Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học các cặp PHẠM TRÙ cơ bản của CHỦ NGHĨA DUY vật BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.46 KB, 25 trang )

CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1. Phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất

1.1. Khái niệm
1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
1.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
2. Phạm trù nguyên nhân và kết quả

2.1. Khái niệm
2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
2.3. Một số loại nguyên nhân
3. Phạm trù nội dung và hình thức

3.1. Khái niệm
3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
3.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
4. Phạm trù bản chất và hiện tượng

4.1. Khái niệm
4.2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
4.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
5. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

5.1. Khái niệm
5.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
5.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
6. Phạm trù khả năng và hiện thực


6.1. Khái niệm
6.2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
6.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
KẾT LUẬN

Trang
2
3
3
4
5
7
7
9
10
12
12
13
14
15
15
16
18
19
19
19
21
22
22
23

24
26


2
LỜI NÓI ĐẦU

Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện
tượng. Với tư cách là những qui luật không cơ bản của phép biện chứng duy
vật, là những nấc thang trong quá trình nhận thức của con người, các cặp
phạm trù cho chúng ta thấy rõ hơn tính phong phú đa dạng của sự liên hệ, vận
động và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, sáu cặp
phạm trù của phép biện chứng duy vật đã góp phần quan trọng để hình thành
hệ thống thế giới quan, phương pháp luận khoa học của con người trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
1. Phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất
1.1. Khái niệm

Trong tác phẩm “Bút ký triết học” V.I.Lênin đã nhận xét rằng: Dù con
người bắt đầu bằng bất cứ mệnh đề đơn giản nào, kể cả những mệnh đề đơn
giản nhất... thì ngay ở đó cũng đã thấy phép biện chứng rồi. Phép biện chứng
đó thể hiện ở chỗ “cái riêng là cái chung”.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin: Cái riêng là phạm trù dùng để
chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Nghĩa là, cái
riêng tồn tại như một hệ thống một kết cấu hoàn chỉnh, bản thân nó có sự liên
hệ, vận động biến đổi và phát triển riêng, độc lập, phân biệt với các sự vật,
hiện tượng, quá trình khác... nhưng không có nghĩa chúng tách biệt, độc lập
tuyệt đối mà tồn tại trong mối liên hệ, tác động biện chứng qua lại với các sự
vật, hiện tượng khác trong thế giới. Thí dụ, một người, một cái cây, một ngôi

nhà... là những cái riêng.
Cái chung là phạm trù được dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Thí dụ, ý thức là
đặc trưng chung của con người.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính... chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định và không được lặp lại ở


3
bất cứ kết cấu vật chất nào. Nghĩa là, nó là một bộ phận, một yếu tố cấu thành
sự vật như cái chung, nhưng nó chỉ tồn tại trong một sự vật duy nhất mà
không lặp lại ở các sự vật khác. Thí dụ, trong thời kỳ trước cách mạng tháng 8
- 1945 bên cạnh những nét chung với giai cấp công nhân các nước, giai cấp
công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng là ra đời trước giai cấp tư
sản Việt Nam. Đặc điểm này là cái đơn nhất.
Chú ý, cái riêng không đồng nhất với cái đơn nhất. Vì cái riêng là cái
toàn thể, là những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ, còn cái đơn nhất chỉ
là một bộ phận, yếu tố cấu thành cái riêng của sự vật.
1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cả cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại, qui định lẫn
nhau. Biểu hiện:
- “Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng” 1. Nghĩa
là, cái chung tồn tại trong cái riêng là một bộ phận của cái riêng, chứ không
phải tồn tại biệt lập, bên ngoài, tách rời cái riêng. Chẳng hạn, ở mỗi con người
cụ thể mà ta bắt gặp có nhiều thuộc tính khác nhau, nhưng cho dù khác nhau
như thế nào thì chúng cũng có đặc điểm chung: có ý thức, có khả năng lao
động, chế tạo công cụ lao động... các thuộc tính này lặp đi, lặp lại ở mọi

người. Chúng tạo nên điểm chung, nhưng điểm chung này không tồn tại tách
biệt, lơ lửng bên ngoài mà chúng tồn tại thông qua những con người cụ thể,
tức thông qua những cái riêng.
- V.I.Lênin cho rằng “cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái
chung”2. Nghĩa là, mỗi cái riêng là một sự vật độc lập nhưng chúng không tồn
tại cô lập, tách biệt hoàn toàn với những sự vật khác. Ngược lại, cái riêng bao
giờ cũng tồn tại, tham gia vào mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự
vật, hiện tượng xung quanh mình trong một hoàn cảnh, môi trường nhất định.
1
2

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tập 29, tr. 381.
V.I. Lênin: Sđd, tr. 381.


4
Các mối liên hệ qua lại này cứ trải rộng dần, gặp gỡ rồi giao thoa với các mối
liên hệ khác, kết quả là tạo nên một mạng lưới những mối liên hệ mới, trong
đó những mối liên hệ dẫn đến một hoặc một số cái chung nào đó giữa những
cái riêng. Mặt khác, những sự vật hiện tượng đơn lẻ tồn tại với tư cách là
những cái riêng luôn trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng, làm cho sự vật, hiện tượng này, cái riêng này biến thành sự vật, hiện
tượng khác, cái riêng khác... quá trình đó diễn ra liên tục, vô tận, không
ngừng, dẫn đến sự vật mới, cái riêng mới về sau càng khác xa sự vật, cái riêng
ban đầu nhưng giữa chúng luôn ẩn chứa những cái chung. Thậm chí có những
sự vật khác nhau hoàn toàn, chúng ta tưởng chúng xa lạ với nhau như con hổ
sống trong rừng và cái bàn trong phòng... thì chúng lại có những điểm giống
nhau, tức có cái chung là được cấu tạo từ vật chất, từ những nguyên tử, điện
tử... nhất định. Vì thế, V.I.Lênin khẳng định cái riêng không chỉ trong mối
liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hoá, nó liên hệ

với những cái riêng thuộc loại khác.
- V.I.Lênin viết: “Bất cứ cái chung nào cũng (là một bộ phận, một khía
cạnh hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một
cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy
đủ vào cái chung”1. Nghĩa là, cái chung chỉ là những bộ phận giống nhau, lặp đi,
lặp lại ở các sự vật (cái riêng) khác nhau. Bên trong cái riêng còn chứa những cái
đơn nhất, cái chỉ vốn có ở nó mà không lặp lại ở bất cứ sự vật nào.
- Quá trình vận động biến đổi của sự vật (cái riêng) trong những điều
kiện, hoàn cảnh nhất định cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất và
ngược lại. Thực tế đã chứng minh, cái mới lúc đầu xuất hiện không bao giờ
đầy đủ, hoàn thiện, mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng cái đơn nhất, cái cá biệt.
Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên và hoàn thiện,
tiến tới hoàn toàn chiến thắng cái cũ và trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ
lạc hậu, không hợp quy luật mất đi dần dần, từ cái chung, cái phổ biến thành
cái đơn nhất, cái cá biệt.
1

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tập 29, tr. 381.


5
1.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể
tìm thấy cái chung trong cái riêng, chứ không thể ở ngoài cái riêng. Để tìm
thấy cái chung phải xuất phát từ những cái riêng, từ sự vật, hiện tượng, quá
trình riêng lẻ cụ thể khách quan chứ không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan
của con người.
Mặt khác, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, là một bộ phận của cái
riêng, nó tác động qua lại với những yếu tố, những bộ phận còn lại của cái

riêng, cho nên bất cứ cái chung nào cũng tồn tại trong cái riêng dưới dạng đã
bị cải biến. Bất cứ cái chung nào khi được áp dụng vào những trường hợp
riêng, cụ thể cũng cần được cá biệt hoá. Nếu không chú ý tới sự cá biệt hoá
đó, đem sử dụng nguyên xi cái chung, tuyệt đối hoá cái chung, thì sẽ rơi vào
tả khuynh, giáo điều. Ngược lại, xem thường cái chung, tuyệt đối hoá cái đơn
nhất, sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu khuynh, xét lại. Thí dụ, bất cứ
quốc gia nào muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
nhất định phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhưng xây dựng Đảng Cộng sản ở
mỗi nước lại có những nét riêng như quá trình hình thành, cách thức tổ chức
hoạt động...
Vì cái riêng gắn bó chặt chẽ với cái chung, không tồn tại ở bên ngoài
mối liên hệ đưa tới cái chung cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một
cách có hiệu quả không thể lảng tránh được việc giải quyết những vấn đề
chung - những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không
giải quyết những vấn đề lý luận chung thì sẽ không tránh khỏi tình trạng tuỳ
tiện, mò mẫm, kinh nghiệm chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “Người nào bắt tay vào
những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó, trên
mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một
cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng
trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những
sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc”1.
1

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1979, tập 15, tr. 437.


6
Quá trình phát triển của sự vật trong những điều kiện nhất định, cái
chung có thể chuyến hoá thành cái đơn nhất và ngược lại, nên trong hoạt động
thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho những cái mới, cái đơn nhất tiến bộ

phát triển thành cái chung. Ngược lại, biến cái chung thành cái đơn nhất nếu
cái chung không còn là điều mong muốn.
Vận dụng mối quan hệ chung - riêng người cán bộ phân đội, người
trung đội trưởng luôn xuất phát từ tình hình chung, nhiệm vụ của cấp trên
giao để xác định phương hướng hoạt động của đơn vị mình, tách khỏi những
vấn đề chung sẽ không mất khỏi phương hướng trong công tác. Mặt khác, từ
nhiệm vụ chung, nghị quyết lãnh đạo, sự chỉ đạo của người cán bộ phân
đội phải vận dụng sáng tạo vào tình hình đơn vị mình tránh rập khuôn máy
móc. Chú trọng phát hiện nhân điển hình từ những người tốt việc tốt thành cái
chung trong đơn vị, làm cho những cái không tốt từ số nhiều thành số ít và
loại bỏ nó.
2. Phạm trù nguyên nhân và kết quả
2.1. Khái niệm

Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt trong một sự vật hay giữa
các sự vật với nhau gây ra những biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt trong một sự vật hay giữa các sự vật với nhau.
Thí dụ, trong một môi trường đào tạo của nhà tường đã được xác định,
mỗi học viên khi có phương pháp học đúng, chịu khó học tập, rèn luyện sẽ có
kết quả tốt. Như vậy, sự chăm chỉ và phương pháp học tập khoa học chính là
nguyên nhân ngay bên trong mỗi học viên để có được kết quả học tập có chất
lượng cao.
Chính tương tác mới thực sự là nguyên nhân của mọi sự biến đổi,
Ph.Ăngghen viết trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên “Khoa học tự nhiên
xác nhận câu nói của Hêghen... cho rằng: Tác dụng lẫn nhau là nguyên nhân
cuối cùng thật sự của các sự vật”1.
1

C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tâp 20, tr. 721.



7
Khi nghiên cứu về nguyên nhân chúng ta cần nhận thấy nguyên nhân là
sự tương tác của các mặt trong sự vật hay giữa các sự vật với nhau. Nhưng sự
tương tác này phải gây ra biến đổi dù rất nhỏ, nếu tương tác không gây ra biến
đổi thì đó không phải là nguyên nhân. Vì vậy, cần phân biệt nguyên nhân với
nguyên cớ - là nguyên nhân giả tạo. Như trong nhiều cuộc chiến tranh người
tạo ra những nguyên cớ để bào chữa cho hành động gây chiến thô bạo của
mình như: sự kiện vịnh Bắc Bộ 5/8/1964 để Mỹ đưa chiến tranh ra miền bắc
Việt Nam, Mỹ lấy cớ chống khủng bố đưa quân vào Irắc, lợi dụng vấn đề hạt
nhân can thiệp vào Iran và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên... Phân biệt
nguyên nhân với điều kiện, nguyên nhân bao giờ cũng tham gia vào kết quả,
còn điều kiện là môi trường để cho sự tác động đó xảy ra (như những điều
kiện ánh sáng, nhiệt độ, chất xúc tác trong các phản ứng hoá học...)
Một số loại nguyên nhân
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành
kết quả người ta phân chia thành các loại nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu
Những nguyên nhân mà thiếu chúng thì kết quả sẽ không hình thành
gọi là nguyên nhân chủ yếu, còn những nguyên nhân nào mà sự có mặt của
chúng chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ổn định, cá biệt của sự
vật, hiện tượng là nguyên nhân thứ yếu. Thí dụ, nguyên nhân chủ yếu thành
công của cách mạng tháng Tám 1945 là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và sự đoàn kết của toàn dân tộc. Còn nguyên nhân thứ yếu là: mâu
thuẫn Pháp - Nhật, phe đồng minh thắng phát xít trên phạm vi toàn thế giới,
ủng hộ của những lực lượng tiến bộ trên thế giới...
Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài
Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau giữa những mặt, những
bộ phận cấu thành sự vật và gây ra những biến đổi nhất định. Còn nguyên

nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những sự vật với nhau và gây ra
những biến đổi thích hợp trong những kết cấu vật chất ấy.


8
Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và
phát triển của các kết cấu vật chất. Còn nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy
được tác dụng khi có những nguyên nhân bên trong. Thí dụ, phe phát xít thất
bại trong đại chiến thế giới lần thứ hai, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các
dân tộc thuộc địa giành độc lập, tự do cho tổ quốc mình. Nhưng thắng lợi đó
chỉ có được ở nơi nào nhân dân nơi đó đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân đạt đến đỉnh cao và lợi thế nghiêng về các lực lượng cách mạng.
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất hiện và tác động
độc lập với ý thức của con người. Còn nguyên nhân chủ quan là nguyên nhân
xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người trong
quá trình hoạt động của các cá nhân, tập thể người. Nếu hoạt động của con
người phù hợp với quan hệ nhân - quả khách quan sẽ thúc đẩy sự biến đổi,
phát triển nhanh của các sự vật, hiện tượng và ngược lại không phù hợp sẽ
kìm hãm sự phát triển ấy.
Ngoài ra, còn có một số loại nguyên nhân khác như: nguyên nhân trực
tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên nhân tất nhiên, nguyên nhân ngẫu nhiên,
nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân không cơ bản....
2.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả không những tồn tại khách quan, phổ biến và tất yếu
mà còn qui định, chuyển hoá lẫn nhau. Biểu hiện:
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn có trước kết quả,
được sản sinh ra trước kết quả. Còn kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân

xuất hiện và bắt đầu tác động. Tuy nhiên, không phải mọi sự nối tiếp về mặt
thời gian đều biểu hiện mối quan hệ nguyên nhân - kết quả. Như ngày - đêm,
bốn mùa xuân - hạ - thu - đông... những hiện tượng này là sự kế tiếp nhau về
mặt thời gian, không phải mối quan hệ nhân - quả.


9
Như vậy, khi xem xét mối quan hệ nhân - quả chỉ chú ý đến tính liên
tục về thời gian thôi thì chưa đủ. Cái phân biệt liên hệ nhân - quả với liên hệ
nối tiếp nhau về mặt thời gian chính là ở chỗ: Giữa nguyên nhân và kết quả
còn có mối quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân sinh ra kết quả.
Thực tế cho thấy một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác
nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và những mối quan hệ cụ thể. Ngược lại, một
kết quả lại do nhiều nguyên nhân tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.
Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động
của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả là khác nhau tuỳ thuộc vào
hướng tác động của nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật
theo cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình
thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật
theo những hướng khác nhau thì chúng làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt
tiêu nhau.
- Nguyên nhân sản sinh ra kết quả, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại
tác động tích cực trở lại nguyên nhân đã sinh ra nó. Thí dụ, nhúng một thanh
sắt đã nung đỏ vào một chậu nước lạnh, làm nhiệt độ của nước trong chậu
tăng lên. Nhưng sự tăng nhiệt độ của nước lại kìm hãm tốc độ toả nhiệt của
thanh sắt. Hoặc một học viên (trong điều kiện giáo dục chung của nhà trường)
có tinh thần học tập tốt, có phương pháp học tập tốt sẽ có kết quả thi, kiểm tra
cao. Kết quả đó sẽ tác động tích cực trở lại, thúc đẩy tinh thần học tập của
người học, phấn đấu học tốt hơn, đạt kết quả cao hơn.
- Mối quan hệ biện chứng còn thể hiện ở sự chuyển hoá cho nhau giữa

nguyên nhân và kết quả. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là
nguyên nhân, trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Ph.Ăngghen
nhận xét “nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là
nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào những trường hợp riêng biệt
nhất định; nhưng một khi ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối
quan hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn


10
bó với nhau và gắn bó xoắn xuýt với nhau trong một khái niệm về sự tác động
qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn
luôn thay đổi vị trí cho nhau: cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì
ở chỗ khác hoặc lúc khác lại là kết quả và ngược lại” 1. Một sự vật, hiện tượng
với tư cách là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình lại
trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... và quá trình cứ tiếp tục mãi
không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận. Trong chuỗi
đó không có khâu nào có thể trở thành khâu bắt đầu hay khâu cuối cùng. Vì
vậy, để nhận thức được đâu là nguyên nhân đâu là kết quả phải đặt trong
những trường hợp, những mối quan hệ cụ thể.
2.3. Một số kết luận về phương pháp luận

Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu
vong, nên không thể có một sự vật, hiện tượng nào xuất hiện lại không có
nguyên nhân của nó, chỉ có vấn đề nguyên nhân đó được phát hiện hay chưa
phát hiện. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức nói chung và nhận thức khoa học
nói riêng chính là đi tìm nguyên nhân chưa phát hiện được để hiểu đúng hiện
tượng. Trong quá trình đi tìm nguyên nhân ấy cần lưu ý:
Vì mối quan hệ nhân - quả tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
thức của con người, nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của sự vật, hiện tượng ở
chính thế giới sự vật, hiện tượng khách quan.

Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả cho nên khi tìm nguyên nhân của
một hiện tượng nào đó cần tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối
liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
Vì một hiện tượng do nhiều nguyên nhân sinh ra nên trong quá trình
xác định nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cần hết sức tỉ mỉ, thận
trọng, vạch ra cho được kết quả tác động của từng mặt, từng sự kiện, từng mối
liên hệ cũng như những yếu tố khác nhau của chúng trong việc làm nảy sinh
hiện tượng để trên cơ sở đó xác định đúng về nguyên nhân sinh ra hiện tượng.

1

C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tâp 20, tr. 38.


11
Vì một hiện tượng trong mối quan hệ này là kết quả, trong mối quan hệ
khác lại là nguyên nhân nên để hiểu rõ tác dụng của hiện tượng ấy cần xem
xét nó trong những quan hệ mà nó giữ vai trò là nguyên nhân, cũng như trong
những quan hệ mà nó giữ vai trò là kết quả.
Vì mối liên hệ nhân - quả mang tính tất yếu nên ta có thể dựa vào mối
quan hệ này để hành động. Trong quá trình hành động ấy, chúng ta muốn loại
bỏ một hiện tượng nào đó phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Muốn cho
hiện tượng ấy xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần
thiết cho nguyên nhân phát sinh tác dụng. Vì hiện tượng này có thể do nhiều
nguyên nhân tác động riêng lẻ hoặc đồng thời nên trong hoạt động thực tiễn
cần tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà lựa chọn phương pháp hành động thích hợp, chứ
không nên hành động máy móc dập khuôn như cũ.
Vì nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong giữ vai trò quyết
định sự xuất hiện, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng, nên trong
hoạt động thực tiễn cần dựa trước hết vào nguyên nhân chủ yếu và nguyên

nhân bên trong.
Để đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự biến đổi của các hiện tượng xã hội nào
đó cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hoặc ngược
chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân - quả khách quan.
Cơ sở lý luận của mối quan hệ nhân quả có vai trò to lớn đối với người
cán bộ trong lực lượng vũ trang. Là người cán bộ phân đội, là trung đội trưởng
để lãnh đạo chỉ huy đơn vị thực hiện nhiệm vụ phải biết phân tích các nguyên
nhân trong đó chú trọng các nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân bên trong đồng
thời phát huy sự tác động tổng hợp của các nguyên nhân cho sự hình thành kết
quả; mặt khác phải biết phát hiện, ngăn chặn những nguyên nhân có hại, bất
lợi. Để đánh giá đúng một thành quả của hoạt động phải đi từ phân tích tổng
hợp các nguyên nhân của nó tìm ra các nguyên nhân cơ bản, chủ yếu... từ đó
làm cơ sở đề ra phương hướng cho hoạt động tiếp theo của đơn vị trong thực
hiện các nhiệm vụ.


12
3. Phạm trù nội dung và hình thức
3.1. Khái niệm

Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật.
Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Hình thức được chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu không phải là
hình thức bên ngoài mà là hình thức bên trong của sự vật, hiện tượng, tức là
cơ cấu bên trong của nội dung. Như một tác phẩm văn học nào đó được xuất
bản, ấn hành có kích thước, hình dáng, màu sắc, sự trang trí bìa ngoài nhất
định... đó là hình thức bề ngoài. Còn hình thức bên trong là bố cục của tác
phẩm, các hình tượng nghệ thuật, ngôn ngữ diễn đạt, phong cách, bút pháp...

được dùng để diễn tả nội dung, diễn tả tư tưởng, diễn tả những vấn đề cuộc
sống. Đó chính là hình thức mà chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu
trong cặp phạm trù nội dung - hình thức.
3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa nội dung và
hình thức có mối quan biện chứng với nhau. Biểu hiện:
- Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất gắn bó khăng khít với
nhau trong sự vật. Các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, đồng thời lại
tham gia vào những mối liên hệ tạo nên hình thức. Không một hình thức nào
không chứa đựng nội dung, ngược lại không nội dung nào lại không tồn tại
dưới một hình thức nhất định. Khẳng định điều đó không có nghĩa một nội
dung chỉ tồn tại dưới một hình thức nhất định và một hình thức chỉ chứa đựng
một nội dung. Tính phức tạp của mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và
hình thức là ở chỗ: cùng một nội dung trong những điều kiện phát triển khác
nhau có thể có nhiều hình thức và ngược lại một hình thức có thể biểu hiện
nhiều nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật. Trong sự vật nội dung luôn là yếu tố động, luôn


13
có khuynh hướng chủ đạo vận động biến đổi, còn hình thức là yếu tố tương
đối bền vững có khuynh hướng chủ đạo là ổn định. Cho nên, sự vận động,
phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung, khi nội dung biến đổi
buộc hình thức cũng phải biến đổi theo cho phù hợp với nội dung. Vì vậy, so
với hình thức, nội dung bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
- Hình thức tác động tích cực trở lại nội dung theo những chiều hướng
khác nhau. Chịu sự qui định của nội dung, nhưng khi xuất hiện hình thức luôn
thể hiện tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi phù

hợp với nội dung thì hình thức sẽ mở đường và thúc đẩy sự phát triển của nội
dung, còn trường hợp ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển ấy.
Sự tác động biện chứng giữa nội dung và hình thức diễn ra trong suốt
quá trình phát triển của sự vật. Lúc đầu những biến đổi của nội dung chưa ảnh
hưởng đến hệ thống mối liên hệ bền vững của hình thức. Nhưng khi biến đổi
đó tiếp tục diễn ra thì tới một mức độ nào đó, hệ thống mối liên hệ của hình
thức trở lên chật hẹp, không phù hợp, bắt đầu kìm hãm sự phát triển của nội
dung. Lúc này hình thức không còn phù hợp với nội dung nữa. Sự không phù
hợp ấy sẽ tiếp tục phát triển và tới mức sẽ xảy ra mâu thuẫn và phá bỏ của nội
dung mới với hình thức cũ và trên cơ sở đó hình thức mới hình thành, nó tiếp
tục biến đổi, phát triển và chuyển sang một trạng thái mới biến đổi về chất.
3.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

Trong hoạt động thực tiễn chống khuynh hướng tách rời nội dung và
hình thức. Ở đây chống lại cả hai thái cực, tuyệt đối hoá hình thức, xem
thường nội dung sẽ rơi vào chủ nghĩa hình thức hay tuyệt đối nội dung, xem
thường hình thức sẽ rơi vào phiếm diện, máy móc một chiều.
Vì cùng một nội dung trong điều kiện khác nhau có thể có nhiều hình
thức biểu hiện khác nhau và ngược lại một hình thức có thể biểu hiện cho
nhiều nội dung, nên trong hoạt động thực tiễn cần sử dụng sáng tạo, kết hợp
nhiều hình thức khác nhau để tìm ra hình thức phù hợp tạo điều kiện cho nội
dung phát triển. Ở đây, cần chống lại cả hai thái cực, bám lấy hình thức cũ,


14
bảo thủ, trì trệ, chỉ muốn hành động theo kiểu cũ, phủ nhận vai trò của cái
mới, hình thức mới trong hoàn cảnh mới, hoặc chủ quan nóng vội thay đổi,
xoá bỏ hình thức cũ một cách tuỳ tiện không có căn cứ.
Vì nội dung quyết định hình thức nên xét đoán sự vật cần căn cứ vào
nội dung của nó, muốn biến đổi sự vật cần tác động làm thay đổi nội dung của

nó. Ngược lại, hình thức tác động tích cực trở lại nội dung có thể thúc đẩy hay
kìm hãm nên trong hoạt động thực tiễn cần theo dõi mối quan hệ giữa hình
thức và nội dung của sự vật để kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của
nó, tạo thành hình thức của sự vật một sự phù hợp hay không phù hợp với nội
dung đang biến đổi của sự vật để kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển theo
yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Là người cán bộ phân đội, người trung đội trưởng luôn chú trọng giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nội dung và hình thức tạo nên sự hài hoà trong
giáo dục, huấn luyện, xây dựng đơn vị. Trong khi chú trọng nội dung phải
luôn vận dụng sáng tạo các hình thức thể hiện phù hợp với từng điều kiện
công tác cụ thể như: các hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức,
truyền thống... chống lối làm gò ép lặp đi, lặp lại, tránh chủ nghĩa hình thức,
chạy theo thành tích mà coi nhẹ nội dung dẫn đến chất lượng hiệu quả thấp.
4. Phạm trù bản chất và hiện tượng
4.1. Khái niệm

Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định ở bên trong sự vật qui định sự vận động, phát triển của sự
vật đó.
Hiện tượng là sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra
bên ngoài.
Bản chất chính là mặt bên trong, mặt tương đối ổn định của sự vật. Nó
được biểu hiện ra bên ngoài thông qua những hiện tượng. Còn hiện tượng là
mặt bên ngoài, mặt thường xuyên biến đổi, là hình thức biểu hiện bản chất
của sự vật.


15
Phạm trù bản chất gắn bó chặt chẽ với phạm trù cái chung, tạo nên bản
chất của một lớp sự vật nhất định, đồng thời cũng tạo ra cái chung giữa những

sự vật đó. Nhưng không phải cái chung nào cũng là bản chất, bản chất chỉ là
cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật.
Cái bản chất là cái cũng đồng thời có tính qui luật. Nói đến bản chất của
sự vật là nói đến tổ hợp những qui luật quyết định sự vận động và phát triển
của nó. Vì vậy, bản chất là phạm trù cùng bậc với phạm trù qui luật. V.I.Lênin
viết “qui luật và bản chất là những khái niệm cùng loại (cùng một bậc) hay nói
đúng hơn là cùng một trình độ, những khái niệm này biểu hiện con người nhận
thức ngày càng sâu các hiện tượng, thế giới” 1. Tuy nhiên, bản chất và qui luật
hoàn toàn không đồng nhất với nhau. Qui luật là mối liên hệ tất nhiên phổ biến,
lặp đi, lặp lại và ổn định ở các sự vật, hiện tượng, còn bản chất là tổng hợp
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, nghĩa là
những mối liên hệ tất nhiên, phổ biến còn có những mối liên hệ tất nhiên không
phổ biến. Như vậy, phạm trù bản chất rộng hơn phạm trù qui luật.
4.2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng

Bản chất và hiện tượng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng tác động
qua lại, qui định lẫn nhau. Biểu hiện:
- Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau trong cùng một sự vật,
hiện tượng. Cả hai tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt chẽ với nhau,
không tách rời. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất đó biểu hiện trước hết ở chỗ bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua
hiện tượng, hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Không có
một bản chất nào tồn tại một cách thuần tuý tách rời, không cần có hiện tượng.
Ngược lại, không có một hiện tượng nào lại không biểu hiện của một bản chất
nhất định. Nhấn mạnh mối liên hệ không tách rời giữa bản chất và hiện tượng
V.I.Lênin viết “ bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính chất bản chất”2.

1
2


V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tập 29, tr. 161.
V.I. Lênin: Sđd, tr. 268.


16
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ: bất kỳ
bản chất nào cũng bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng
nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều, hoặc ít. Nói
cách khác về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Như vậy, bản
chất bao giờ cũng tự bộc lộ ra thông qua những hiện tượng nhất định. Bản
chất khác nhau sẽ bộc lộ qua những hiện tượng khác nhau, khi bản chất thay
đổi thì hiện tượng của nó cũng thay đổi theo, khi bản chất biến mất thì hiện
tượng của nó cũng biến mất. Chính từ sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng trong sự vật mà chúng ta có thể tìm ra cái chung của nhiều sự vật, để từ
đó tìm ra qui luật vận động phát triển chung của chúng.
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng đó là sự thống nhất biện
chứng, thống nhất trong mâu thuẫn. Nghĩa là, trong sự thống nhất ấy đã có
bao hàm sự khác biệt, tức là không có sự phù hợp hoàn toàn. Vì bản chất của
sự vật bao giờ cũng thể hiện thông qua sự tương tác của các sự vật ấy với các
sự vật xung quanh, các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã
ảnh hưởng đến các hiện tượng, làm cho nội dung của hiện tượng có những
thay đổi nhất định. Kết quả là hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không còn
biểu hiện y nguyên bản chất nữa. Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho
sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính
mâu thuẫn. Tính mâu thuẫn được thể hiện:
Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại
và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt. Vì vậy, cùng
một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số những hiện tượng khác
nhau tuỳ theo sự biến đổi của điều kiện, hoàn cảnh. Nên hiện tượng phong
phú hơn bản chất, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.

Bản chất là yếu tố ẩn dấu bên trong, còn hiện tượng là cái được biểu
hiện bản chất đó ra bên ngoài của sự vật, nhưng biểu hiện dưới hình thức đã
cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất. C.Mác nhận xét “nếu hình thái biểu
hiện và bản chất của sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ


17
trở nên thừa”1. Nên khi xem xét sự vật, ta không chỉ dừng lại ở biểu hiện bề
ngoài mà đi sâu tìm hiểu bản chất của nó.
Nhưng quá trình tìm hiểu bản chất của sự vật là một quá trình phức tạp,
lâu dài. Đó là quá trình lâu dài đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít
sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, cứ như thế tiếp tục mãi. Khi nhấn mạnh tính
vô tận của quá trình này, V.I.Lênin viết “thực tiễn của chúng ta đi sâu một
cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói
như vậy đến bản chất cấp hai... cứ như thế mãi”2.
Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn
định, nó luôn vận động, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Vì nội dung của
hiện tượng không chỉ bị quyết định bởi bản chất bên trong sự vật mà còn bị
tác động bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi sự tác động qua lại
với các sự vật xung quanh. Cho nên hiện tượng thường xuyên biến đổi còn
bản chất thì giữ nguyên. V.I.Lênin viết “cái không bản chất, cái bề ngoài, cái
trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản
chất”. Sự vận động của một con sông - bọt ở bên trên và luồng nước sâu bên
dưới. Nhưng bọt cũng là biểu hiện của bản chất”3.
Tuy nhiên, bản chất của sự vật không phải là bất biến trong sự tồn tại của
sự vật mà bản chất cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “ Không phải chỉ riêng hiện
tượng là tạm thời, chuyển động, lưu động, bị tách rời bởi những giới hạn chỉ có
tính chất ước lệ, mà bản chất của sự vật cũng thế”4. Chỉ có điều bản chất biến đổi
chậm hơn hiện tượng trong suốt quá trình tồn tại và biến đổi của sự vật.
4.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận


Trong hoạt động nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng
không chỉ dừng lại ở xem xét hiện tượng mà đi sâu tìm hiểu bản chất để vạch
ra được bản chất, để hiểu đầy đủ, đúng đắn về sự vật. Còn trong hoạt động
thực tiễn cần dựa vào bản chất chứ không chỉ dựa vào hiện tượng. Chủ nghĩa
1

C. Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tâp 25, tr. 540.
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1981, tập. 29, tr. 268.
33
V.I. Lênin: Sđd, tr, 137.
4
V.I. Lênin: Sđd, tr. 268.
2


18
tư bản mặc dù có những điều chỉnh, thích nghi trong những chừng mực nhất
định, tạo ra khả năng phát triển kéo dài sự tồn tại của nó. Nhưng về bản chất
của chủ nghĩa tư bản là không hề thay đổi, đó vẫn là một chế độ bóc lột, hiếu
chiến, phản động, vẫn âm mưu chống lại cách mạng chống lại tiến bộ xã hội.
Bản chất sự vật tồn tại khách quan nên tìm hiểu, nhận thức phải xuất
phát từ chính sự vật, tránh những kết luận chủ quan, tuỳ tiện về bản chất. Tuy
nhiên, bản chất không tồn tại dưới dạng thuần tuý mà bao giờ cũng được bộc
lộ thông qua hiện tượng, nên muốn tìm hiểu bản chất phải bắt đầu từ những
hiện tượng của chúng. Nhưng trong thực tế hiện tượng nhiều khi biểu hiện
xuyên tạc bản chất nên trong quá trình nhận thức phải xem xét nhiều hiện
tượng, từ nhiều góc độ khác nhau. Trong những hoàn cảnh, phạm vi cụ thể
không thể xem xét hết những hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật, do vậy
phải ưu tiên xem xét trước những hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh điển

hình. Tất nhiên kết quả xem xét như vậy chưa biểu hiện đầy đủ bản chất của
sự vật, mà cần một quá trình lâu dài, công phu và liên tục.
Trong lĩnh vực hoạt động quân sự vận dụng nguyên tắc phương pháp luận
của cặp phạm trù này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, bởi cả hai bên tham chiến
cùng tìm cách che dấu ý đồ tác chiến của mình để đánh lừa lẫn nhau. Tôn Vũ cho
rằng: “việc quân là lừa dối” (Thiên Kế) và “việc quân được xác lập bởi sự dối trá” 1.
Hai câu trên nói lên một tư tưởng quan trọng, trong lúc tác chiến với kẻ thù cần đối
xử với chúng bằng sự “lừa dối” mới có thể giành thắng lợi. Đánh lừa kẻ thù bằng
mẹo dối trá là quy luật phổ biến của nghệ thuật dùng binh. Trong chiến đấu, nhiệm
vụ quan trọng của người chỉ huy là phân tích, phán đoán tình hình, kịp thời xác định
đúng bản chất của tình huống chiến đấu, trong đó vấn đề quan trọng nhất, khó khăn
nhất là đánh giá mưu đồ của địch tìm ra chỗ mạnh yếu của chúng làm cơ sở cho hạ
quyết tâm, ra quyết định xử trí tình huống chiến đấu giành thắng lợi.
Người cán bộ phân đội, trung đội trưởng cần chú ý sâu sát trong huấn
luyện bộ đội cách nghi binh lừa địch, tăng cường khả năng ngụy trang để gìn
giữ lực lượng của ta đảm bảo yếu tố bí mật bất ngờ. Trong chiến tranh tương
1

Tôn tử: Nghệ thuật dùng binh, Nxb. QĐND, HN, 1999, Tr.86.


19
lai, yếu tố ngụy trang nghi binh càng đặc biệt quan trọng để giữ gìn lực lượng
của ta, giảm thiểu sự tàn phá của vũ khí công nghệ cao.
5. Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên
5.1. Khái niệm

Tất nhiên là cái do nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất
quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ
không thể khác được.

Ngẫu nhiên là cái không phải do bản thân kết cấu sự vật, mà do các
nguyên nhân bên ngoài, do sự ngẫu hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định.
Do đó, nó có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
5.2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại
một cách khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức của loài người. Trong quá
trình phát triển của sự vật, không phải chỉ có cái tất nhiên, mà cả cái ngẫu nhiên
cũng có vai trò quan trọng của nó. Nếu cái tất nhiên có vai trò
chi phối sự phát triển của sự vật, thì cái ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát
triển ấy, có thể làm cho sự phát triển đó diễn ra nhanh hoặc chậm hơn. Vì vậy,
C.Mác viết: “lịch sử sẽ mang tính chất thần bí nếu những cái ngẫu nhiên
không có tác dụng gì cả. Ngẫu nhiên này chính là bộ phận trong tiến trình
phát triển chung và sự phát triển diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều
vào cái ngẫu nhiên kể cả những cái ngẫu nhiên rất nhỏ, thí dụ như cá tính của
những người đứng đầu lãnh đạo phong trào”1.
Tuy cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không bao giờ tồn
tại biệt lập, tách rời nhau dưới dạng thuần tuý mà chúng luôn tồn tại trong sự thống
nhất hữu cơ. Sự thống nhất hữu cơ thể hiện ở chỗ cái tất nhiên bao giờ cũng vạch
đường đi qua vô số những cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu
hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên. Điều đó có nghĩa
là cái tất nhiên bao giờ cũng là khuynh hướng của sự phát triển, nhưng khuynh
hướng ấy mỗi khi tự bộc lộ mình thì bao giờ cũng bộc lộ dưới hình thức ngẫu nhiên
1

C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tâp 33, tr. 284 – 285.


20
nào đó so với chiều hướng chung. Bản thân cái tất nhiên chỉ có thể được tạo nên từ

những cái ngẫu nhiên. Còn tất cả những cái ngẫu nhiên trong hiện thực không phải
ngẫu nhiên thuần tuý, mà đã bao hàm cái tất nhiên ẩn nấp trong nó. Ph.Ăngghen
viết: “...cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên
thuần tuý cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên, lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp
cái tất yếu”1. Chẳng hạn C.Mác đã tìm ra quan điểm duy vật về lịch sử, thì Chieri,
Minhê, Ghiđô và tất cả những nhà sử học người Anh cho đến 1850 đã chứng tỏ tình
hình là nhiều người theo hướng đó, và việc Moocgăng cũng phát hiện ra quan điểm
đó chứng tỏ thời gian đã chín muồi để có phát hiện đó phải được thực hiện. Như
vậy, ở đây cái tất nhiên đã vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số những cái ngẫu
nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, là cái bổ sung cho tất
nhiên, làm cho cái tất nhiên bộc lộ ra một cách sinh động.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại bất biến mà thường xuyên vận
động phát triển. Ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có tính
chất tương đối, nên trong những mối quan hệ, những điều kiện nhất định
chúng chuyển hoá lẫn nhau, tất nhiên trở thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở
thành tất nhiên. Thí dụ, trong xã hội cứ khi nào có áp bức thì xuất hiện đấu
tranh xoá bỏ áp bức, đó là qui luật tất yếu, nhưng đấu tranh như thế nào thì lại
là ngẫu nhiên...
5.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận

Vì cái tất nhiên là cái nhất định phải xảy ra như vậy không thể khác
được trong những điều kiện nhất định, còn cái ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra
thế này hoặc thế khác. Cho nên trong hoạt động thực tiễn ta cần dựa vào cái
tất nhiên để xem xét đánh giá đúng hiện tượng, nhưng cũng không thể bỏ qua
cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên không chi phối sự phát triển của sự vật,
hiện tượng, nhưng nó có ảnh hưởng tới sự phát triển đó, đôi khi có thể trong
tiến trình phát triển bình thường của sự vật đột ngột biến đổi. Do vậy, trong
hoạt động thực tiễn cần có những phương án hành động dự phòng cho trường
hợp các sự biến đổi ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện.
1


C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội 1995, t. 21, tr. 431.


21
Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức nói chung và nhận thức khoa học
nói riêng là phải nhận thức được cái tất nhiên. Nhưng muốn nhận thức cái tất
nhiên phải thông qua những hiện tượng ngẫu nhiên, vì cái tất nhiên bao giờ
cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số những cái ngẫu nhiên, nên ta
chỉ tìm được cái tất nhiên ẩn giấu đằng sau thông qua nghiên cứu nhiều cái
ngẫu nhiên.
Trong quá trình nhận thức cần lưu ý, không phải cái chung nào cũng
đồng thời là cái tất nhiên, cho nên vạch ra được cái chung chưa đồng nghĩa
vạch được cái tất nhiên. Đó mới chỉ là một bước trên con đường khó khăn,
phức tạp đi tìm cái tất nhiên.
Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên có thể chuyển hoá thành
cái ngẫu nhiên và ngược lại cho nên, cần chú ý tạo những điều kiện cần thiết
hoặc để ngăn trở sự chuyển hoá đó diễn ra tuỳ theo yêu cầu của hoạt động
thực tiễn.
6. Phạm trù khả năng và hiện thực
6.1. Khái niệm

Hiện thực là phạm trù dùng để chỉ những cái đang tồn tại thật, đang có
mặt trong thực tế. Tức là tất cả những sự vật, hiện tượng đã xuất hiện, đang
có, đang tồn tại vận động và phát triển trong thực tế. Những cái chưa xuất
hiện hay những cái đã mất đi không thuộc phạm trù hiện thực.
Khả năng chỉ những cái sẽ có, sẽ xảy ra khi có điều kiện thích hợp. Tức là
những cái chưa có, chưa xuất hiện ở thực tế, nó có thể xuất hiện hoặc không xuất
hiện, nhưng khi có những điều kiện thích hợp nó chắc chắn xuất hiện.
Nếu phạm trù vật chất bao gồm tất cả những gì tồn tại ở bên ngoài và

độc lập với ý thức của loài người thì phạm trù hiện thực bao gồm tất cả những
gì đang tồn tại, tức là bao gồm cả những gì tồn tại một cách khách quan (vật
chất) lẫn những gì tồn tại một cách chủ quan (ý thức). Như vậy, phải chăng
phạm trù “hiện thực” rộng hơn phạm trù “vật chất”? Ở đây không có mối
quan hệ rộng hẹp vì các cặp phạm trù vật chất và ý thức, hiện thực và khả
năng phản ánh những mặt khác nhau của thế giới mà trong đó chúng ta đang


22
sống. Cặp phạm trù vật chất và ý thức được dùng để phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa những gì đang tồn tại một cách khách quan (vật chất) với
những gì đang tồn tại một cách chủ quan (ý thức), còn cặp phạm trù hiện thực
và khả năng được dùng để phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa những gì
hiện có, hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) với những gì hiện chưa có, sẽ tới
khi có các điều kiện tương ứng (khả năng).
Khả năng, như đã nói trên, là cái chưa có, chưa xuất hiện nhưng bản
thân khả năng có tồn tại không? Có, song đó là một sự tồn tại đặc biệt: cái sự
vật được nói tới trong khả năng chưa tồn tại, song bản thân khả năng thì tồn
tại. Thí dụ, trước mắt ta đã có đầy đủ vôi, gạch, ngói, xi măng... đó là hiện
thực. Từ hiện thực ấy nảy sinh khả năng xuất hiện cái nhà. Cái nhà trong
trường hợp này chưa có, chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng xuất hiện cái
nhà thì tồn tại.
Sự phân tích trên đây cho thấy dấu hiệu căn bản phân biệt khả năng và
hiện thực là ở chỗ: khả năng là cái hiện chưa có, chưa tới, còn hiện thực là cái
hiện đang có, đã tới. Chính do không chú ý đến điều phân biệt cơ bản này nên
một số tác giả đồng nhất nó với cái ngẫu nhiên. Tuy rất gần nhau nhưng giữa
khả năng và ngẫu nhiên vẫn là những phạm trù rất khác nhau. Ở chỗ khả năng
là cái hiện chưa có, sẽ có khi có điều kiện thích hợp, nó dứt khoát sẽ xảy ra,
còn ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hoặc không thể xảy ra, có thể xảy ra như
thế này hoặc như thế khác. Khả năng là cái chỉ được thực hiện, nghĩa là chỉ

biến thành hiện thực trong tương lai, trong khi ngẫu nhiên là cái được thực
hiện, nghĩa là xảy ra không chỉ trong tương lai mà trong cả hiện tại. Vì vậy,
mà chúng ta không thể đồng nhất phạm trù ngẫu nhiên và phạm trù khả năng.
6.2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực

Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau,
không tách rời nhau, luôn chuyển hoá cho nhau. Vì hiện thực được chuẩn bị
bởi khả năng, còn khả năng hướng tới biến thành hiện thực. Trong thực tế,
quá trình phát triển chính là quá trình trong đó khả năng biến thành hiện thực,


23
còn hiện thực này vì những quá trình phát triển nội tại của mình, lại sản sinh
ra các khả năng mới. Khả năng mới ấy trong những điều kiện thích hợp lại
biến thành hiện thực mới... cứ tiếp tục như thế mãi thành một quá trình vô tận.
Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật, có thể tồn tại
nhiều khả năng, nhưng không phải khả năng nào cũng trở thành hiện thực mà
chỉ có một hoặc một số khả năng trở thành hiện thực. Thí dụ, một người sau
khi học xong phổ thông trung học, có thể thi vào đại học hoặc học nghề và có
nhiều khả năng như: trở thành bác sỹ, kỹ sư, giáo viên... nhưng người đó chỉ có
thể chọn một số nghề và chỉ có một hoặc một số khả năng trở thành hiện thực.
Ngoài một số khả năng vốn sẵn có ở sự vật trong những điều kiện đã có
nào đấy, khi có thêm những điều kiện mới bổ sung thì sự vật sẽ xuất hiện
thêm những khả năng mới. Với sự bổ sung điều kiện mới, về thực chất, một
hiện tượng mới phức tạp hơn đã xuất hiện do tác động qua lại của hiện thực
cũ với điều kiện mới vừa được bổ sung. Từ đó làm cho số tương tác tăng
thêm và dẫn tới chỗ tăng thêm những khả năng mới. Ngoài ra, ngay bản thân
mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, mà nó tăng lên hoặc giảm
đi tuỳ thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể
Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực thường cần không chỉ

một điều kiện mà là tập hợp những điều kiện. Tập hợp đó được gọi là điều
kiện cần và đủ, nếu có thì khả năng nhất định biến thành hiện thực.Thí dụ, để
cách mạng xã hội chủ nghĩa xảy ra thì cần một tập hợp các điều kiện mà
V.I.Lênin gọi là tình thế cách mạng: giai cấp thống trị không thể giữ nguyên
sự thống trị dưới dạng cũ nữa; giai cấp bị bần cùng hoá quá mức bình thường;
tính tích cực của quần chúng tăng lên đáng kể; giai cấp cách mạng đủ năng
lực tiến hành những hành động cách mạng mạnh mẽ, đủ sức đập tan chính
quyền cũ... thiếu một trong những điều kiện ấy cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ
không thể nổ ra.
6.3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận


24
Vì hiện thực là cái tồn tại thật, cái đang có, còn khả năng là cái chưa có
nên trong hoạt động thực tiễn cần phải dựa vào hiện thực. V.I.Lênin nhiều lần
nhấn mạnh “chủ nghĩa Mác dựa vào hiện thực chứ không dựa vào “khả năng”
để vạch ra đường lối chính trị của mình” 1; “chủ nghĩa Mác căn cứ vào những
sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng” 2. Tuy nhiên, nói như thế
không có nghĩa bỏ qua, xem thường khả năng. Vì khả năng biểu hiện khuynh
hướng phát triển của sự vật trong tương lai, nên không dựa vào khả năng
nhưng tính đến những khả năng có thể để đề ra chủ trương, kế hoạch hành
động cho sát đúng. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức nói chung, của nhận thức
khoa học nói riêng là phải tìm ra xác định cho được các khả năng phát triển
của sự vật. Khi xác định các khả năng cần chú ý: Chỉ có thể phát hiện ra khả
năng của sự vật ngay trong chính sự vật, dựa vào sự “tương quan lực lượng”
giữa các mặt bên trong sự vật, vào sự phát triển mâu thuẫn nội tại trong nó
cũng như những điều kiện bên ngoài, trong đó sự vật đang vận động để dự
đoán những khả năng, tạo những điều kiện thúc đẩy hay cản trở, để khả năng
phát triển theo yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu quá nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít

giữa khả năng và hiện thực mà không thấy được sự khác biệt, không phân biệt
được giữa chúng với nhau. Sai lầm này sẽ dẫn tới hậu quả tai hại trong hoạt
động thực tiễn. Như V.I.Lênin khẳng định “Người mácxít chỉ có thể sử dụng,
để làm căn cứ cho chính sách của mình, những sự thật được chứng minh rõ rệt
và không thể chối cãi được”3.
Sau khi đã phát hiện được khả năng phát triển của sự vật, nhiệm vụ của
hoạt động thực tiễn là phải tiến hành lựa chọn và thực hiện những khả năng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này cần chú ý: Cần tính đến và phân biệt
các loại khả năng tốt - xấu; tích cực - tiêu cực trong sự vật. Trên cơ sở đó dự
kiến các phương án hành động thích hợp cho từng trường hợp có thể xảy ra,
để tránh bị động trong quá trình hoạt động. Ví dụ: dự kiến một số tình huống
1

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tập 49, tr. 472.
V.I. Lênin: Sđd, tr. 432.
3
V.I. Lênin: Sđd , tr. 432.
2


25
(khả năng) có thể xảy ra trong chiến đấu và cách xử trí là một nội dung quan
trọng, trước hết thuộc về người chỉ huy trực tiếp. Gồm có khả năng của đơn vị
(của ta) và khả năng của đối phương (kẻ địch). Muốn dự đoán được sát với
những khả năng có thể xảy ra (trở thành hiện thực) thì người cán bộ chỉ huy
phải dựa chắc vào nắm hiện thực của cả hai bên để rút ra được dự báo về khả
năng. Từ đó đề ra được cách xử lý chủ động phù hợp giành thắng lợi. Hồ Chí
Minh viết: Binh pháp Tôn Tử có câu: “Biết sức ta biết sức địch thì một trăm
trận đều thắng. Biết sức ta mà không biết sức địch thì một thắng một bại.
Không biết ta, không biết địch thì trận nào cũng thua”1.

Phải chú ý đến vai trò năng động chủ quan của con người tham gia đưa
khả năng thành hiện thực. Tạo mọi điều kiện cần thiết để nhân tố chủ quan
của con người tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hoặc ngăn cản khả
năng biến thành hiện thực. Cần tránh hai thái cực sai lầm: hoặc tuyệt đối hoá
vai trò của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường nhân tố ấy trong việc đưa khả
năng thành hiện thực.
KẾT LUẬN

Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật mang lại cho
chúng ta một cái nhìn đầy đủ và toàn diện về sự tồn tại phổ biến và khách
quan của những mối liên hệ ở các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Tuy mỗi
cặp phạm trù có một vai trò riêng trong quá trình nghiên cứu, xem xét và cải
tạo sự vật, hiện tượng, nhưng không được tuyệt đối hoá vai trò của một cặp
phạm trù nào. Đồng thời, phải thấy được vai trò của chúng trong từng sự vật,
hiện tượng, từng mối quan hệ cụ thể để tiến hành hoạt động thực tiễn đúng
đắn, khoa học có hiệu quả tránh máy móc, chủ quan, giáo điều...

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội 2002, tập 3, trang 519.


×