Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Giá trị thẩm mỹ trong văn hóa hát then của đồng bào dân tộc tày ở tỉnh bắc kạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

HÀ MINH HIỆU

GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRONG VĂN HÓA
HÁT THEN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY
Ở TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

HÀ MINH HIỆU

GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRONG VĂN HÓA
HÁT THEN CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC TÀY
Ở TỈNH BẮC KẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ QUANG VINH

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS Lê Quang Vinh, có kế thừa một số kết quả nghiên cứu
liên quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực,
đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn của
mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Hà Minh Hiệu


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, phòng Sau đại học và các phòng
ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho em được học
tập, nghiên cứu tại quý trường. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Triết
học đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến UBND tỉnh nhà Bắc Kạn, các
cơ quan ban ngành đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quà trình nghiên cứu
đề tài.
Đặc biệt, em xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến
PGS.TS Lê Quang Vinh, Phó tổng thư ký Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt
Nam - Tổng Biên tập báo Nhân đạo và Đời sống, người đã tận tâm hướng dẫn,

giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn Thạc sĩ Triết
học của mình.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ và
động viên tác giả luận văn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2017
Tác giả

Hà Minh Hiệu


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................ 5
3. Mục đích nghiên cứu................................................................... 11
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ............................................ 11
5. Giả thuyết khoa học .................................................................... 12
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 12
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ...................................................... 12
8. Phương pháp nghiên cứu ............................................................ 12
9. Kết cấu của luận văn ................................................................... 13
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ......... 13
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRONG
VĂN HÓA HÁT THEN CỦA DÂN TỘC TÀY Ở TỈNH BẮC KẠN


............................................................................................. 14
1.1. Các khái niệm cơ bản..................................................................... 14
1.1.1. Khái niệm Giá trị thẩm mỹ................................................... 14
1.1.2. Khái niệm Văn hóa và định nghĩa UNESCO về văn hóa .... 29
1.1.3. Khái niệm Then .................................................................... 31
1.2. Vài nét về địa bàn khảo sát ........................................................... 33
1.2.1. Khái quát về vị trí địa lý ...................................................... 33
1.2.2. Khái quát về lịch sử ............................................................. 35
1.2.3. Con người, địa bàn cư trú và đặc trưng văn hóa dân tộc Tày ở
tỉnh Bắc Kạn........................................................................ 37
1.3. Then trong đời sống tinh thần của người Tày ở Bắc Kạn.......... 40


1.3.1. Then - một loại hình sinh hoạt văn hóa tinh thần của người
Tày ở Bắc Kạn .................................................................... 40
1.3.2. Giá trị thẩm mỹ của hát Then ............................................. 45
1.3.3. Các hình thức diễn xướng của Then................................... 47
1.3.4. Lịch sử hình thành, quá trình phát triển và bảo tồn của văn
hóa hát Then ........................................................................ 53
Tiểu kết chương 1 .................................................................................. 58
Chương 2: GIÁ TRỊ THẨM MỸ TRONG VĂN HÓA HÁT THEN CỦA ĐỒNG
BÀO DÂN TỘC TÀY TỈNH BẮC KẠN ................................. 59

2.1. Giá trị thẩm mỹ qua nội dung lời hát Then ở tỉnh Bắc Kạn...... 59
2.1.1. Cái đẹp trong lời Then ....................................................... 60
2.1.2. Lời Then thể hiện niềm tin thiêng liêng vào cái đẹp của thế
giới thần linh ..................................................................... 67
2.1.3. Lời Then chứa đựng cái đẹp mơ ước khát vọng về cuộc sống
bình yên, ấm no, hạnh phúc .............................................. 72
2.2. Giá trị thẩm mỹ qua các phạm trù, nghệ thuật hát Then .......... 81

2.2.1. Giá trị thẩm mỹ qua phạm trù cái đẹp của văn hóa hát Then
......................................................................................... 81
2.2.2. Giá trị thẩm mỹ qua các phạm trù cái cao cả của văn hóa
hát Then ........................................................................... 84
2.3. Giá trị thẩm mỹ của hát Then luôn gắn với cái đạo đức và lên án
cái phi đạo đức, cái xấu trong xã hội ........................................... 86
2.4. Một số giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị thẩm mỹ của Then
trong giai đoạn hiện nay ............................................................... 88
2.4.1. Giải pháp giáo dục và những việc cần làm trước mắt ...... 88
2.4.2. Giải pháp của chủ thể sinh hoạt, diễn xướng Then để tăng
thêm giá trị thẩm mỹ......................................................... 89
2.4.3. Giải pháp của nhà nước, nhà trường, nhà văn - nghệ sỹ dân gian
.......................................................................................... 90


2.4.4. Đóng góp và khuyến nghị của tác giả về sử dụng kết quả
nghiên cứu của luận văn ................................................... 91
Tiểu kết chương 2 .................................................................................. 92
KẾT LUẬN ............................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 96


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc sinh sống trên cùng một lãnh thổ.
Cộng đồng các dân tộc Việt Nam sống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau
như anh em ruột thịt, trong đó có người Tày, Nùng, Thái.
Người Tày ở Việt Nam có số dân 1.626.392 người, là dân tộc có dân số
đứng thứ 2 trên đất nước; có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập

trung tại các tỉnh: Cao Bằng, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Lạng Sơn (theo thống kê, năm 2009). Số người dân tộc Tày ở Bắc Kạn là
155.510 người, chiếm 52,9% dân số toàn tỉnh và 18,9% tổng số người Tày tại
Việt Nam.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử hình thành và phát triển, với đời sống
tinh thần phong phú, hòa nhập, dân tộc Tày đã có sự giao lưu hòa trộn văn hóa
với các dân tộc khác như Nùng, đặc biệt là trong các hoạt động hát Then,
Lượn… Những bài Then, Lượn ấy đã làm nên nét đặc trưng văn hóa rất riêng
của núi rừng Việt Bắc đại ngàn.
Người Tày đã tạo nên một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian có giá
trị thẩm mỹ vô cùng phong phú, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Chẳng hạn
như hát Then, Lượn... Có thể khẳng định rằng những đặc trưng văn hóa mang
tính truyền thống lâu đời của người Tày là một trong những đặc trưng của Văn
hóa Dân gian trong cộng đồng các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Tạo nên
những giá trị thẩm mỹ nền móng cho việc giáo dục thẩm mỹ ở nước ta.
Giá trị thẩm mỹ thông qua hát Then nhằm hoàn thiện nhân cách của con
người là một quá trình phát huy sức mạnh trong việc hình thành các quan niệm
thẩm mỹ mới hướng tới nâng cao đời sống tinh thần, tình cảm, thẩm mỹ của
con người.
Hát Then giúp cho con người xây dựng những tình cảm đẹp, bồi dưỡng
năng lực cảm xúc, tạo dựng một nhân cách hài hòa. Nó là sản phẩm được hình


2
thành trong thực tiễn lao động và chiến đấu của con người và thường xuyên
thúc đẩy thực tiễn đó đi lên. Thông qua những làn điệu Then, con người biết
căm giận cái xấu, buồn đau trước cái bi thương, khâm phục cái cao cả và anh
hùng, biết cải tạo đời sống cá nhân.
Những giá trị thẩm mỹ thông qua những làn điệu Then sẽ kích thích hoạt
động của con người trong lĩnh vực sản xuất kinh tế - xã hội. Bằng việc đề cao

cái đẹp, cái cao cả, cái anh hùng trong cuộc sống, hát Then tăng cường bồi
dưỡng năng lực cảm xúc, ngăn ngừa những căn bệnh vô cảm về mặt thẩm mỹ
trong xã hội hiện nay.
Trong xã hội hiện nay, con người bị cuốn vào vòng xoáy của nền kinh tế
thị trường và toàn cầu hóa, con người buộc phải cạnh tranh để tồn tại. Trong
điều kiện ấy con người trở nên vô cảm hơn, nhiều lúc trở thành nô lệ của tiền
bạc. Với chức năng tạo ra độ nhạy cảm của năng lực thẩm mỹ, hát Then giúp
con người tìm lại được chính mình trong những cảm xúc vô tư, trong sáng ấy.
Hát Then đóng vai trò định hướng sự phát triển của giá trị thẩm mỹ, xây
dựng những giá trị thẩm mỹ tiến bộ, hợp lý làm nền tảng hình thành giá trị thẩm
mỹ lành mạnh cho con người hiện nay. Tuy là loại giá trị mang ý nghĩa giáo
dục tinh thần, song những giá trị ấy lại chỉ có thể thỏa mãn bằng vật chất cụ thể
có chứa đựng giá trị thẩm mỹ tốt đẹp, trong nghệ thuật hát Then đó là những
bài hát, những làn điệu, những âm hưởng ngân nga. Thông qua việc hát và các
cảm nhận các làn điệu Then, con người được tiếp xúc, cảm thụ, đánh giá các
bài hát chân chính, những bài hát hay có giá trị luôn góp phần định hướng, xây
dựng những giá trị thẩm mỹ, giá trị mới lành mạnh, chính đáng của con người.
Ngoài ra, hát Then góp phần góp phần xây dựng lý tưởng thẩm mỹ cao
đẹp cho con người. Khi những làn điệu Then được cất lên thì con người tiếp
nhận lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng thẩm mỹ thể hiện trong chính những lời hát
Then và qua đó hướng tới các lý tưởng chính trị, đạo đức tốt đẹp trong đời sống


3
thông qua các hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ, chú giải phóng quân trong thời kỳ
kháng chiến đã thôi thúc, động viên lớp lớp thanh niên đi cứu nước, giành độc
lập tự do cho Tổ quốc.
Cái đẹp trong nghệ thuật hát Then được chưng cất qua tâm hồn các nhà
văn, nhà thơ, nhà nghệ sỹ dân gian, nó thấm sâu vào tâm hồn người nghe, tạo
cảm xúc lành mạnh, tạo ra những giá trị thẩm mỹ cần thiết. Như trong thời kỳ

kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hình tượng bà mẹ Việt Nam anh hùng
cao đẹp đã làm rung động đến lòng người, góp phần giáo dục nhiều thế hệ xả
thân chiến đấu cho đất nước, cho dân tộc.
Bắt nguồn từ cái chân thật, giản dị, chân chính trong những làn điệu Then
đã được chưng cất qua tâm hồn nhà nghệ sĩ dân gian với một lý tưởng chân
chính, giúp con người sống tốt theo quy luật hoàn thiện, hoàn mỹ. Nó thấm sâu
vào tâm hồn người nghe, tạo ra cảm quan nghệ thuật, cảm xúc lành mạnh, tạo
ra những giá trị cần thiết nâng cao tâm hồn con người.
Xây dựng các giá trị thẩm mỹ bằng hình thức hát Then nhằm phát triển
nhân cách con người mới tự nó đã mang tính chất xã hội sâu sắc. Hát Then dẫn
con người đến với con người, giúp con người nhận thức thế giới và thâm nhập
vào đời sống bên trong của con người, cải tạo con người, giúp con người hoàn
thiện nhân cách của mình. Hát Then có tác động làm thay đổi con người, giúp
con người vượt lên mọi nỗi bất hạnh và trở thành một sức mạnh kỳ diệu góp
phần xây dựng xã hội mới.
Tác động của cái đẹp thông qua hình tượng hát Then đến con người thanh
cao, vô tư, không vụ lợi, không thô thiển, nó thể hiện hài hòa trong tâm hồn
con người và cả trong xã hội loài người. Giá trị thẩm mỹ của hát Then giúp con
người có thể nhận thức được thế giới hiện thực một cách phong phú và đa dạng,
giúp con người rút ra những kinh nghiệm quý báu khắc phục nhược điểm của
thời đại cũ, vươn tới trên đôi cánh vững bền của truyền thống. Giá trị thẩm mỹ


4
lớn lao mà đời người đã mang lại cho văn hóa hát Then là những người bình
thường đã bước vào thơ ca và làm nền cho những vẻ đẹp vừa giản dị, vừa kỳ
vĩ.
Qua chặng đường dài hoạt động đã cho ra đời nhiều công trình có giá trị
lớn về văn hóa hát Then của đồng bào dân tộc Tày trên phạm vi cả nước. Những
giá trị sáng tạo đó thể hiện mối quan hệ của các tộc người với thiên nhiên thông

qua các tri thức sản xuất nông nghiệp, phong tục tập quán, mối quan hệ của con
người với thế giới tự nhiên. Thực hiện được nhiệm vụ trên không những góp
phần vào việc bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Tày trong quá
khứ mà còn góp phần thiết thực trong công cuộc xây dựng nền Văn hóa Xã hội
mới - Xã hội Chủ nghĩa.
Nói đến hát Then là nói đến một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng
lâu đời của các dân tộc Tày, Nùng, Thái. Hát Then là thành tố quan trọng trong
đời sống tinh thần của người dân tộc Tày vì sự linh thiêng của nghi lễ nên hát
Then chỉ tồn tại trong không gian và môi trường diễn xướng nghi lễ tín ngưỡng.
Thực tế, hát Then có từ bao giờ?, ở đâu?, khi nào? còn là vấn đề gây nhiều tranh
luận. Tạm thời, các tác giả khẳng định Then có nguồn gốc hình thành, phát triển
ở tỉnh Cao Bằng và được lưu truyền sang các địa phương khác do sự giao lưu
văn hóa, hôn nhân giữa các dân tộc nên ngoài Cao Bằng có thể thấy hát Then
có mặt ở các tỉnh khác trên đất nước song nhiều nhất có thể kể đến như Bắc
Kạn , Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang.
Về Then Tày, từ khi ra đời đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu khảo sát tìm ra giá trị cho việc tiếp nhận và thưởng thức, nhưng khi nghiên
cứu về Then các nhà sưu tầm, nghiên cứu thường đi sâu vào nghiên cứu về mặt
âm nhạc và văn hóa tâm linh, tuy nhiên chưa có một công trình khoa học nào
làm rõ khía cạnh về vấn đề thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ trong Then của người
Tày Bắc Kạn.Vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Giá trị thẩm mỹ trong văn


5
hóa hát Then của đồng bào dân tộc tày ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay” để nghiên
cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
Tôi khẳng định luận văn này là luận văn đầu tiên kế thừa kết quả nghiên
cứu của những người đi trước và cố gắng đi sâu hơn vào phần thẩm mĩ của các
làn điệu Then.
2. Lịch sử nghiên cứu

➢ Nhóm nghiên cứu về giá trị thẩm mỹ
Giá trị thẩm mỹ xây dựng đời sống tinh thần cho con người đã có từ trong
những tác phẩm của các nhà tư tưởng thời cổ đại, thời Phục hưng và thời Khai
sáng.
Trước hết phải kể đến T. Sécnưsépxki (1962), với tác phẩm Quan hệ
thẩm mỹ của nghệ thuật với hiện thực, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Ông cho rằng
“cái đẹp trong nghệ thuật cao hơn cái đẹp trong hiện thực” [39, tr.19].
Ph.Sinle (1962) - Nhà triết học Đức, với tác phẩm Những bức thư về giáo
dục thẩm mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội. Ông cho rằng nhiệm vụ cơ bản của giáo
dục thẩm mỹ là tìm một con đường cải tạo xã hội theo tinh thần dân chủ tư sản,
không thông qua cách mạng. Ông kêu gọi “Phải vận dụng việc giáo dục thẩm
mỹ để khôi phục tính cách hoàn chỉnh” [35, tr 171]
Kant (1962), Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, Nxb Sự thật, Hà Nội, cho
rằng “nghệ thuật tuy không có quy luật, nhưng tác động một cách có quy luật,
tuy không có dụng ý nhưng tác động một cách có dụng ý” [22, tr.201].
Còn Hêghen cho rằng “nhiệm vụ của nghệ thuật không nhằm mục đích
giáo huấn, tu thiện, thanh khiết hóa tâm hồn mà nhằm bộc lộ chân lý qua các
hình thức cảm tính, qua cách bố trí nghệ thuật” [22, tr.201].
N.Đimitriêva (1962), Bàn về cái đẹp, bản dịch của Nxb Văn hóa
Nghệ thuật, Hà nội, tác giả nghiên cứu cái đẹp rất sâu theo quan điểm mỹ học
Mác - Lênin (cái đẹp cải tạo cuộc sống) [26, tr.56].


6
T.Sécnưsépxki (1962), Quan hệ thẩm mỹ của nghệ thuật đối với hiện
thực, bản dịch của Nxb Văn hóa - Nghệ thuật, Bộ văn hóa. Sách này trình
bày một quan điểm mới về cái đẹp khi gắn cái đẹp với cuộc sống mà trước
đây I.Kant và F.Hegel mới chỉ gắn cái đẹp với nghệ thuật [39, tr.38].
X.X. Visnhiốpxki - TS Triết học Liên Xô (1981), Lối sống Xã hội chủ
nghĩa, Nxb Thông tin lý luận. Tác giả đã xem xét, phân tích những vấn đề cơ

bản của lối sống xã hội chủ nghĩa, những đặc trưng cơ bản của nó, các phương
hướng chủ yếu tiếp tục hoàn thiện lối sống xã hội chủ nghĩa [54, tr.36].
N.Khápsencô (1982), Bàn về cái đẹp, bản dịch của Nxb Thanh niên,
tiếp tục theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, nhưng gắn với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô [27, tr.56].
GS.TS Đỗ Huy (1985), Cái đẹp - Một giá trị, Nxb Thông tin lý luận.
Sách nghiên cứu sâu về giá trị thẩm mỹ, tức là nghiên cứu thước đo thẩm mỹ mà
thước đo ấy theo GS.TS Đỗ Huy là cái đẹp [17, tr.19].
Các tác giả Phan Kế An, Vũ Tự Lân, Trường Lưu, Lê Đức Nga, Lê Anh
Trà (1987), trong cuốn Thỏa mãn nhu cầu Văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ
thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Các tác giả đã xem xét thị hiếu thẩm mỹ về nhiều
mặt, song do những nguyên nhân khác nhau các tác giả đề cập đến thị hiếu
thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ ở tầm khái quát [1, tr.51].
TS.Vĩnh Quang Lê (1996), Giáo dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb
Chính trị Quốc gia. Tác giả đã nghiên cứu giáo dục bằng văn hóa thẩm mỹ
thông qua văn học là nội dung cơ bản.Tác giả đề cập tới giáo dục thị hiếu thẩm
mỹ như một nhân tố quan trọng trong hệ thống giáo dục hiện nay, góp phần
tích cực trong việc hình thành nhân cách, nâng cao khiếu thẩm mỹ cho con
người [24, tr.56].
GS.TS Huỳnh Khái Vinh (Chủ biên) (2001), Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Giáo dục Hà nội. Tác giả đã đề cập đến


7
những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, mối quan hệ
biện chứng giữa chúng với việc phát triển văn hóa - xã hội [51, tr.57].
Trần Ngọc Tăng (2001), Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo
dục thẩm mỹ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã tập
trung đề cao vai trò của các yếu tố liên quan đến việc hình thành và hoàn thiện
môi trường giáo dục thẩm mỹ, tác giả khẳng định rằng giáo dục thẩm mỹ là một

nội dung trọng tâm trong sự nghiệp giáo dục nói chung ở nước ta hiện nay, và
thành quả các hoạt động giáo dục thẩm mỹ có mối quan hệ mật thiết với các yếu
tố vệ tinh như nghệ thuật, văn học, truyền thông đại chúng [40, tr.36].
GS.TS Đỗ Huy (2008), trong cuốn Lối sống dân tộc - hiện đại mấy vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục Việt Nam. Tác giả đề cập đến vấn đề nếp
sống, lối sống đô thị, lối sống gia đình ở giai đoạn phát triển và hội nhập quốc
tế hiện nay [19, tr.48].
Với sự cộng tác của GS.TS Đỗ Huy; TS. Nguyễn Thu Nghĩa; ThS. Đỗ
Thị Minh Thảo (2010), Lịch sử Mỹ học (trọn bộ), Nxb Giáo dục Việt Nam. Tác
phẩm công phu này đã thâu tóm diễn tiến của Mỹ học từ thời kỳ nguyên thủy
tới hiện đại. Sách đặc biệt khảo sát thành tựu cái đẹp qua các thời đại. Sách có
cả một chương nói về sự hình thành và phát triển của Mỹ học Việt Nam [20,
tr.41].
Ngoài ra còn một số công trình cũng đề cập đến vấn đề giáo dục thẩm mỹ
của các tác giả như: Arixtôt (1957), Cuốn Thi Pháp, Nxb nghệ thuật, Matxcơva Tiếng Nga [3, tr.48]; Denishusman (2011), Mỹ học, Nxb thế giới [8, tr.44].
Ngoài ra còn có một số công trình khác như của: GS.TSKH Đỗ Xuân Hà
(1997), Giáo dục thẩm mỹ, món nợ lớn đối với thế hệ trẻ, Nxb Giáo dục Việt
Nam. Tác giả đã cho rằng giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thực chất là quá trình
nhà giáo dục giúp đứa trẻ biến đổi mình trở thành một chủ thể thẩm mỹ đích
thực với quan hệ thẩm mỹ đúng đắn [10, tr.49].


8
TS. Nguyễn Ngọc Thu (2003), Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng
lực sáng tạo của con người, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Tác giả chỉ ra rằng con
người luôn khát vọng tìm đến cái đẹp sự hoàn mỹ, luôn hiếu kỳ khám phá cái
đẹp, sáng tạo cái đẹp tạo ra cái đích để đạt đến sự thành công [46, tr.62].
TS. Nguyễn Chương Nhiếp (2004), Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống,
Nxb Văn hóa, Hà Nội. Tác giả chỉ ra bản chất và vai trò của thị hiếu thẩm mỹ
trong đời sống thẩm mỹ [29, tr.79].

TS. Trần Túy (2005), Vai trò của nghệ thuật trong giáo dục thẩm mỹ, Nxb
Văn hóa, Hà Nội. Tác giả chỉ ra rằng việc định hướng giá trị nghệ thuật tức là giúp
cho thế hệ trẻ phân biệt được cái nghệ thuật và cái phi nghệ thuật, có xúc cảm
trước các tác phẩm nghệ thuật, biết thưởng thức và đánh giá [49, tr.37].
Như vậy có thể thấy số lượng công trình nghiên cứu về giáo dục thẩm
mỹ của các học giả trong nước và ngoài nước khá lớn. Nhưng nhìn chung nó
chưa có sự gắn kết giữa giáo dục thẩm mỹ với văn hóa dân tộc.
➢ Nhóm giá trị thẩm mỹ bằng văn hóa hát Then
Hát Then là một làn điệu trong kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc
Tày, từ lâu đã nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, sưu tầm. Then
Tày ở Việt Nam rất phong phú và luôn tồn tại trong đời sống hiện thực, nó có
vị trí đặc biệt trong quan trọng trong văn hóa dân gian Việt Nam.
Trước năm 1945, thời kỳ này hầu như không có các công trình nghiên
cứu về giáo dục thẩm mỹ bằng hát Then. Sau năm 1945, số công trình nghiên
cứu về Then tăng về số lượng và tập trung vào chiều sâu căn bản của Then
nhiều hơn.
Dương Kim Bội (1975), trong cuốn Lời hát Then, Nxb Việt Bắc. Đây
được coi là cuốn sách đầu tiên giới thiệu về lời hát Then dưới dạng nguyên bản
bằng tiếng Tày, có lẽ cuốn sách được tác giả sưu tầm trong lễ Then cấp sắc. Nó


9
góp phần to lớn khẳng định vai trò, giá trị của hát Then trong đời sống người
dân tộc Tày [04, tr.14].
Nhiều tác giả (1978), Một số vấn đề về Then Việt Bắc, Nxb Văn hóa dân
tộc, đã có những nhận xét đánh giá về giá trị tinh thần, giá trị nghệ thuật của lời
hát Then, múa Then [30, tr.23].
Nguyễn Thị Hiền (1998), Người diễn xướng Then - Nghệ nhân hát dân
ca và thầy Shaman, Nxb Văn hóa dân tộc, đã nêu rõ người làm Then là nghệ
nhân hát dân ca vừa là thầy cúng - thầy Shaman thực thụ [13, tr.40].

Đoàn Thị Tuyến (2000), Then một hình thức shamam giáo, Nxb Văn
hóa, Hà nội. Trong Luận văn tốt nghiệp khoa Sử, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân Văn với nội dung Đạo Then trong đời sống tâm linh của người Tày Nùng Lạng Sơn, phân tích Then như một hình thức tín ngưỡng, có đóng góp
khá mới mẻ trong việc tìm hiểu đời sống và thế giới tâm linh của người làm
Then [50, tr.57].
Tác giả Triệu Thị Mai (2001), trong cuốn: Lễ cầu tự của người Tày ở
Cao Bằng, Nxb Văn hóa Thông tin. Đã chỉ rõ sự tin tưởng vào thế giới thần
linh của con người mặc dù khoa học ngày nay phát triển, việc sinh con theo ý
muốn đã được kết quả nhưng ở mức độ nào đó một số lễ thức về việc cầu tự
vẫn được khá nhiều người duy trì không chỉ đối với người Tày ở phía Đông
tỉnh Cao Bằng mà với cả dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn nghi thức đó vẫn đang được
thực hiện [25, tr.55].
Nguyễn Thị Yên (2010), công bố công trình sưu tầm, nghiên cứu về Then
Tày, Nxb Văn hóa Dân tộc. Có thể nói đây là một trong công trình tiêu biểu, có
tính toàn diện về Then của người dân tộc Tày. Công trình đã khái quát, nhìn
nhận, đánh giá về Then và mô tả diễn biến buổi lễ Then cấp Sắc cho ông
Nguyễn Văn Ngời tại bản Phú Nà, xã Tự Do, huyện Quản Hòa (nay là huyện


10
Quảng Yên), tỉnh Cao Bằng có đầy đủ tuần tự từng lời, bước, đoạn, chương
trong Then cấp sắc [55, tr.46].
Nhóm tác giả Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ (1976),
Mùa xuân và phong tục Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin [52, tr.78].
Và tác giả Dương Kim Bội, Hội Lồng tồng (dân tộc Tày ở Bắc
Thái)(1977), Nxb Văn hóa dân tộc. Đây là những bài nghiên cứu đầu tiên về
hội xuân của người Tày. Trong những bài viết nay, các tác giả đã khẳng định
sự hấp dẫn của các trò chơi dân gian như tung còn, kéo co, hát Sli, hát Lượn:
“Mùa hoa mận trắng xóa, tiếng róc rách của suối nước, sự ồn ã của gió rừng…
Người xem hội không muốn dứt khỏi những Lượn nàng, nhưng cũng không bỏ

cơ hội để hòa vào sự nhộn nhịp, náo nức của những trò chơi dân gian như kéo
co, tung còn, đánh yến…” [05, tr.89].
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về Then Tày như:
Lục Văn Pảo (1983), Hội Lồng tồng, Nxb Văn hóa Thông tin [33, tr.29]; Lục
Văn Pảo (1992) Pụt Tày, Nxb Văn hóa dân tộc [34, tr.31]; Nhóm tác giả Phan
Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam (1993), Lễ hội cầu mùa
của các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin [7, tr.58]; Nhóm tác giả
Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994), Phong tục tập quán của dân tộc Tày Việt
Bắc, Nxb Việt Bắc [36, tr.76]; Nhóm tác giả Hà Văn Thư, Hoàng Nam, Vi
Hồng Nhân, Vương Toàn (1995), Ai lên Xứ Lạng, Nxb Việt Bắc [45, tr.47];
Trần Hoàng, Ngày xuân đi hội Lồng tồng, Nxb Văn hóa dân tộc [14, tr.34]; Tác
giả Nguyễn Hải Hà (1996), Trẩy hội Lồng tồng, Nxb Văn hóa dân tộc [11,
tr.53]; Hà Đình Thành (1999), Khảo sát tín ngưỡng Then, Tào, Mo của người
Tày ở Việt Nam, Nxb Việt Bắc [42, tr.78]; Nhiều tác giả (2000), Kho tàng lễ
hội cổ truyền Việt Nam, Nxb Văn hóa Hà Nội [31, tr.50]; Hoàng Văn Páo
(2002), Lễ hội Lồng tồng của người Tày bản Chu, xã Hưng Đạo, huyện Bình
Gia, tỉnh Lạng Sơn, Nxb Văn hóa dân tộc [32, tr.44]; Nhóm tác giả Nguyễn


11
Thiên Tứ, Nguyễn Thị Yên (2004), Lễ Cấp sắc Nụt Nùng, Nxb Văn hóa dân
tộc [47, tr.54]; Nguyễn Ngọc Thanh (2005), Đặc trưng lễ hội truyền thống của
người Tày, Nùng Việt Bắc, Nxb Văn hóa Hà Nội [43, tr.63]. Các tác giả nêu
trên đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm, tìm hiểu về Then của Việt Bắc
cũng như Then của Bắc Kạn qua các lễ hội để phản ánh bức tranh chân thực về
cuộc sống, lao động sản xuất tín ngưỡng của người Tày. Qua các công trình có
thể thấy tính bao quát về đời sống xã hội của người Tày chưa cao, chưa nêu
được một cách toàn diện, hệ thống về các nghi lễ hát Then.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu Then Tày theo xu hướng này
đều khẳng định Then là một loại hình nghệ thuật tổng hợp nhưng chưa nghiên

cứu sâu về các giá trị thẩm mỹ trong hát Then của con người, bao gồm: Lời hát,
âm nhạc, múa và trang trí Then. Các tác phẩm nói về hát Then và các lễ hội của
các dân tộc rất nhiều, nhưng các tác phẩm bàn về giá trị thẩm mỹ của hát Then
thì chưa có bất kỳ một tác phẩm nào.
Những nghiên cứu theo hướng này giúp hiểu sâu hơn về nghệ thuật thẩm
mỹ của Then; đồng thời giúp lý giải được tầm quan trọng của Then trong đời
sống tâm linh của các dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các giá trị trong hát Then của đồng bào dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn
để từ đó góp phần khẳng định các giá trị đặc sắc của văn hóa trong việc giáo
dục con người Việt Nam hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Giá trị thẩm mỹ trong văn hóa hát Then của đồng bào dân tộc Tày tỉnh
Bắc Kạn
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Giá trị thẩm mỹ trong văn hóa hát Then của đồng bào dân tộc Tày tỉnh
Bắc Kạn có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của con người và dân tộc Tày.


12

5. Giả thuyết khoa học
Nếu phân tích và làm rõ các giá trị thẩm mỹ trong văn hóa hát Then của
đồng bào dân tộc Tày thì chúng ta sẽ thấy được những tác động tích cực từ
những giá trị tốt đẹp của làn điệu Then tới việc hình thành tư tưởng mang nhiều
giá trị nhân văn trong việc giao tiếp, ứng xử của người Việt Nam đối với văn
hóa dân gian hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, đề tài phải thực hiện các nhiệm

vụ sau:
Một là, chỉ ra được sự hình thành và phát triển của văn hóa Then, đây là
nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến những làn điệu Then và giá trị thẩm
mỹ.
Hai là, phân tích những nội dung của lời hát Then và giá trị thẩm mỹ của
nó.
Ba là, đánh giá được sự ảnh hưởng của làn điệu Then tới xã hội hiện nay
ở mức độ và tính chất giúp cho những giá trị thẩm mỹ hiệu quả hơn.
Bốn là, giá trị thẩm mỹ bằng văn hóa hát Then ở Bắc Kạn hiện nay như
thế nào?
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giá trị thẩm mỹ bằng các làn điệu của Then như: lời hát Then, nghệ nhân
hát Then, diễn xướng hát Then, cách thức hát Then, Trang phục hát Then…
Trong đó tác giả tập trung nghiên cứu giá trị thẩm mỹ trong văn hóa hát
Then của đồng bào dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử mỹ học cổ điển và
mỹ học Mác - Lênin dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng kết hợp các phương


13

pháp: logic - lịch sử; phân tích - tổng hợp; khái quát hóa; so sánh, nghiên cứu
văn bản, chú giải tài liệu…
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu gồm 2 chương, 7 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản

Giá trị thẩm mỹ thông qua sự hình thành và phát triển của văn hóa hát Then
Giá trị thẩm mỹ thông qua nội dung của lời hát Then
Giá trị thẩm mỹ thông qua những nét đẹp trong văn hóa hát Then của
người Tày
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn trình bày một cách có hệ thống và chi tiết giá trị
thẩm mỹ trong văn hóa Then của đồng bào dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn. Thông qua
việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về giá trị thẩm mỹ trong văn hóa Then
của đồng bào dân tộc tỉnh Bắc Kạn luận văn giúp chúng ta có một cái nhìn đầy
đủ, đa chiều hơn về văn hóa dân gian với cuộc sống của con người, nêu ra những
luận điểm cơ bản về giá trị thẩm mỹ bằng văn hóa hát Then.
Về mặt thực tiễn, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những
ai quan tâm tới vấn đề trên.


14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẨM MỸ
TRONG VĂN HÓA HÁT THEN CỦA DÂN TỘC TÀY
Ở TỈNH BẮC KẠN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Giá trị thẩm mỹ
Khi nghiên cứu các vấn đề lý luận và giá trị thẩm mỹ trong hát Then của
dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn, chúng ta cần phải nghiên cứu các khái niệm cơ
bản của giá trị thẩm mỹ.Giá trị thẩm mỹ được hình thành bởi khách thể thẩm
mỹ và chủ thể thẩm mỹ.
➢ Khách thể thẩm mỹ:
Giá trị thẩm mỹ gồm các phạm trù của cái đẹp, cái cao cả và cái đẹp ấy
do con người sáng tạo nên, nên nó phản ánh cái bản chất của chủ thể thẩm mỹ
(lý tưởng thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ (hay còn gọi là sở thích thẩm mỹ)). Trải

qua hàng nghìn năm, các giá trị thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ được hình thành
và phải trải qua nhiều thử thách trong hiện thực.
➢ Chủ thể thẩm mỹ:
Chủ thể thẩm mỹ chính là con người và các hoạt động xã hội của con
người, thẩm mỹ là cái gắn liền với cuộc sống thực tiễn và năng lực sáng tạo của
con người.
Có thể nói, trải qua qua hàng vạn năm chủ thể thẩm mỹ và khách thể
thẩm mỹ là hai mặt quan trọng của quan hệ thẩm mỹ, nó góp phần hình thành
nên đời sống thẩm mỹ của con người, giúp con người có cái nhìn sâu sắc hơn
và mới mẻ hơn. Chủ thể thẩm mỹ được hình thành qua năng lực thẩm mỹ và
tình cảm thẩm mỹ.


15
❖ Năng lực thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ
Năng lực thẩm mỹ chính là những năng lực bẩm sinh chỉ có ở con người.
Có thể nói rằng, năng lực thẩm mỹ đó là những khả năng thưởng thức đánh giá
và sáng tạo ra những tác phẩm mới.
Tình cảm thẩm mỹ là tình cảm của con người đối với các khách thể thẩm
mỹ và nghệ thuật thẩm mỹ.
Tình cảm và tình cảm thẩm mỹ: tình cảm nhằm chỉ ra các trạng thái cảm
xúc của con người trước hiện thực như: vui buồn, xót thương, đồng cảm…
nhưng tình cảm thẩm mỹ là cảm xúc của con người trước cái đẹp, cái cao cả.
Thông qua tình cảm, con người có sự soi sáng bởi lý trí con người nhận ra
những giá trị thẩm mỹ, góp phần quan trọng vào cải tạo xã hội, cải tạo chủ thể
thẩm mỹ để tạo ra giá trị thẩm mỹ cao đẹp hơn.Mỗi người, mỗi dân tộc lại có
lý tưởng thẩm mỹ riêng về cái đẹp, về cuộc sống của mình.
Lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng về cái đẹp,trong đó chủ thể thẩm mỹ và
con người xã hội luôn hướng tới.Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi con người khi
sinh ra và cả trong các hoạt động thực tiễn, tất cả đều có lý tưởng sống, lý tưởng

xã hội.
❖ Thị hiếu thẩm mỹ:
Thị hiếu thẩm mỹ là sở thích của con người, của chủ thể thẩm mỹ về cái
đẹp.
Thị hiếu thẩm mỹ là tình cảm của từng cá nhân trước các phạm trù của
khách thể thẩm mỹ.
Chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ tạo nên giá trị thẩm mỹ, góp
phần rất quan trọng vào việc nghiên cứu các giá trị thẩm mỹ qua các bài hát
Then của đồng bào dân tộc Tày. Trước hết chúng ta nghiên cứu phạm trù mỹ
học của cái đẹp:
- Cái đẹp, trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại hình thành từ việc cảm thụ vẻ đẹp
của thiên nhiên, con người, từ việc phản ánh đời sống nghệ thuật của cộng đồng.


16
Những hiện tượng đẹp đẽ, kỳ vĩ của thiên nhiên; vẻ đẹp của con người cùng
các tác phẩm nghệ thuật bất hủ, hoàn mỹ. Cái đẹp thời kỳ Hy Lạp cổ đại là cái
đẹp được chắp cánh bởi trí tưởng tượng phong phú và ước mơ tràn đầy tình yêu
trong cuộc sống. Đẹp là cuộc sống đầy đủ mà ở đó cái buồn chỉ thoáng qua và
niềm vui là vĩnh cửu.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì giới tự nhiên không cung cấp cho con
người sẵn các thuộc tính thẩm mỹ cho chủ thể thẩm mỹ, mà nó nhờ lao động
phát hiện và sáng tạo ra.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, cái đẹp không phải là cái có sẵn trong
giới tự nhiên, cũng không phải do nhận thức một cách tùy tiện của cảm giác
chủ quan cá nhân, mà cái đẹp là một phạm trù giá trị, nó xuất hiện và luôn luôn
phát triển trong thực tiễn sản xuất và lao động chiến đấu của con người. Như
vậy, trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen cái đẹp được ra đời là nhờ tồn
tại và phát triển trong quá trình sản xuất, chinh phục giới tự nhiên, đấu tranh
giai cấp và cải tạo xã hội cũ để xây dựng xã hội mới. Các ông cho rằng, sự biến

đổi về lịch sử và xã hội sẽ kéo theo những biến đổi của quan hệ xã hội kể cả
quan hệ thẩm mỹ, do vậy, cái đẹp cũng có những bước thăng trầm cùng với sự
biến đổi của xã hội.
Trong nửa thế kỷ qua, các tư tưởng về cái đẹp của C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng được nhiều nhà mỹ học mác - xít nghiên cứu và phát triển sâu sắc trong quá
trình xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa mới ở Việt Nam. Các tư tưởng về
nguồn gốc lao động; về bản chất xã hội của cái đẹp; cái đẹp là một giá trị; cái đẹp
gắn với cái đúng, cái tốt, cái có ích, cái hài hòa, cái giác quan thẩm mỹ… được
nhiều nhà nghiên cứu mỹ học Việt Nam phân tích và trình bày.
Tác giả Nguyễn Văn Huyên cho rằng: “cái đẹp có thể là một sự vật, một hiện
tượng, một hành vi, một ý tưởng, một thực thể đơn lẻ hay một quần thể phức hợp…
hài hòa là yếu tố tập trung quan trọng nhất tạo nên cái đẹp” [21, tr.119].


17
Theo cách nhìn nhận về cái đẹp của C.Mác và Ph.Ăngghen, nhiều nhà
mỹ học mác - xít Việt Nam đã cho rằng: “cái đẹp là sự tác động qua lại giữa
đối tượng thẩm mỹ và chủ thể thẩm mỹ tạo nên hứng thú phổ biến cho chủ thể
từ tính hình tượng, tính hoàn thiện, toàn vẹn, cân xứng, hài hoà” [23, tr.296].
từeo tác giả Đỗ Huy cho rằng: “Có thể nói, cái đẹp là một phạm trù mỹ
học cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện
thực ra đời từ thực tiễn sống, lao động và chiến đấu của con người bao chứa
các quan hệ Chân - Thiện - Mỹ, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới dạng hình
tượng toàn vẹn, cân xứng hài hòa, gây được khoái cảm thẩm mỹ tích cực đối
với chủ thể xã hội” [17, tr.167].
Định nghĩa của Hêghen về cái đẹp:
Heghen (1770 - 1831), đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, một
trong những người có ảnh hưởng đặc biệt lớn đối với lịch sử triết học Phương
Tây. Heghen cho rằng: “Mỹ học là vương quốc bao la của cái đẹp”, ông coi
thường cái đẹp trong cuộc sống , và coi mỹ học là khoa học nghiên cứu nghệ

thuật.
Định nghĩa của Hêghen giúp chúng ta nghiên cứu sâu về các khái niệm
nghệ thuật, văn hóa và văn hóa hát Then của đồng bào dân tộc Tày.
Theo mỹ học Hêghen, cái đẹp là sự biểu hiện đầy đủ của ý niệm trong
một đối tượng riêng lẻ, cái đẹp là sự hiện thân của ý tưởng phổ quát và vĩnh
hằng ở những hiện tượng cục bộ và nhất thời mà những hiện tượng ấy sẽ mãi
mãi là nhất thời, sẽ mất đi như thể những làn sóng riêng rẽ trong dòng chảy của
quá trình vật chất, chỉ trong chốc lát phản chiếu ánh sáng rực rỡ của ý tưởng
vĩnh hằng. Nhưng điều này chỉ có thể có được, khi yếu tố tinh thần và hiện
tượng vật chất quan hệ với nhau một cách dửng dưng, thờ ơ. Cái đẹp đích thực
và hoàn hảo, thể hiện sự liên kết triệt để và sự thẩm thấu lẫn nhau giữa hai yếu


18
tố ấy, tất yếu phải làm cho một trong hai yếu tố (vật chất) thực sự dự phần sự
bất tử của yếu tố khác.
Theo T.Sécnưsépxki, trước khi ông đưa ra định nghĩa về cái đẹp thì ông
đã phê phán tất cả các luận điểm của Hêghen. Tranh luận mạnh mẽ với Hêghen,
ông khẳng định dứt khoát quan điểm của mình: Cái đẹp là cuộc sống. Vì nghệ
thuật phản ánh thực tại nên cái đẹp trong thực tại theo ông nó cao hơn cái đẹp
trong nghệ thuật. Ông viết: “Cái đẹp là ý niệm dưới một hình thức biểu hiện có
hạn; cái đẹp là một đối tượng cảm tính riêng lẻ… Cái đẹp là sự phù hợp hoàn
toàn, sự đồng nhất hoàn toàn giữa ý niệm và hình tượng. Từ đó Hêghen rút ra
định nghĩa về cái đẹp nhưng sau đó nó không thể đứng vững và đã bị mọi người
phê phán” [39, tr.19].
Tuy nhiên, Tsécnưsépxki cũng đồng ý với Hêghen cho rằng: “đẹp là sự
biểu hiện đầy đủ của ý niệm trong một đối tượng riêng lẻ” [39, tr.277], vì đẹp
là một đối tượng sống, riêng lẻ, chứ không phải một tư tưởng trừu tượng.
Theo quan điểm của mỹ học Mác - Lênin, cái đẹp là một phạm trù thẩm
mỹ cơ bản, là thước đo của các giá trị thẩm mỹ thể hiện sự hoàn mỹ của sự vật,

của con người, của nghệ thuật. Chính hiện thực đã sáng tạo ra cái đẹp và được
nghệ thuật tôn vinh nó như một giá trị trường tồn vượt qua mọi năm tháng, mọi
thời đại.
Cái đẹp được biểu hiện trong tự nhiên, trong những sản phẩm do con
người sáng tạo ra, ở chính bản thân con người và trong các tác phẩm văn học
nghệ thuật.
Cái đẹp bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, có cơ sở khách quan trong đời
sống, nhưng đồng thời nó cũng dùng để đánh giá tất cả những hiện tượng thẩm
mỹ tích cực có tính hoàn thiện, hoàn mỹ. Cái đẹp được hình thành khi con người
biết đối chiếu, so sánh với những cái xấu.Từ những sự quan sát bình thường để
chỉ ra được cái gì đẹp, cái gì xấu, để đến chỗ có thể định nghĩa về cái đẹp quả là
một quá trình lâu dài, khó khăn gian khổ trong lịch sử mỹ học.


×