Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

HỆ QUẢ TỪ SỰ THAY ĐỔI DÒNG CHẢY SÔNG NGÒI CÁC BÀI HỌC TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 9 trang )

Seediscussions,stats,andauthorprofilesforthispublicationat: />
HỆQUẢTỪSỰTHAYĐỔIDÒNGCHẢYSÔNG
NGÒI-CÁCBÀIHỌCTRÊNTHẾGIỚIConferencePaper·May2015

CITATIONS

READS

0

1,160

1author:
TuanAnhLe
CanThoUniversity
94PUBLICATIONS162CITATIONS
SEEPROFILE

Someoftheauthorsofthispublicationarealsoworkingontheserelatedprojects:

GIZVietnam-ClimateChangeandCoastalEcosystemsProgramViewproject

AllcontentfollowingthispagewasuploadedbyTuanAnhLeon14May2015.
Theuserhasrequestedenhancementofthedownloadedfile.Allin-textreferencesunderlinedinblueareaddedtotheoriginaldocument
andarelinkedtopublicationsonResearchGate,lettingyouaccessandreadthemimmediately.


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------



HỆ QUẢ TỪ SỰ THAY ĐỔI DÒNG CHẢY SÔNG NGÒI
- CÁC BÀI HỌC TRÊN THẾ GIỚI Lê Anh Tuấn1
TÓM TẮT
Sông ngòi là các rãnh dòng chảy tự nhiên với chức năng chuyển tải nguồn nước trong chu
trình thuỷ văn của một lưu vực. Sông ngòi đóng một vai trò rất quan trọng, biểu thị đặc tính
an ninh nguồn nước, sinh thái và môi trường của một khu vực hay một quốc gia. Việc duy trì
dòng chảy ổn định của một hệ thống sông sẽ đảm bảo sự vận hành hài hoà các bố trí các hoạt
động sinh hoạt và sản xuất của cư dân hai bên duyên hà. Tuy nhiên, do các mục tiêu có chủ
đích khác nhau, con người ở nhiều nơi đã tìm các làm thay đổi dòng chảy tự nhiên sông ngòi.
Các dự án, công trình nhân tạo như chuyển dòng, đắp đập, thu hẹp bờ sông - mặt sông, bơm
hút nước, khai thác đá cát ở lòng dẫn, … làm biến dạng và thay đổi quy luật thuỷ văn của hệ
thống sông. Ngoài việc đạt mục tiêu khai thác tài nguyên nước, việc làm thay đổi dòng chảy
sông ngòi cũng đã gây ra những hệ luỵ tiêu cực khác cả về khía cạnh kinh tế, môi trường và
xã hội mà các dự án này phải đánh đổi, đôi khi rất nặng nề.
Bài viết này tổng quát hoá tầm quan trọng của sông ngòi, rà soát, liệt kê và phân loại các kiểu
công trình nhân tạo làm thay đổi dòng chảy tự nhiên của hệ thống sông ngòi. Các hệ luỵ trước
mắt và lâu dài của các dự án này, qua những bài học điển hình thực tế đã xảy ra ở nhiều quốc
gia trên thế giới như ở Hàn Quốc, Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD), Trung Quốc, Thái Lan,
Úc, Mỹ và Hà Lan. Nghiên cứu này kết luận cần phải tôn trọng các quy luật tự nhiên của
sông ngòi và cần khôn ngoan hơn trong các chọn lựa giải pháp chỉnh trị sông nhằm tránh các
quyết định gây hối tiếc, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn
ra nhanh chóng hơn trên hầu hết các lục địa.
Từ khoá: Sông ngòi; Thay đổi dòng chảy; Hệ quả môi trường; Bài học thực tế.

1.

TỔNG QUAN VỀ CHỨC NĂNG CỦA SÔNG NGÒI

Khi đánh giá tài nguyên nước của một khu vực, vùng lãnh thổ hay một quốc gia, sông ngòi là

đối tượng được chú ý nhiều nhất vì tính quan trọng của nó. Một vùng đất không có hoặc có
rất ít dòng chảy sông ngòi thường là vùng đất kém phát triển ở tất cả các phương diện. Dòng
chảy sông ngòi là yếu tố chính trong phương trình cân bằng nước của một lưu vực sông vì nó
bao hàm các đặc điểm của lượng mưa rơi trên khu vực, khả năng tập trung, tích tụ và vận
chuyển nước ở trên mặt, dưới lòng đất và trao đổi với biển cả. Hệ thống sông phải bao gồm
tất cả các sông, suối, ao hồ, đầm lầy, đồng trũng và cửa ra của lưu vực. Dòng chảy của sông
càng phong phú về nguồn nước thì càng chứng tỏ sự phát triển về mặt tự nhiên và nhân tạo ở
nơi chúng chảy qua. Trên bản đồ thế giới (Hình 1), tất cả các vùng tập trung lớn nguồn nước
sông ngòi đều là những vùng đất hội tụ đa dạng về sinh thái, giàu có về kinh tế và phát triển
về văn minh. Trên bản đồ, các lưu vực sông có nguồn nước dồi dào như sông Nile (Bắc Phi),
sông Amazon, Sông Parana (Nam Mỹ), sông Dương Tử, sông Hoàng Hà, sông Hắc Long
1

+ Bộ môn Tài nguyên Nước - Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên – Đại học Cần Thơ
+ Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu – Đại học Cần Thơ (DRAGON institute – Mekong)
+ Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN)
E-mail:

VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

1


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Giang (Trung Quốc), sông Mississippi (Bắc Mỹ), sông Yenisei, sông Ob-Irtysh (Nga), sông
Congo (Phi Châu),… Sông Mekong chảy qua 6 quốc gia từ Tây Tạng ra đến Biển Đông của

Việt Nam cũng là một con sông lớn trên giới. Các dòng sông này đang nuôi sống trên 2/3
nhân loại và đều là các chiếc nôi phát triển của lịch sử các nền văn minh cổ đại và đương đại
trên thế giới. Các lưu vực sông lớn chảy qua đều là những vùng đất ngập nước có tính đa
dạng sinh học rất cao. Tất cả các con sông đều đảm nhận ít nhất là 5 chức năng căn bản là (i)
cung cấp nước sinh hoạt dân dụng và công nghiệp; (ii) tưới tiêu nước cho sản xuất nông
nghiệp; (iii) tạo ra nguồn năng lượng cho sản xuất điện, vận tải thuỷ, vận hành động cơ; (iv)
đảm bảo sức khoẻ của môi trường tự nhiên và hệ sinh thái nhân văn; và (v) duy trì nguồn
sống cho tính đa dạng sinh học.

Hình 1: Bản đồ nguồn nước sông ngòi trên thế giới
(Việt hoá từ tài liệu trên trang web: />Hầu hết các con sông đều cong, uốn lượn, không cân đối về mặt cắt ngang ở hai bên bờ và
thay đổi bề rộng sông dọc theo chiều dòng chảy. Sự thay đổi hình thể sông rạch và dòng chảy
thường xảy ra liên tục trong suốt quá trình lịch sử tiến triển của tự nhiên. Tiến trình thay đổi
này thường diễn ra từ từ, rất chậm so với với thời gian của đời người. Tuy nhiên, khi con
người áp đặt các công trình trên hệ thống sông thì sự thay đổi trực tiếp và gián tiếp dòng chảy
và quá trình biến hình lòng dẫn, do xói lở hay bồi lắng hoặc đổi dòng, sẽ xảy ra rất nhanh, có
thể là tức thời hoặc chỉ trong một thời gian ngắn. Trong khi đó, các thay đổi khác về chất
lượng nước, đa dạng sinh học, hình thể dòng sông,… cả về phía thượng lưu và hạ lưu có thể
diễn ra trong một thời gian dài hơn.
Sự tích luỹ kinh nghiệm và sự phát triển khoa học thuỷ lợi, đặc biệt từ thế kỷ thứ 19 đến đến
thế kỷ thứ 20 đã tạo ra những cơ sở tính toán cho các thiết kế chỉnh trị dòng chảy sông ngòi.
Nhiều ý tưởng khai thác nguồn nước đang được triển khai theo hai xu thế quan niệm: thứ
nhất là trị thuỷ và thứ hai là điều thuỷ. Xu thế “trị thuỷ” thường thiên về sử dụng các giải
pháp cứng gồm hệ thống công trình lớn như công trình đập, kè, đê bao, trạm bơm, hồ chứa,
kênh dẫn dòng, nắn dòng… để kiểm soát nguồn nước và lái dẫn dòng chảy. Giải pháp “điều
thuỷ” nghiêng về các giải pháp mềm, có thể gắn thêm một số biện pháp công trình nhưng
không phải là công trình lớn, như điều chỉnh lịch thời vụ, lịch tưới tiêu, điều tiết nước theo
VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

2



Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

thuỷ triều, sử dụng tiết kiệm nước, bảo tồn các vùng đất ngập nước tự nhiên, chống xói lở
bằng thuỷ thực vật,… Hiện nay, một số nhà thuỷ học đã đề xuất hài hoà, đưa cả hai giải pháp
trị thuỷ và điều thuỷ cho những công trình sử dụng nguồn nước đa mục tiêu.

2.

LIỆT KÊ CÁC DỰ ÁN THAY ĐỔI DÒNG CHẢY SÔNG NGÒI

Tất cả công trình thuỷ lợi – thuỷ điện trên hệ thống sông đều làm thay đổi đặc điểm dòng
chảy trên lưu vực. Việc phân loại công trình thuỷ công có thể theo tiêu chí thuỷ lực – thuỷ
văn, hoặc theo mục tiêu quản trị và sử dụng nguồn nước. Thường sự phân loại tổng hợp lại
không rõ ràng giữa các tiêu chí đánh giá. Các dự án làm thay đổi đặc điểm sông ngòi có thể
được liệt kê theo các nhóm công trình kể sau.
Các công trình chủ yếu làm làm thay đổi mực nước trên sông













Các dự án đắp đập (damming) trên sông (bao gồm cả công trình đập tràn) nhằm tạo ra
hiện tượng dâng nước ở thượng nguồn, hình thành hồ chứa để phát điện, lấy nước.
Các dự án làm ảnh hưởng đặc tính dòng chảy như dự án lấn dòng, lấp một phần hoặc
toàn bộ dòng chảy (filling up the river) nhằm thu hẹp mặt cắt sông cho các mục tiêu
đô thị hoá, xây dựng khu thương mại, du lịch, hoặc tăng diện tích giao thông …
Các dự án làm thay đổi cao trình bờ sông (change of levee banks) như các hệ thống đê
ở hai bên bờ sông, nhằm chặn lũ tràn vào vùng thấp hơn.
Kênh hoá dòng sông (channelization/ canalization) nhằm biến một đoạn nào đó của
dòng sông, hoặc toàn bộ dòng chảy, thành những đoạn kênh cứng bằng cách nắn
thẳng dòng chảy, kè bê-tông để tạo hình mặt cắt theo kiểu hình học cho mục đích
thuận lợi cho giao thông thuỷ được ngắn hơn, thoát nhanh dòng chảy lũ, giảm ma sát
dòng chảy, chống sạt lở bờ, giảm bồi tụ trầm tích.
Các công trình chủ yếu làm giảm lưu lượng dòng chảy trên sông
Các dự án lấy nước (water extraction) trên sông như trạm bơm cấp nước sinh hoạt,
trạm bơm tưới – tiêu, trạm bơm cấp nước khai khoáng,… Các công trình khai thác
nước dưới đất gần sông cũng có thể gây ra thiếu hụt dòng chảy tự nhiên khi mức khai
thác vượt mức giới hạn làm mực nước ngầm tụt giảm khó hồi phục.
Các dự án đổi dòng (change of flow direction) nhằm đưa dòng chảy sông ngòi sang
một hướng khác đề giảm xói lở các công trình trọng yếu hoặc di tích lịch sử - văn hoá,
hoặc đưa qua một dòng chảy khác để cung cấp nước cho các lưu vực khô hạn, …



Các công trình chủ yếu làm thay đổi hình dạng mặt cắt ngang và dọc dòng sông:
Các dự án khai thác khai thác cát sỏi (extraction of gravel and alluvial sands) dùng để
san lấp các vùng trũng, công trình hoặc dùng cát sỏi làm vật liệu xây dựng trong việc
trộn bê-tông, trộn vữa xi-măng, lấy sỏi làm đá trang trí, …




Các dự án nạo vét sông (river dredging) cho mục tiêu lấy nước hoặc giao thông thuỷ.

VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

3


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Có khá nhiều ví dụ thực tế trên thế giới các điển hình về công trình chỉnh trị sông hoặc kiểm
soát dòng chảy sông ngòi. Bảng 1 cho một số trường hợp điển hình, tiêu biểu cho mỗi kiểu
công trình làm thay đổi dòng chảy.
Bàng 1: Các trường hợp điển hình cho những công trình làm thay đổi dòng chảy sông ngòi
TT Công trình
Minh hoạ
Một số trường hợp điển hình
1

Đập nước

2

Dự án
lấn dòng,

lấp dòng

3

Nâng cao
trình bờ

• Hệ thống đê London trên sông Thames (Anh Quốc)
• Hệ thống đê trên sông Hồng (Việt Nam)
• Dự án đê ngăn lũ Wellsville ở sông Genesee (Hoa Kỳ)

4

Kênh hoá
dòng sông

• Kênh hoá sông Floyd, TP. Sioux, bang Iowa (Hoa Kỳ)
• Bê-tông hoá bờ sông Seine qua thủ đô Paris (Pháp)
• Kiên cố hoá sông Thames ở London (Anh Quốc)

5

Lấy nước

• Hầu hết các sông chảy các thành phố lớn, khu công
nghiệp và vùng tưới nông nghiệp trên thế giới

6

Đổi dòng


• Dự án chuyển nước Nam - Bắc (Trung Quốc)
• Dự án giữ nước sông Jordan (Israel)
• Dự án chuyển nước Kok-Ing-Yom-Nan và Kong-ChiMun ra khỏi lưu vực Mekong (Thái Lan)

7

Khai thác
cát sỏi

• Ở nhiều con sông trên thế giới

8

Nạo vét
sông

• Ở nhiều sông lớn trên thế giới
• Dự án nạo vét cửa sông Hậu (Việt Nam)

3.

• Đập Three Gorges trên sông Yangtze (Trung Quốc)
• Đập Aswan trên sông Nile (Ai Cập)
• Đập Hoover trên sông Colorado (Hoa Kỳ)
• Các dự án cải tạo sông Hàn (Hàn Quốc)
• Dự án mở rộng đô thị ở sông Chao Phraya (Thái Lan)
• Dự án lấn sông Nabaganga để xây đô thị (Bangladesh)

HỆ LỤY TỪ CÁC BÀI HỌC TRÊN THÊ GIỚI


Tài liệu thuỷ học trên thế giới đã ghi nhận rất nhiều ghi chép và nghiên cứu liên quan đến hệ
luỵ từ các công trình làm thay đổi dòng chảy sông ngòi. Đây là những kinh nghiệm tích luỹ
từ nhiều năm và nhiều nơi trên thế giới, giúp cho những người làm công tác quy hoạch thuỷ
lợi, các người ra chính sách quản trị nguồn nước, các chuyên gia về môi trường và xã hội có
những cơ sở trong các quyết định của mình ở những lưu vực sông. Trong bài viết này, do giới
VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

4


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

hạn khuôn khổ, chỉ nêu một số bài học từ Hàn Quốc, Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD), Trung
Quốc, Thái Lan và Úc.
Nhiều thập niên trước 1970s - 1980s, do nhu cầu phát triển kinh tế, mở rộng không
gian xây dựng đô thị, tăng diện tích giao thông, Hàn Quốc đã cho thu hẹp, nắn thẳng, thậm
chí biến nhiều khúc sông trên sông Hàn, sông Nakdong, sông Geum và sông Yeongsan thành
những đoạn cống hộp. Lúc đó, những nhà quản lý đô thị Hàn Quốc tin vào những tính toán
thuỷ lực khẳng định khả năng tải nước, thoát lũ và khả năng tự làm sạch của các công trình
chỉnh trị sông của họ. Tuy nhiên, qua nhiều năm các công trình này đã dần dần bộc lộ nhiều
nhược điểm lớn về mặt môi trường và xã hội. Các đợt lũ lụt và hạn hạn làm gia tăng những
thiệt hại kinh tế, hệ sinh thái sông suy giảm rõ rệt. Ô nhiễm công nghiệp làm chất lượng nước
sông ngày một tệ và nhiều cư dân sống hai bên bờ phải di tản. Nhận thấy những sai lầm trong
việc làm thay đổi dòng chảy sông ngòi, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak công bố chính
sách “Thoả thuận xanh mới” vào năm 2009 và tích hợp vào “Kế hoạch 5 năm” của Hàn
Quốc, trong đó thông qua “Dự án cải tạo 4 sông lớn” nhằm năm mục tiêu chính: (1) Đảm bảo

sự dồi dào của các nguồn nước nhằm ngăn chặn tình trạng khan hiếm nước; (2) Thực hiện
kiểm soát lũ một cách toàn diện; (3) Cải thiện chất lượng nước và khôi phục các hệ sinh thái;
(4) Tạo ra các không gian đa dụng cho cư dân địa phương; (5) Phát triển vùng lấy các dòng
sông làm trung tâm. Chính phủ Hàn Quốc đã phải chi ra khoảng 17.3 tỷ USD cho dự án cải
tạo sông này.
Uỷ ban Thế giới về Đập (WCD, 2000) đã công bố “Báo cáo về Đập và sự phát triển”
đã xác định các đập nhân tạo lớn xây dựng trên các hệ thống sông trên thế giới đã can thiệp
rõ rệt vào chu trình và quy luật thuỷ văn tự nhiên của lưu vực. Tác động tiêu cực về mặt môi
trường và xã hội của đập không chỉ có ở khu vực chung quanh đập nước mà còn có thể xảy ra
ở cách xa nơi nó được xây dựng. Các hệ sinh thái trong thuỷ vực tồn tại và thích nghi trong
một thời gian dài và không gia rộng lớn đã thay đổi đáng kể theo xu thế bất lợi. Thống kê
WCD vào năm 2000 cho thấy, trong khoảng 45.000 đập thuỷ lớn hiện nay trên thế giới,
Trung Quốc chiếm 23.000 đập, Mỹ đứng thứ hai với 6.575 đập, và Ấn Độ đứng thứ ba với
4.291 đập. Đập nước đã làm khoảng 40 – 80 triệu người phải di cư và bị rơi vào cảnh nghèo
khó do mất nguồn sinh kế bền vững. Trung Quốc cũng là quốc gia có số người chết cao nhất
thế giới do các tai nạn liên quan đến sự cố vỡ đập.
Ở Thái Lan, rất nhiều dự án phát triển kéo dài từ thượng nguồn sông Chao Phraya, hệ
thống sông lớn nhất chảy qua Thái Lan, đến khu vực thủ đô Bangkok. Ở vùng phía Bắc sông
Chao Phraya, hai hệ thống đập – hồ chứa lớn là hồ Bhimibol và hồ Sirikit được xây dựng.
Dọc theo hai bên bờ sông là hệ thống đê kè, đường xa lộ và nhiều khu dân cư – thương mại –
công nghiệp phát triển, nhiều vùng trũng bị san lấp, dòng sông bị thu hẹp ở hai bên. Mặt dầu
nhiều mô hình tính toán thuỷ lực trước đó đã khẳng định khả năng kiểm soát an toàn cho
Bangkok trước các trận lũ lụt lịch sử. Tuy nhiên, các mô hình này cũng không dự báo được
nguy cơ biến đổi khí hậu và các các hoạt động khác để tăng trưởng kinh tế của con người.
Trận lũ năm 2011 đã phơi bày các thiệt hại nặng nề (Aon, 2012), tổn thất xấp xỉ hơn 12 tỷ
USD (Swiss Re, 2012), làm ngập 15 tỉnh miền Bắc và miền Nam của Thái Lan, làm chết 744
người và hơn 4 triệu người bị ảnh hưởng (ADRC, 2012). Đánh giá của World Bank (2011),
xét trên phương diện quốc gia, thiệt hại trực tiếp và gián tiếp do trận lũ 2011 ở Thái Lan lên
đến 32.5 tỷ USD.


VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

5


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Dự án chuyển nước Nam - Bắc (SNWTP), một trong những dự án cơ sở hạ tầng lớn
nhất thế giới của Trung Quốc, nhằm chuyển nước từ hồ trữ Danjiangkou trên thuỷ vực sông
Hán, một nhánh của sông Dương Tử, cho thủ đô Bắc Kinh và các vùng khô hạn phía Bắc.
Theo đánh giá dựa vào chứng cớ của Crow-Miller (2013), đây là một dự án lớn nhưng khá
thiển cận khi đặt quá nhiều trọng tâm về mặt tăng trưởng kinh tế và chính trị cho vùng thủ đô
mà bỏ qua những tác động xã hội và sinh thái, gây ra căng thẳng nghiêm trọng về tài nguyên
nước và làm suy yếu tăng trưởng kinh tế của vùng phía Nam - Trung phần của Trung Quốc,
nếu xem xét tổng thể trên một diện rộng và lâu dài.
Năm 2012, Uỷ ban Khoa học Bang New South Wales (Úc) đã liệt kê các loại công
trình làm thay đổi dòng chảy tự nhiên của sông ngòi, vùng đồng lũ và đất ngập nước, dựa
theo Đạo luật Bảo tồn các Loài bị đe doạ. Dựa vào nhiều báo cáo khoa học nghiêm túc
(Walker 1985; Cadwallader and Lawrence 1990; Gehrke et al. 1995; Kingsford 1995;
Maheshwari et al. 1995; Poff et al. 1997; Boulton and Brock 1999; Robertson et al. 1999,
2001), Uỷ ban đã khẳng định các hoạt động làm thay đổi đặc điểm thuỷ văn sông ngòi như
làm giảm sút hoặc gia tăng lưu lượng, thay đổi dòng chảy theo mùa, thay đổi tần suất, thời
đoạn, thời gian xuất hiện, khả năng dự báo và biến động mực nước lớn nhất hoặc nhỏ nhất,
dao động mực nước trên mặt đất hoặc dưới đất đều làm xáo động lớn môi trường nước và hệ
sinh thái thuỷ sinh khu vực, tác động lên tính đa dạng sinh học của các loài.

4.


XU THẾ MỚI TRONG QUẢN TRỊ SÔNG NGÒI

Trong hơn hai thập niên qua, sự xuất hiện ngày càng rõ rệt các dấu hiệu bất thường do thời
tiết cực đoan, các đợt thiên tai lớn, các bằng chứng về hiện tượng biến đổi khí hậu và nước
biển dâng mà IPCC (2007) đã cảnh báo. Các quan sát sự thay đổi bất lợi về môi trường và xã
hội được xem là những bằng chứng của những hệ luỵ xấu do nhiều công trình lớn của con
người áp đặt lên sông ngòi. Các đợt lũ quét kinh hoàng hoặc các đợt khô hạn gay gắt kéo dài
khiến nhiều con sông bị biến dạng và hệ sinh thái hai bên bờ sông bị ảnh hưởng. Tác động
của sự thay đổi đặc điểm dòng chảy lên sinh kế của người nghèo và tính đa dạng sinh học
cũng được ghi nhận. Những thay đổi mang tính tiêu cực này, trong thực tế, đôi khi vượt qua
những dự báo theo những kịch bản tồi tệ nhất.
Xu thế mới hiện nay là quay về cư xử đúng mức với thiên nhiên, giữ gìn những giá trị của
dòng sông, trả lại thiên nhiên những gì vốn có của nó và tạo thuận lợi cho nguồn nước cho
một dòng chảy hài hoà. Trong quy hoạch sử dụng tài nguyên nước, giải pháp “không hối
tiếc” đang được nhiều nhà khoa học lưu ý, khi đó việc giữ nguyên hiện trạng của dòng chảy
được coi trọng hàng đầu, việc tạo ra những công trình can thiệp vào tự nhiên được đặt ở thứ
tự ưu tiên thấp hơn. Nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý đầu tư cho dòng sông, thành lập các Uỷ
ban Quản lý Tổng hợp Lưu vực Sông hoặc các Tổ chức Bảo vệ Sông ngòi. Một số hoạt động
tiêu biểu có thể kể ra như sau:
Chính phủ Hà Lan đang xúc tiến việc mở rộng không gian chảy cho dòng sông (Room
for the river) bằng cách phá bỏ các con đê dọc sông hoặc dời đê xa sông, nới rộng
diện tích mặt cắt ướt cho dòng chảy, khôi phục các đồng lũ và các vùng đất ngập nước
(Hình 2). Mục tiêu mong muốn này sẽ đảm bảo việc thoát lũ của các nhánh sông trong
bối cảnh biến đổi khí hậu và phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn.

VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

6



Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Tại Mỹ, phong trào phá bỏ các đập nước đang dần được tiến hành. Từ năm 1990 đến
dự kiến năm 2020, các đập nước khổng lồ của Mỹ sẽ được phá bỏ để trả lại dòng sông
như nguyên trạng lịch sử của nó. Chính phủ Mỹ dự kiến chi phí phá bỏ đập thủy điện
lớn nhất thế giới với tổng chi phí lên tới 450 triệu USD.
Từ tháng 9/2009, chính quyền Nhật Bản đã cho ngừng ngay 48 trong số 56 dự án xây
đập thủy điện, thủy lợi trên toàn nước Nhật.
Ở Hàn Quốc, dự án cải tạo 4 sông lớn: sông Hàn, sông Nakdong, sông Geum và sông
Yeongsan, nhằm trả lại những hình hài và dòng chảy trước đó của dòng sông, đã đạt
những thành tựu tốt về mặt cảnh quan, môi trường, thúc đầy phát triển du lịch và văn
hoá của đất nước.
Việc thay đổi nhận thức về khai thác thuỷ điện trên sông đã thúc đẩy nhiều sáng kiến
và phát minh trong khai thác các nguồn năng lượng tái tạo, sạnh, an toàn và rẻ hơn
như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng thuỷ triều và sóng biển, năng
lượng địa nhiệt, năng lượng sinh học, …

Hình 2: Các giải pháp chọn lựa để tăng không gian dòng chảy cho sông ngòi
(Tác giả minh hoạ lại từ nguồn Silva et al., 2001)

5.

KẾT LUẬN

Sông ngòi là tài nguyên cơ sở, là nguồn gốc tạo nên nền văn minh ban đầu cho xã hội loài
người. Từ khi biết khai thác nguồn nước sông ngòi, con người đã can thiệp vào tiến trình tự

nhiên của sông làm đặc điểm dòng chảy bị thay đổi. Sự thay đổi này có thể mang lại nhiều lợi
ích, song cũng gây ra nhiều hệ luỵ bất lợi khác, cả về khía cạnh kinh tế, môi trường và xã hội.
Đặc biệt, trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nhiều mục tiêu “cải tạo thiên
nhiên” trước kia không được như mong muốn, thậm chí đảo ngược, các yếu tố “không chắc
chắn” khá nhiều và phức tạp mà khả năng con người không hoàn toàn phỏng đoán được. Xu
thế quay về thiên nhiên, sống hoà hợp với các quy luật tự nhiên của dòng chảy hoặc tạo thêm
những điều kiện thuận lợi cho tiến trình tự nhiên được nhiều nhà khoa học lưu ý. Các bài học
kinh nghiệm trong cư xử với dòng sông cần phải được học tập và cân nhắc rút tỉa trong các
quy hoạch và quyết định triển khai thực hiện.

VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN

7


Hội thảo Khoa học:
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LƯU VỰC SÔNG Ở VIỆT NAM
- NHỮNG THÁCH THỨC VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP Hà Nội, 12/5/2015
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Asian Disaster Reduction Center - ADRC (2012). Thailand: Tropical Strom, Flood: 2011/08/03.
a/latestinfo/View_E.php?lang=en&KEY=1544
Aon, B., (2012). 2011 Thailand Floods Event Recap Report. Impact Forecasting LLC, on Benfield:
Chicago, IL.
Boulton, A.J. and Brock, M.A., (1999). Australian Freshwater Ecology: Processes and Management.
Glen Eagles Publishing, Adelaide
Cadwallader, P.L. and Lawrence, B., (1990). Fish. In The Murray. Eds. N. Mackay and D. Eastburn.
Murray Darling Basin Commission, Canberra. pp 317-335.
Crow-Miller, B.L., (2013). Water, Power, and Development in Twenty-First Century China: The Case

of the South-North Water Transfer Project. PhD. dissertation. University of California, Los
Angeles, USA, 216p.
IPCC (Intergovernmental Panel on Climate Change), 2007. Fourth Assessment Report, Working
Group II report. Impacts, Adaptation and Vulnerability.
Kingsford, R.T., (1995). Ecological effects of river management in New South Wales. In: Conserving
Biodiversity; Threats and Solutions. Eds. R. Bradstock, T.D. Auld, D.A. Keith, R.T. Kingsford,
D. Lunney and D. Sivertson, Surrey Beatty and Sons, Sydney. pp. 144-161.
Gehrke, P.C., Brown, P., Schiller, C.B., Moffatt, D.B. and Bruce, A.M., (1995). River regulation and
fish communities in the Murray Darling River system, Australia. Regulated Rivers: Research
and Management 11: 363-375.
Maheshwari, B.L., Walker, K.F. and McMahon, T.A., (1995). Effects of river regulation on the flow
regime of the River Murray, Australia. Regulated Rivers: Research and Management 10:15-38.
Poff, N.L., Allan, J.D., Bain, M.B., Karr. J.R. Prestegaard, K.L., Richter, B.D., Sparks, R.E. and
Stromberg, J.C., (1997). The natural flow regime: A paradigm for river conservation and
restoration. BioScience 47:769-784.
Robertson, A.I., Bacon, P. and Heagney, G., (2001). The responses of floodplain primary production
to flood frequency and timing. Journal of Applied Ecology 38:126-136.
Robertson, A.I., Bunn, S.E., Boon, P.I, and Walker, K. F., (1999). Sources, sinks and transformations
of organic carbon in Australian River floodplains. Marine and Freshwater Research 50:813829.
Silva, W., Klijn, F. and Dijkman, J.P.M. (2001). Room for the Rhine branches in the Netherlands:
what the research has taught us. Repository Hydraulic Engineering Reports. TUDelft.
Swiss Re, 2012. Natural Catastrophes and Man-Made Disasters in 2011. Sigma, No. 2.
Walker, K.F., (1985). A review of the ecological effects of flow regulation on the Lower River
Murray, Australia. Regulated Rivers: Research and Management 8:103-119.
World Bank, (2011). Thailand Flood 2011: Rapid Assessment for Resilient Recovery and
Reconstruction Planning, Washington DC: World Bank.
World Commission on Dams – WCD, (2000). Dams and Development: A New Framework for
Decision-Making. Earthscan Publication, 356p.

VUSTA - VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CỦA QUỐC HỘI – VRN


View publication stats

8



×