.
Có thể hiểu khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở
hữu, có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của
người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản”.
Tội phạm là thể thống nhất của bốn yếu tố: Khách thể; Mặt
khách quan; Chủ thể; Mặt chủ quan.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
1.1.2.1. Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ xâm phạm đến
quan hệ sở hữu. Nếu sau khi đã chiếm đoạt được tài sản, người phạm
tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người
hoặc gây thương tích... thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người
phạm tội còn phải bị truy cứu TNHS về tội giết người hoặc tội cố ý
gây thương tích...
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Các dấu hiệu đặc trưng của mặt khách quan:
a. Dấu hiệu hành vi khách quan
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội dùng thủ đoạn
gian dối làm cho người có tài sản tin đó là sự thật nên đã tự nguyện
giao tài sản cho người có hành vi gian dối.
5
Đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người bị
hại tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội vì tin tưởng vào những
thông tin không đúng sự thật ấy. Để thực hiện được hành vi chiếm
đoạt tài sản thì người phạm tội phải có ý định chiếm đoạt tài sản từ
trước, sau đó mới dùng thủ đoạn gian dối.
Hành vi chiếm đoạt tài sản: Coi là chiếm đoạt được khi:
Thứ nhất: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu
của chủ tài sản thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi nhận tài sản từ
người bị lừa dối.
Thứ hai: Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của
người phạm tội thì hành vi chiếm đoạt được là hành vi giữ lại tài sản
đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối.
b. Dấu hiệu hậu quả
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất. Đối
với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi có hậu quả xảy ra thì tội phạm
hoàn thành.
c. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
Mối quan hệ nhân quả trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
hiểu như sau: Thủ đoạn gian dối phải diễn ra trước hành vi chiếm
đoạt tài sản; Hành vi gian dối là cơ sở chủ yếu quyết định việc chiếm
đoạt được tài sản của người phạm tội.
1.1.2.3. Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi
luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Chỉ những người
có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là
chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thoả mãn cả về
độ tuổi, đó là người từ 14 tuổi trở lên.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Những dấu hiệu cơ bản của mặt chủ quan của tội phạm là: Lỗi,
động cơ và mục đích phạm tội.
6
* Dấu hiệu lỗi trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi mà mình thực hiện là xâm phạm sở hữu của người
khác, nhận thức rõ thủ đoạn gian dối đưa ra hoàn toàn không có thật.
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hành vi lừa dối có kết quả
là chiếm đoạt được tài sản của người khác.
* Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội:
Động cơ phạm tội được hiểu là động cơ bên trong thúc đẩy
người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người
phạm tội hướng tới nhằm đạt được khi thực hiện tội phạm.
1.1.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội
phạm khác
1.1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Hai tội này chỉ khác nhau về mặt khách quan.
Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội có mục đích
chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện việc ký kết hợp đồng. Hành vi
gian dối của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cơ sở quyết định việc
chiếm đoạt tài sản nên hành vi gian dối là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội
nhận tài sản một cách ngay thẳng. Sau khi nhận được tài sản, người
phạm tội mới thực hiện hành vi gian dối. Như vậy, mục đích chiếm
đoạt nảy sinh sau khi nhận được tài sản trên cơ sở hợp đồng.
1.1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạn tài sản với tội trộm
cắp tài sản
Điểm khác nhau cơ bản của hai tội này đó là về hành vi khách
quan: Trộm cắp tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn lén lút
còn lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn
gian dối.
7
1.1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội cướp
giật tài sản
Điểm khác nhau giữa hai tội này, trước hết là về khách thể của
tội phạm - Khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở
hữu, còn khách thể của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu và
quan hệ nhân thân. Về mặt khách quan - Hành vi khách quan của tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, còn
ở tội cướp giật tài sản là hành vi công khai, nhanh chóng chiếm đoạt
tài sản. Về dấu hiệu hậu quả: Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
thiệt hại về tài sản được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP.
Còn đối với tội cướp giật tài sản do tính chất nguy hiểm cao của tội
phạm nên dấu hiệu hậu quả không được phản ánh trong CTTP, mà
chỉ cần có hành vi cướp giật đã là phạm tội.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm pháp
luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đã ban hành
những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm
phạm tài sản XHCN, như: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946; Sắc
lệnh số 223-SL ngày 27/11/1946; Sắc lệnh số 267-SL ngày
15/6/1956... Năm 1970, Nhà nước đã ban hành 2 Pháp lệnh vào ngày
23/10/1970. Đó là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
XHCN do Lệnh số 149-LCT và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm
tài sản riêng của công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do
Lệnh số 150-LCT công bố. Ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính phủ
Cách mạng lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 03-SL/76.
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước năm 1999
Ngày 09/7/1985, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội khóa VI
8
ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986. Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản XHCN được quy định tại Điều 134 BLHS. Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản của công dân được quy định tại Điều 157
BLHS. Qua quá trình áp dụng, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi 04
lần vào các năm 1990, 1991, 1993 và 1997. Dù qua nhiều lần sửa đổi
bổ sung, BLHS năm 1985 vẫn duy trì 2 Chương về các tội xâm phạm
sở hữu - XHCN và công dân.
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 1999 (Bộ luật hình sự 1999 có hiệu
lực) đến nay
Tại kỳ họp thứ VI, Quốc hội khóa 10, BLHS mang số hiệu
15/1999/QH10 đã được thông qua (gọi tắt là Bộ luật hình sự năm
1999), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2000. BLHS năm 1999
đã nhập hai chương (Chương IV và Chương V) của BLHS 1985
thành Chương XIV với tên gọi “Các tội xâm phạm sở hữu” và tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139.
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật số 37/2009/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong đó, tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 đã nâng mức giá trị tài
sản bị chiếm đoạt ở cấu thành cơ bản từ 500.000 đồng (BLHS 1985)
lên 2.000.000 đồng và bỏ hình phạt tử hình ở khoản 4.
1.2.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự
hiện hành
1.2.2.1. Cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 139 Bộ luật
hình sự 1999)
Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo CTTP cơ bản
khi thoả mãn một trong hai dấu hiệu sau:
Thứ nhất, chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng.
Thứ hai, chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới hai
9
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài
sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
1.2.2.2. Cấu thành tội phạm tăng nặng thứ nhất (khoản 2 Điều
139 Bộ luật hình sự 1999)
Thứ nhất: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “có tổ chức”.
Thứ hai: Lừa đảo tài sản “có tính chất chuyên nghiệp”.
Thứ ba: Người phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”.
Thứ tư: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa
cơ quan, tổ chức.
Thứ năm: Dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Thứ sáu: Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng
đến dưới hai trăm triệu đồng.
Thứ bảy: Gây hậu quả nghiêm trọng.
1.2.2.3. Khung tăng nặng thứ hai (khoản 3 Điều 139 Bộ luật
hình sự 1999)
Ngoài tình tiết chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng
đến dưới năm trăm triệu đồng, thì tình tiết lừa đảo chiếm đoạt tài sản
“gây hậu quả rất nghiêm trọng” được hiểu là trường hợp hành vi tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây thiệt hại về thể chất, về tài sản,
thiệt hại phi vật chất cho người bị hại cũng như cho xã hội.
1.2.2.4. Khung tăng nặng thứ ba (khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình
sự 1999)
Theo khoản 4 Điều 139 BLHS 1999, cấu thành tội phạm này
ngoài các dấu hiệu định tội còn có một trong những các dấu hiệu:
“a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.
Tình tiết “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” được hiểu là
trường hợp hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã gây ra
những thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất cho người
10
bị hại cũng như cho xã hội lớn hơn so với trường hợp “gây hậu quả
rất nghiêm trọng”.
1.2.2.5. Hình phạt bổ sung (khoản 5 Điều 139 Bộ luật hình sự
1999)
Theo quy định tại khoản 5 Điều 139 BLHS thì ngoài hình phạt
chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến
một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
một năm đến năm năm.
CHƯƠNG 2
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng
2.1.1. Các yêu cầu đối với định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản
a. Cần nắm vững khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của định tội danh
Khái niệm định tội danh được hiểu như sau: Định tội danh là
một quá trình nhận thức lý luận có tính lôgic, đồng thời là một trong
những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và
pháp luật TTHS, trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được phản
ánh các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và
kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp của chúng với các dấu hiệu của
CTTP cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định.
Từ nội dung khái niệm nêu trên, ta thấy định tội danh có những
đặc điểm sau: Thứ nhất, là một quá trình nhận thức có tính lôgic giữa
lý luận và thực tiễn. Thứ hai, phải tuân thủ nghiêm luật nội dung là
BLHS cũng như luật hình thức là BLTTHS. Thứ ba, là một dạng hoạt
động của các cơ quan THTT để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật.
11
Thứ tư, là một dạng của hoạt động thực tiễn được tiến hành theo 4
bước sau: Bước 1 - Thiết lập, xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ
án; Bước 2 - Nhận thức một cách thống nhất và chính xác các dấu
hiệu của CTTP về tội danh có hướng lựa chọn; Bước 3 - So sánh, đối
chiếu hai quá trình ở bước 1 và bước 2; Bước 4 - Ra bản án và các
quyết định có căn cứ, bảo đảm sức thuyết phục về 3 bước trên để xác
định tội danh cần áp dụng.
- Ý nghĩa của định tội danh được quyết định bởi hai xu hướng:
định tội danh đúng hoặc định tội danh sai.
+ Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hóa TNHS và cá
thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ pháp luật.
+ Định tội danh sai sẽ dẫn đến việc QĐHP sai. Những vụ việc
oan sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện,
thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt giam, suy diễn chủ quan.
b. Cần nắm vững lý luận định tội danh trong các trường hợp
phạm tội khác nhau
+ Định tội danh theo khách thể của tội phạm: Căn cứ vào khách
thể chung, người định tội danh xác định người thực hiện hành vi có
phạm tội hay không. Trong thực tế, đòi hỏi người định tội danh phải
tự xác định khách thể một cách gián tiếp thông qua xem xét và phân
tích các thành phần khách thể của tội phạm.
+ Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm, đó là: Hành
vi phạm tội, hậu quả nguy hại và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
phạm tội và hậu quả xảy ra.
+ Định tội danh theo chủ thể của tội phạm, đó là: Năng lực
TNHS, lứa tuổi, chủ thể đặc biệt.
+ Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi,
động cơ và mục đích phạm tội.
- Định tội danh theo CTTP tăng nặng: Quy phạm pháp luật hình
sự về CTTP tăng nặng mô tả đầy đủ và chính xác các dấu hiệu của tội
12
phạm, dựa vào đó phân biệt được khung hình phạt này với khung
hình phạt khác, để lựa chọn khung hình phạt thích hợp.
- Định tội danh đối với hành vi phạm tội chưa hoàn thành: Là
hoạt động định mức độ, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Việc
định tội danh đối với hành vi phạm tội chưa hoàn thành hay tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội, căn cứ của pháp luật hình sự để định
tội danh một cách phù hợp.
- Định tội danh trong trường hợp đồng phạm: Việc xác định yếu
tố đồng phạm trong định tội danh có thể phân biệt được dấu hiệu về
lượng và dấu hiệu về chất trong từng tội phạm cụ thể và làm rõ được
vị trí, vai trò của từng đối tượng phạm tội.
- Định tội danh trong trường hợp có nhiều tội: Là trường hợp tội
phạm xâm phạm đến nhiều khách thể được luật hình sự bảo vệ.
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2.1.2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo cấu thành tội phạm cơ bản
Các tình tiết là yếu tố định tội gồm:
Thứ nhất: Chiếm đoạt tài sản dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng. Thứ hai: Chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2 triệu
đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt. Thứ ba:
Chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Qua khảo sát thực tế hoạt động định tội danh theo khoản 1 Điều
139 BLHS 1999 trên địa bàn TP Đà Nẵng cho thấy, các đối tượng
phạm tội chủ yếu là những người có nghề nghiệp tương đối ổn định,
từ 18 tuổi trở lên, số ít người phạm tội này ở độ tuổi chưa thành niên.
2.1.2.2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo cấu thành tăng nặng
a. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2
Điều 139 Bộ luật hình sự 1999
13
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì thuộc
khoản 2 Điều 139 BLHS 1999: Có tổ chức; Có tính chất chuyên
nghiệp; Tái phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi
dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng; Gây hậu quả nghiêm trọng.
Tại TP Đà Nẵng trong 5 năm qua (từ năm 2012-2016), số bị cáo
định tội danh theo khoản 2 Điều 139 BLHS 1999 chiếm 34,9% và đa
số rơi vào trường hợp “Có tổ chức; Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ
năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”, một số ít là “Tái
phạm nguy hiểm; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn”.
b. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3,
khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999
Định tội danh theo khoản 3 Điều 139 BLHS thuộc một trong các
trường hợp sau đây: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu
đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng”.
Định tội danh theo khoản 4 Điều 139 BLHS thuộc một trong các
trường hợp: “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở
lên; Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.
Đây là các dấu hiệu định khung tăng nặng theo quy định tại
khoản 3 và khoản 4 của điều luật.
Từ thực tiễn hoạt động định tội danh theo khoản 3, khoản 4 Điều
139 BLHS tại TP Đà Nẵng, tác giả thấy hoạt động này của các cơ
quan THTT khá chính xác, đã xác định đúng và đầy đủ các yếu tố
như khách thể bị xâm phạm, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, các
phương thức, thủ đoạn phạm tội, mức độ thiệt hại và hậu quả gây
ra,... trên cơ sở đó định tội danh và QĐHP một cách chính xác. Trong
05 năm qua (2012-2016), tại TP Đà Nẵng, số bị cáo phạm tội theo
khoản 3 Điều 139 BLHS 1999 chiếm 5,7%. Bị cáo phạm tội theo
khoản 4 Điều 139 BLHS là 20,2%.
14
2.1.2.3. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trong những trường hợp đặc biệt
a. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được
thực hiện bằng đồng phạm
Pháp luật hình sự nước ta quy định nguyên tắc phân hóa TNHS
và cá thể hóa hình phạt đối với mỗi người trong đồng phạm. Khi định
tội danh trong trường hợp có đồng phạm thì phải căn cứ vào mức độ
tham gia của từng người trong tội phạm và xác định trách nhiệm đối
với đồng phạm trong tội phạm.
Trong quá trình định tội danh có đồng phạm thì cũng cần phân
biệt các loại đồng phạm: đồng phạm giản đơn, đồng phạm phức tạp,
phạm tội có tổ chức... từ đó giúp cho việc định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản có đồng phạm được chính xác.
b. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
trường hợp phạm nhiều tội
Đây là trường hợp một người thực hiện hành vi của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản và thực hiện hành vi của một hoặc nhiều tội phạm
khác. Các hành vi thực hiện tội phạm của một người phải có đầy đủ
các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà các tội ấy được quy định tại
các điều khác nhau trong BLHS.
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Các yêu cầu đối với quyết định hình phạt đối với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
a. Cần nắm vững khái niệm, các đặc điểm và ý nghĩa của quyết
định hình phạt
QĐHP là việc Toà án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án
phải chấp hành.
Quyết định hình phạt có các đặc điểm sau đây:
15
Thứ nhất: QĐHP là hoạt động thực tiễn của Toà án do hoạt động
xét xử thực hiện, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự.
Thứ hai: Trong QĐHP, Toà án quyết định miễn TNHS, miễn
hình phạt hoặc xác định khung hình phạt, quyết định loại và mức
hình phạt hay biện pháp tư pháp thay thế hình phạt cụ thể được quy
định trong luật hình sự.
QĐHP có ý nghĩa vô cùng to lớn. QĐHP đúng, là cơ sở pháp lý
để đạt được mục đích của hình phạt.
b. Cần nắm vững các căn cứ và nguyên tắc của quyết định hình phạt
Căn cứ quyết định hình phạt, gồm:
Thứ nhất - Căn cứ vào các quy định của BLHS: Quy định của
BLHS là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để Toà án định tội danh và
xác định khung hình phạt.
Thứ hai - Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội: Dựa vào căn cứ này, Toà án có thể lựa chọn
hình phạt cụ thể để tuyên cho người phạm tội.
Thứ ba - Căn cứ vào nhân thân người phạm tội: Nhân thân
người phạm tội không chỉ phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội mà còn phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục họ.
Thứ tư - Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng TNHS hoặc các tình
tiết giảm nhẹ TNHS: Đây là những tình tiết được quy định cụ thể tại
Điều 46 và Điều 48 BLHS.
Nguyên tắc quyết định hình phạt bao gồm: Nguyên tắc thứ nhất:
Nguyên tắc pháp chế XHCN. Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc nhân
đạo XHCN. Nguyên tắc thứ ba: Nguyên tắc cá thể hoá hình phạt.
Nguyên tắc thứ tư: Nguyên tắc công bằng.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Từ năm 2012-2016, TAND hai cấp TP Đà Nẵng đã xét xử được
305 vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản với 332 bị cáo, trong đó có 09 bị
16
cáo bị xử phạt tù chung thân. 27 bị cáo bị xử phạt tù từ trên 15 năm
đến 20 năm. 58 bị cáo bị xử phạt tù từ trên 7 năm đến 15 năm. 101 bị
cáo bị xử phạt tù từ trên 3 năm đến 7 năm. 95 bị cáo bị xử phạt tù từ
3 năm trở xuống (trong đó cho hưởng án treo 37 bị cáo bị áp dụng
hình phạt theo khoản 1 và khoản 2). Cải tạo không giam giữ là 42 bị
cáo.
2.2.2.1. Thực tiễn quyết định hình phạt theo khoản 1 Điều 139
Bộ luật hình sự năm 1999
Tại TP Đà Nẵng, số bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
bị kết án áp dụng tại khoản 1 Điều 139 trong 5 năm (2012-2016) là
130 bị cáo, chiếm tỷ lệ 39,2%.
2.2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm
tăng nặng
a. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999
5 năm qua (2012-2016) áp dụng khoản 2 là 116 bị cáo, chiếm
34,9%. Các vụ án đã xét xử, TAND hai cấp TP Đà Nẵng thực hiện
tốt, không để xảy ra sai sót trong hoạt động QĐHP theo khoản này.
b. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo khoản 3, khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999
Số bị cáo bị áp dụng có khung hình phạt tại khoản 3 là 19 bị cáo,
chiếm tỷ lệ 5,7%. Qua khảo sát, khi QĐHP TAND hai cấp TP Đà
Nẵng đã căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
và tăng nặng TNHS để đưa ra hình phạt hợp lý. Một số trường hợp
TA áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 07 năm)
nhưng không dưới 02 năm tù khi người phạm tội có từ 2 tình tiết
giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS.
Khoản 4 Điều 139 BLHS quy định chế tài lựa chọn từ 12 đến 20
năm tù, tù chung thân. Qua khảo sát thực tế tại TP Đà Nẵng, số bị cáo
17
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt theo khoản 4
là 67 bị cáo, chiếm tỷ lệ 20,2%.
Hoạt động QĐHP theo khoản 4 Điều 139 BLHS đã được TAND
thành phố Đà Nẵng áp dụng một cách cẩn trọng, phần lớn các vụ án
đều rơi vào trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị trên 500 triệu
đồng và đa số thuộc lĩnh vực liên quan đến bất động sản.
2.2.2.3. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong trường hợp đồng phạm
Khi QĐHP, các Tòa án luôn xem xét đến tính chất của đồng
phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng
phạm. Ngoài ra còn áp dụng cá thể hóa TNHS, như: Nghiêm trị
người chủ mưu, cầm đầu, tái phạm nguy hiểm,... Khoan hồng đối với
người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm...
2.2.2.4. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong trường hợp phạm nhiều tội
Thực tiễn xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong trường hợp
phạm nhiều tội trên địa bàn TP Đà Nẵng xảy ra rất ít. Trong trường
hợp này, Toà án đã áp dụng Điều 50 BLHS để QĐHP.
2.2.2.5. Quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội
Thực tiễn xét xử trong trường hợp người chưa thành niên phạm
tội trên địa bàn TP Đà Nẵng là những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài
sản sử dụng những thủ đoạn gian dối đơn giản, với trị giá tài sản bị
chiếm đoạt không lớn.
2.3. Những vi phạm, sai lầm trong hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và
các nguyên nhân
2.3.1. Những vi phạm, sai lầm
Tuy không phổ biến nhưng vẫn có một số vi phạm, như: Trong
thực tế xét xử án HSST, những sai sót hạn chế trong việc định tội
18
danh thường là Tòa án đã so sánh, đánh giá không đúng về những
tình tiết của vụ án với những căn cứ để định tội danh. Những sai sót
này mặc dù không gây hậu quả nặng nề như việc kết án oan người vô
tội, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nó không nghiêm trọng
mà nhất là những trường hợp hình phạt được áp dụng khi đã thi hành
rồi thì không thể thay đổi được. Việc định tội danh không đúng của
Tòa án dẫn đến việc QĐHP không tương xứng với tội phạm đã thực
hiện, làm ảnh hưởng tiêu cực đến dư luận xã hội.
2.3.2. Các nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm
Về nguyên nhân chủ quan: Trình độ, năng lực của Thẩm phán
chưa đồng đều, một số Thẩm phán ý thức trách nhiệm chưa cao, chưa
tích cực nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ chuyên môn; Hội
thẩm nhân dân còn hạn chế về kiến thức pháp luật.
Về nguyên nhân khách quan: Văn bản hướng dẫn áp dụng tình
tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS chưa kịp thời, đặc biệt là tình tiết
giảm nhẹ. Khung hình phạt quá rộng, vì vậy dẫn tới việc QĐHP khi
thì quá nhẹ, lúc thì quá nặng.
CHƯƠNG 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
3.1. Các yêu cầu đối với áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.1.1. Yêu cầu tuân thủ quy định của Hiến pháp năm 2013 về
quyền con người, quyền cơ bản của công dân
Hiến pháp công nhận, ghi nhận các quyền của con người, của
19
công dân. Để con người, công dân thực hiện tốt các quyền thì Nhà
nước ban hành luật, pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho công
dân, con người thực hiện các quyền.
3.1.2. Yêu cầu bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực
tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của TA thì
không ai bị coi là có tội. Bảo đảm pháp chế trong hoạt động định tội
danh và QĐHP là bảo đảm việc chứng minh tội phạm khách quan,
toàn diện và góp phần nhanh chóng tìm ra sự thật của vụ án.
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm công lý, công bằng xã hội và phòng
ngừa tội phạm trong xử lý tội và người phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
Công lý, công bằng và pháp luật có mối quan hệ khăng khít, bao
hàm lẫn nhau, đặc biệt trong xã hội hiện đại. Pháp luật cần phản ánh
đầy đủ nhu cầu, lợi ích của toàn xã hội và phải chuyển tải đầy đủ
những giá trị tiến bộ của lương tri, đạo đức, nhân đạo, dân chủ, công
lý, công bằng, lẽ phải, bảo đảm và bảo vệ các quyền con người.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nguyên nhân và điều kiện từ
chính những vấn đề kinh tế - xã hội. Do đó, phòng ngừa tội phạm tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản trước hết phải bắt đầu từ những biện pháp
kinh tế - xã hội. Khi các lực lượng chuyên trách trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm được hưởng chính sách thoả đáng, các trang
thiết bị phục vụ cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm được
nâng cao sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động của các cơ quan thực thi
pháp luật, có ý nghĩa lớn trong phòng ngừa tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn.
20
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
3.2.1. Nâng cao nhận thức lý luận và pháp luật về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản
Tâm lý tiêu cực, vụ lợi, sự tham lam, ích kỷ,... không phải có sẵn
trong con người, vì vậy cần phải quan tâm tới vấn đề giáo dục con
người trong xã hội, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật. Đưa các vụ
án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ra xét xử lưu động để tuyên
truyền ý thức cảnh giác, nâng cao hiểu biết pháp luật trong nhân dân.
3.2.2. Tăng cường hoàn thiện pháp luật và chuẩn bị áp dụng
tốt quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản
* Những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện BLHS năm 2015:
Một là, việc áp dụng tình tiết “đã bị kết án”, “đã bị xử phạt vi
phạm hành chính” làm tình tiết định khung hình phạt, làm nặng hơn
tình trạng của bị can, bị cáo và bất hợp lý. Các nhóm tội phạm khác
không quy định tình tiết này làm tình tiết định khung hình phạt mà
chỉ có 04 tội danh trong nhóm tội xâm phạm sở hữu.
Hai là, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với sự tham gia
bình đẳng của các thành phần kinh tế, phải đối mặt với nhiều hiện
tượng tiêu cực gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, thậm chí đặc
biệt nghiêm trọng cho xã hội. Những hậu quả đó không phải do một
hoặc những cá nhân nào đó mà chủ yếu là do tập thể (Hội đồng quản
trị) các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác nhau gây ra, nếu chỉ
truy cứu TNHS một số cá nhân điều hành, thay mặt tổ chức là chưa
đạt được mục đích răn đe, phòng ngừa và không công bằng.
Ba là, thực tế đã phát sinh các hình thức lừa đảo mới như: Lừa
đảo qua hình thức kinh doanh đa cấp; Lừa đảo qua mạng Internet...
21
Vì vậy, tính chất pháp lý truyền thống của tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản đã có sự thay đổi, cần phải bổ sung kịp thời các dấu hiệu pháp lý.
3.2.3. Tăng cường và nâng cao chất lượng hướng dẫn áp dụng
pháp luật hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT đã được ban hành cách đây
hơn 15 năm, trong khi BLHS năm 1999 đã có những sửa đổi, bổ sung
một số điều trong Chương “Các tội xâm phạm sở hữu”, nhưng cũng
chưa có Thông tư liên tịch nào khác hướng dẫn về vấn đề này. Vấn
đề định giá tài sản, việc thẩm định giá tài sản cũng rất phức tạp, nhất
là dấp dính giữa định lượng tài sản với việc có tội hay không có tội.
Để đảm bảo tính ổn định của văn bản pháp luật, có thể quy định hoặc
hướng dẫn áp dụng pháp luật về định lượng trong trường hợp có biến
động, thay đổi về giá trị của tài sản.
3.2.4. Tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Để góp phần quan trọng vào việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
BLHS năm 2015, TAND tối cao cần tổ chức tổng kết thực tiễn áp
dụng Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS năm 1999
và tổng kết việc áp dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT về các
tội xâm phạm sở hữu.
3.2.5. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật
Cần phải thực hiện rà soát đội ngũ cán bộ để lên kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng thích hợp.
Tổ chức tập huấn, học tập những chuyên đề về chuyên môn
nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho cán bộ tư pháp.
Thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị và
phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ công
chức trong hệ thống Tòa án nhân dân” gắn với phương châm “Phụng
công, thủ pháp, chí công, vô tư”.
22
3.2.6. Các giải pháp khác
Toà án cần phối hợp chặt chẽ với Công an, Viện kiểm sát làm tốt
công tác thi hành án phạt tù.
Toà án các cấp cần tạo điều kiện thuận lợi cho Hội thẩm nhân
dân thực hiện nhiệm vụ.
Đối với các cơ quan thi hành án hình sự cần làm tốt công tác
giam giữ, cải tạo đối tượng phạm tội.
23
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP Đà Nẵng, bước đầu luận văn đã cố
gắng làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn để từ đó tìm ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng,
chống loại tội này trên địa bàn thành phố. Kết quả đạt được trong quá
trình nghiên cứu, tác giả xin đi tới một số kết luận sau:
Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn TP Đà
Nẵng trong những năm vừa qua có xu hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp. Tuy chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số tội phạm nhưng
mức độ nguy hiểm cho xã hội là rất lớn.
Với đặc trưng là dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản,
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thường có tỷ lệ đồng phạm cao. Người
phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có nhu cầu cao hơn so với khả
năng của mình. Lợi ích của họ trái ngược với lợi ích của cộng đồng
vì vậy đã thúc đẩy họ đi vào con đường phạm tội.
Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, tác giả đi sâu phân tích những vấn đề lý luận
chung về định tội danh và QĐHP, dựa trên những số liệu nghiên cứu
thực tiễn hoạt động định tội danh và QĐHP trong 5 năm từ 20122016 tại TP Đà Nẵng, phát hiện được những mặt tích cực và hạn chế
trong hoạt động này của cơ quan THTT. Từ đó, tác giả đã đưa ra
những yêu cầu và giải pháp khắc phục những hạn chế đó, góp phần
xây dựng thành phố Đà Nẵng ngày càng an toàn, văn minh, xứng
đáng là “Thành phố đáng sống” theo mục tiêu của Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân thành phố.
Với khả năng và thời gian nghiên cứu tài liệu, thu thập số liệu...
có hạn, quá trình thực hiện đề tài khó tránh khỏi những sai sót nhất
định. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô, các
nhà khoa học để tác giả có thể tiếp tục hoàn thiện hơn đối với vấn đề
mình nghiên cứu trong tương lai.
24