Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học các QUY LUẬT của CHỦ NGHĨA DUY vật LỊCH sử và PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.19 KB, 21 trang )

CÁC QUY LUẬT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VÀ PHẠM TRÙ HÌNH
THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. SẢN XUẤT VẬT CHẤT, QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT

3

1.1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với đời sống xã hội

3

1.2. Khái niệm và kết cấu của phương thức sản xuất

4

1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất

6

2. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

9



2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

9

2.2. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

10

3. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

16

3.1. Khái niệm, vai trò của các yếu tố trong hình thái kinh tế - xã hội

16

3.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên

17

3.3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

19

KẾT LUẬN

21



2
LỜI NÓI ĐẦU

Từ khi ra đời đến nay chủ nghĩa Mác - Lênin luôn phải đương đầu với
những thách thức của lịch sử. Đặc biệt từ khi chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và
Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ thì các thế lực thù địch ra sức
chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận hình thái kinh
tế - xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu, nắm vững lý luận hình thái kinh tế - xã
hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm trang bị vũ khí lý luận sắc bén trong
cuộc đấu tranh chống các trào lưu cơ hội, xét lại và các tư tưởng thù địch, bảo
vệ sự trong sáng, cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Qua đó,
nhận thức sâu sắc sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, và Chủ Tịch Hồ
Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, từ đó xác định thái độ,
trách nhiệm của lực lượng vũ trang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.
1. SẢN XUẤT VẬT CHẤT, QUI LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP
VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1.1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với đời sống xã hội
1.1.1. Khái niệm sản xuất vật chất

Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác
động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của
giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người.
Sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của
xã hội loài người. Đó là hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của
con người. Theo Ph.Ăngghen, “điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người
với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may mắn lắm chỉ hái lượm, trong khi con

người sản xuất”1.
Sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản
xuất ra bản thân con người, quá trình đó không tách biệt nhau, trong đó sản
xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội, và xét đến
cùng quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.
1.1.2. Vai trò của sản xuất vật chất
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.34, tr.441.


3

Sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của
con người, đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần
của xã hội.
Sản xuất vật chất là điều kiện khách quan của sự tồn tại và phát triển xã
hội, là nền tảng của toàn bộ lịch sử nhân loại. Bất cứ con người sống trong
chế độ xã hội nào để tồn tại, phát triển phải có ăn, ở, mặc và các nhu cầu thiết
yếu khác, những cái đó không có sẵn trong tự nhiên mà phải thông qua lao
động sản xuất. Chính lao động sản xuất đã sáng tạo ra của cải vật chất nuôi
sống con người và xã hội, đồng thời trong quá trình đó con người đã sáng tạo
ra lịch sử của mình.
Quá trình sản xuất vật chất con người đã sáng tạo ra các quan hệ xã hội
- quan hệ sản xuất, quan hệ này tạo thành cơ sở hiện thực quy định những
quan hệ khác như: chính trị, tinh thần, tư tưởng… của con người trong những
chế độ kinh tế, xã hội nhất định.
Quá trình sản xuất vật chất con người làm biến đổi chính bản thân
mình. Ph.Ăngghen khẳng định: “trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:
lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” 1. Sản xuất vật chất không những

góp phần hoàn thiện con người về mặt hình thức như hình dáng, kỹ năng, khả
năng lao động, mà còn góp phần hoàn thiện đời sống văn hoá, tinh thần của
mình trong các giai đoạn phát triển của lịch sử.
Như vậy, xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật
chất. Lịch sử xã hội, trước hết là lịch sử của sản xuất vật chất, C.Mác cho
rằng: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp… tạo ra một
cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người
ta”2. Thực tiễn lịch sử của xã hội loài người còn cho thấy, mọi quan hệ phức
tạp của đời sống xã hội dù thể hiện trong bất kỳ lĩnh vực nào: chính trị hay
pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa học… hết thảy đều
hình thành và biến đổi trên cơ sở sự vận động của đời sống sản xuất vật chất.

1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.641.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500.


4

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất vật chất bao gồm: điều
kiện địa lý, điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó phương thức
sản xuất là yếu tố có vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
1.2. Khái niệm và kết cấu của phương thức sản xuất
1.2.1. Khái niệm, vai trò của phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người sản xuất ra của cải vật
chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

Sản xuất vật chất trong mỗi giai đoạn của lịch sử được biểu hiện ở một
phương thức sản xuất nhất định.
Tính chất của xã hội như thế nào không phải do ý muốn chủ quan của
con người, mà do phương thức sản xuất quyết định. Phương thức sản xuất
quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, thay thế phương thức sản xuất cũ
đã lỗi thời thì mọi mặt đời sống xã hội cũng có sự thay đổi căn bản. Lịch sử
xã hội loài người là lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau.
Như vậy, có thể thấy chìa khoá để nghiên cứu những qui luật của xã hội
không phải tìm ở trong tư tưởng, đầu óc con người, mà là ở phương thức sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ kinh tế - xã hội.
1.2.2. Kết cấu của phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất tương ứng.
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình, là sự thống nhất hữu cơ
giữa người lao động và tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ lao động.
Người lao động là người có tri thức, kinh nghiệm, sức khoẻ và kỹ năng
lao động, sử dụng tư liệu lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Quá trình lao động con người không ngừng sáng tạo và sử dụng công cụ lao
động mới, đồng thời ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất nuôi sống mình và xã hội. Bởi
vậy, người lao động trở thành nhân tố hàng đầu, quyết định của lực lượng sản


5

xuất. V.I.Lênin khẳng định: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động”1.

Tư liệu sản xuất là tổng thể những yếu tố vật chất của quá trình lao
động bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động:
Đối tượng lao động là đối tượng mà con người hướng vào đó để sản
xuất ra của cải vật chất. Có hai loại đối tượng lao động đó là đối tượng có sẵn
trong tự nhiên như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản… và đối tượng
do con người sáng tạo ra. Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, con người đang sáng tạo ra nhiều
đối tượng lao động mới nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn các nhu cầu của đời
sống con người.
Tư liệu lao động là tất cả những vật hoặc tổ hợp những vật mà con
người đặt giữa mình và đối tượng lao động dùng để tác động vào đối tượng
nhằm sản xuất ra của cải vật chất.
Tư liệu lao động gồm phương tiện lao động và công cụ lao động:
Phương tiện lao động là những phương tiện phục vụ cho quá trình lao
động của con người như sân bay, kho tàng, bến cảng, thông tin…Trước yêu
cầu của nền sản xuất hiện đại, những phương tiện lao động ngày càng giữ vai
trò quan trọng của quá trình sản xuất của xã hội.
Công cụ lao động là công cụ trực tiếp truyền tác động của con người
vào đối tượng lao động nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu cuộc
sống con người như những máy móc trong các ngành sản xuất, các công cụ,
phương tiện sản xuất… Công cụ lao động phản ánh trình độ chinh phục tự
nhiên của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Tóm lại: Lực lượng sản xuất hình thành khách quan trong quá trình sản
xuất vật chất của con người, là nền tảng của toàn bộ lịch sử nhân loại. Chính
trên nền tảng vật chất ấy con người đã hình thành nên các quan hệ xã hội của
chính mình.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

1


V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1977,t.38, tr.430.


6

Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ giữa người với người về sở hữu tư
liệu sản xuất; quan hệ giữa người với người trong tổ chức, phân công lao động
xã hội; quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm xã hội làm ra.
Ba mối quan hệ trên có sự tác động biện chứng với nhau và cùng tác
động đến quá trình sản xuất vật chất của xã hội trong những giai đoạn lịch sử
nhất định. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu tố tác động đến quá trình sản
xuất không ngang bằng nhau, trong đó quan hệ giữa người với người về sở
hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác và tính chất của
các quan hệ sản xuất của xã hội, quyết định bản chất của chế độ xã hội ấy.
1.3. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
1.3.1. Vị trí, nội dung qui luật

Đây là một trong hai qui luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
quyết định đến sự vận động và phát triển của xã hội loài người.
Nội dung qui luật chỉ ra: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai
mặt hợp thành của phương thức sản xuất, thống nhất biện chứng, trong đó lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại
lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, xuất phát từ tính năng
động, cách mạng, thường xuyên biến đổi của lực lượng sản xuất; từ mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức trong phần duy vật biện chứng đã chỉ ra. Vận
dụng vào lĩnh vực xã hội, lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản
xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình này. Do đó, lực lượng

sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định trình độ, nội dung, sự vận động biến đổi
của quan hệ sản xuất.
Trình độ của lực lượng sản xuất chỉ năng lực chinh phục tự nhiên của
con người, được thể hiện ở trình độ phát triển công cụ lao động, trình độ tổ
chức phân công lao động xã hội, trình độ phát triển của khoa học và khả năng
ứng dụng khoa học vào sản xuất, trình độ kinh nghiệm lao động của con người.
Trình độ của lực lượng sản xuất sẽ quyết định đến tính chất của các
quan hệ xã hội, quyết định đến bản chất của chế độ xã hội.


7

Lực lượng sản xuất quyết định nội dung, sự vận động biến đổi của quan
hệ sản xuất. Khi tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ
sản xuất cũng thay đổi cho phù hợp. Nội dung của lực lượng sản xuất như thế
nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy.
Thực tiễn đã chứng minh: xã hội loài người đã và đang trải qua các
phương thức sản xuất Cộng sản nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến,
Tư bản chủ nghĩa và ngày nay đang quá độ sang phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Sự vận động phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử
bao giờ cũng được bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất mặc dù do lực lượng sản xuất quyết định nhưng nó
không thụ động, mà có sự tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai xu
hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại. Sự phù
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là sự phù hợp đồng bộ cả ba mặt
của quan hệ sản xuất với các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, đó là sự phù
hợp biện chứng. Dấu hiệu của sự phù hợp là năng suất, chất lượng hiệu quả

của nền sản xuất phát triển cao, người lao động hăng say nhiệt tình lao động,
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, chính
trị - xã hội ổn định…
Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Nghĩa là,
quan hệ sản xuất vượt trước hoặc đi sau lực lượng sản xuất đều không phù
hợp. Các mặt của quan hệ sản xuất và các yếu tố của lực lượng sản xuất
không phù hợp với nhau. Dấu hiệu của sự không phù hợp là năng suất, chất
lượng, hiệu quả lao động thấp, người lao động thiếu nhiệt tình trong sản xuất,
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không được cải thiện, chính trị, xã
hội bất ổn.
Tuy nhiên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật xã hội và được biểu hiện thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, việc giải quyết mâu thuẫn này
còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người trong nhận thức và tổ chức


8

thực hiện. Trong xã hội có đối kháng giai cấp việc giải quyết mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thông qua đấu tranh giai cấp mà
đỉnh cao là cách mạng xã hội.
1.3.2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, vận dụng
và giải quyết đúng đắn vấn đề này.
Sau đại hội VI (1986) Đảng ta nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng qui
luật, phù hợp với điều kiện của đất nước. Do đó, sau hơn 20 năm đổi mới,
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội VI
khẳng định: đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên,

liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức
và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp
hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao
động và cải thiện đời sống nhân dân” 1. Với quan điểm đó chúng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều đó đã tạo ra cơ sở xã hội cho sự
phát triển của sản xuất.
Đại hội X tiếp tục khẳng định xây dựng đất nước “có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ”2.
2. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG

2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội.
1
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991,tr. 9-10.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr.68.


9


Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ
sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế hiện thực của đời sống chính trị tinh thần
của xã hội. C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở hiện thực đó” 3. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao
gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước và
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội sau. Nhưng đặc trưng cho tính chất
của một cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị quy định. Trong một cơ
sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất thì quan
hệ sản xuất thống trị không chỉ giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành phần
kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác, mà còn quy định và tác động trực
tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu
quan hệ sản xuất thống trị quy định.
Tuy nhiên khi tìm hiểu khái niệm cơ sở hạ tầng cần phân biệt với các
khái niệm khác như: hạ tầng cơ sở, kết cấu kinh tế - xã hội… Đây là các khái
niệm phản ánh các phương tiện cụ thể của đời sống kinh tế - xã hội và không
đồng nhất với khái niệm cơ sở hạ tầng trong triết học.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng với các thiết chế xã hội
tương ứng của nó như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội…là
cái được hình thành, xây dựng trên những cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu
tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng,
nhưng không tồn tại tách rời nhau mà có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau
và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm hệ tư
tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tàn dư các quan điểm của xã hội cũ để
lại; quan điểm và tổ chức của giai cấp mớí ra đời; quan điểm tư tưởng và tổ

chức của các tầng lớp trung gian. Song, đặc trưng là sự thống trị về chính trị
tư tưởng của giai cấp thống trị.
3

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.


10

2.2. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Đây là qui luật cơ bản ở mọi hình thái kinh tế - xã hội, ở mọi giai đoạn
phát triển của lịch sử. Nghiên cứu qui luật này là cơ sở để xác định diện mạo
các hình thái kinh tế - xã hội, và nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện
chứng trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Trong sự tác động biện
chứng của nó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc
thượng tầng có tác động to lớn, mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế
hiện thực của một xã hội nhất định, do đó nó thuộc về các quan hệ vật chất của xã
hội, còn kiến trúc thượng tầng thuộc về các quan hệ tinh thần, tư tưởng của xã hội
đó. Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức vào lý giải mối quan hệ giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định vai trò
quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng; đồng thời cũng khẳng
định vai trò tác động to lớn trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định nguồn gốc, cơ cấu, tính chất và sự vận động,
biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của
cơ sở hạ tầng, có nguồn gốc từ cơ sở hạ tầng. Đối với bất kỳ một hiện tượng
nào thuộc kiến trúc thượng tầng như: chính trị, pháp luật, đảng phái, triết học,
đạo đức… đều không giải thích được từ chính bản thân nó mà tất cả đều trực

tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Bởi vậy, vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể
hiện trước hết ở chỗ cơ sở hạ tầng nào thì sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy và
với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực, cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra
một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất
của kiến trúc thượng tầng đó. Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng, thì kiến trúc
thượng tầng của nó cũng có tính chất đối kháng; ngược lại, cơ sở hạ tầng
không có tính đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng không có tính chất đối
kháng. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị
về kinh tế thì cũng chiếm địa vị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội.


11

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể
hiện ở chỗ, những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn
tới sự biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Nguyên nhân của sự biến
đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự
phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở hạ
tầng, đến lượt nó sự biến đổi của cơ sở hạ tầng làm cho kiến trúc thượng tầng
biến đổi một cách căn bản.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi cách
mạng xã hội xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ, thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới thì sự
thống trị về chính trị của giai cấp thống trị bị xoá bỏ và được thay thế bằng sự
thống trị của giai cấp mới, bộ máy nhà nước mới được hình thành thay thế bộ
máy nhà nước cũ. Đồng thời, hệ tư tưởng thống trị mới cũng bắt đầu được xác
lập và thay thế cho hệ tư tưởng cũ đã lỗi thời, lạc hậu.
Cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng của nó với tính cách
là một chỉnh thể thống trị của xã hội cũ cũng mất đi theo. Song có những nhân

tố riêng lẻ của kiến trúc thượng tầng còn tồn tại rất dai dẳng, sau khi cơ sở
kinh tế sinh ra nó đã bị tiêu diệt. Cũng có những nhân tố nào đó của kiến trúc
thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới duy trì, kế thừa để xây dựng
kiến trúc thượng tầng mới. Như vậy, sự hình thành và phát triển của kiến trúc
thượng tầng do cơ sở hạ tầng quyết định; đồng thời nó còn có quan hệ kế thừa
đối với các yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong khi khẳng định vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến
trúc thượng tầng, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng luôn nhấn mạnh đến tính
độc lập tương đối và sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ
sở hạ tầng.
Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì,
củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; hướng dẫn cuộc đấu tranh xoá
bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã lỗi thời, lạc hậu của xã hội cũ,
đồng thời nó còn ngăn chặn sự nảy sinh của cơ sở hạ tầng mới.


12

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai
chiều hướng. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển
của cơ sở hạ tầng thì nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển và nếu tác động
ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của cơ sở hạ tầng.
Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng tác động ở mức độ khác nhau đến
cơ sở hạ tầng. Trong đó quan điểm, đường lối chính trị và nhà nước luôn giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng và có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà
nước không chỉ dựa trên hệ tư tưởng, mà còn dựa trên những hình thức nhất
định để kiểm soát xã hội. Sử dụng sức mạnh bạo lực như: quân đội, cảnh sát,
toà án, nhà tù… để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị, củng cố

vững chắc địa vị của quan hệ sản xuất thống trị. Với ý nghĩa đó Ph.Ăngghen đã
khẳng định: Bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh
tế. Và chỉ ra rằng, tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế có thể theo ba chiều hướng khác nhau, nếu tác động cùng hướng
với sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn; nếu tác động
ngược lại hướng phát triển kinh tế sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, và nó có
thể ngăn cản một vài hướng phát triển nào đấy của nền kinh tế, thúc đẩy sự
phát triển đó theo những hướng khác - trong trường hợp này theo Ph.Ăngghen,
rốt cuộc nó cũng dẫn đến một trong hai trường hợp trên.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, không phải chỉ có quyền lực nhà nước
mới có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… cũng đều tác
động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau với các cơ
chế khác nhau. Song, thường thường những sự tác động đó phải thông qua
nhà nước, pháp luật và các thể chế tương ứng.
Như vậy, kiến trúc thượng tầng có tác dụng mạnh mẽ và to lớn đối với cơ
sở hạ tầng. Thực chất khi nói tới vai trò của kiến trúc thượng tầng là nói tới vai
trò tác động trở lại của nó đối với cơ sở hạ tầng và cơ cấu kinh tế của xã hội.
Nghiên cứu nội dung qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội là cơ sở để đấu tranh phê phán các
quan điểm sai lầm, duy tâm về lịch sử. Trong điều kiện ngày nay, nhận thức


13

và vận dụng đúng đắn, sáng tạo qui luật này ở mỗi nước cho phù hợp với tình
hình cụ thể là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt để xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa được
hình thành một cách tự giác trong quá trình cách mạng xã hội. Vì vậy, sự vận

động của qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có mầm mống nảy sinh ngay từ
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nhằm chống lại
giai cấp thống trị bóc lột, lật đổ trật tự xã hội cũ. Song, sự hình thành và vai
trò của nó được phát huy một cách đầy đủ, chủ yếu từ khi giai cấp vô sản
giành được chính quyền. Kiến trúc thượng tầng xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ
có thể được củng cố và phát triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa.
Nghĩa là xây dựng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa
không phải là tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan, mà phải xuất phát từ những đòi
hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời
phải tích cực chủ động đấu tranh khắc phục mọi tàn dư, tư tưởng lạc hậu của
xã hội cũ và đánh bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Qui luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội là cơ sở khoa học để nhận thức một cách đúng đắn
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chính trị là sự
phản ánh tập trung của kinh tế, là quan hệ lẫn nhau giữa các giai cấp, các tập
đoàn người, các tầng lớp xã hội trong việc giành, giữ và sử dụng chính
quyền nhà nước; chính trị còn là biểu hiện quan hệ giữa các quốc gia, dân
tộc về mặt nhà nước. Cơ cấu của chính trị bao gồm thực tiễn chính trị và ý
thức chính trị. Cơ cấu của chính trị còn có thể được phân chia theo các yếu
tố cấu thành của nó, đó là các quan điểm, tư tuởng chính trị; các quan hệ
chính trị và tổ chức chính trị.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử tiếp cận khái niệm kinh tế theo nghĩa rộng
của nó, đây là các phương diện cơ bản của đời sống kinh tế - xã hội, đó là cơ


14


sở kinh tế, qui luật kinh tế; nhu cầu và lợi ích kinh tế. Trong đó lợi ích kinh tế
được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu của mọi hoạt động cải biến xã hội.
Trong mối quan hệ kinh tế và chính trị, kinh tế giữ vai trò quyết định
bởi vì, kinh tế là nội dung vật chất của chính trị và “chính trị là sự biểu hiện
tập trung của kinh tế”. Điều đó có nghĩa là, chính trị của một giai cấp do địa
vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó quyết định. Giai cấp nào thống trị về kinh
tế, thì giai cấp đó cũng thống trị xã hội về mặt chính trị. Lợi ích kinh tế xét
đến cùng, là nguyên nhân của những hành động chính trị trong đời sống hiện
thực. Các quan điểm, tư tưởng chính trị và các tổ chức thích ứng với nó là
kiến trúc thượng tầng của cơ sở kinh tế đó và do tính tất yếu kinh tế quyết
định. Cơ sở kinh tế với tính cách là kết cấu hiện thực sản sinh hệ thống chính
trị tương ứng và quy định hệ thống đó.
Tuy nhiên, chính trị không phải là một nhân tố hoàn toàn bị động, mà
nó luôn tác động mạnh mẽ trở lại kinh tế. Bởi vì, trong quan hệ với kinh tế,
chính trị có tính độc lập tương đối; hơn nữa chính trị còn liên quan trực tiếp
đến lợi ích sống còn của các giai cấp. Vai trò của chính trị được thể hiện ở
hoạt động tự giác của các giai cấp, các đảng phái. Khẳng định vai trò của
chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin chỉ rõ: không có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị
của mình, và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong
lĩnh vực sản xuất.
Tác động trở lại của chính trị đến kinh tế theo hai chiều hướng, tác
động tích cực nếu chính trị phản ánh đúng những yêu cầu chín muồi của sự
phát triển kinh tế; ngược lại, tác động tiêu cực nếu phản ánh không đúng và
hoạt động trái với tính tất yếu của sự phát triển kinh tế. Trong đời sống hiện
thực của xã hội, vai trò của chính trị còn được thể hiện ở chỗ, mọi cải biến đối
với chế độ xã hội phải tất yếu thông qua nhân tố chính trị. Tính tất yếu về
kinh tế không phải tự nó thực hiện được, mà phải thông qua các chủ thể cơ
bản, đó là các giai cấp, các đảng phái và tổ chức chính trị - xã hội tương ứng;
với ý nghĩa đó chính trị có thể thay đổi kinh tế.

Biện chứng giữa kinh tế và chính trị đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn
phải xuất phát từ kinh tế, đồng thời luôn coi trọng yếu tố chính trị. Nếu tách


15

rời kinh tế với chính trị: tuyệt đối hoá mặt kinh tế, coi nhẹ yếu tố chính trị sẽ
dẫn đến sai lầm (chủ nghĩa duy vật tầm thường); ngược lại, tuyệt đối hoá mặt
chính trị, coi nhẹ yếu tố kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm chủ quan, duy ý chí và sẽ
thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước Đảng ta đã nhận thức, vận dụng
thành công quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng vào quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta xác định: Phải kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Trong đổi mới hệ thống chính trị,
Đảng ta chỉ ra phải tiến hành từng bước thận trọng, phù hợp với đổi mới
kinh tế và đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế đất nước. Mục tiêu chủ yếu của
đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho hệ thống chính
trị phát huy tốt vai trò trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước. Để
thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta xác định phải xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; không ngừng đổi mới và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng,
tổ chức cán bộ, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chính trị.
Quân đội ta là quân đội cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân,
là công cụ bạo lực chủ yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa - bộ phận quan
trọng của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành các nhiệm

vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, mọi quân nhân phải luôn quán
triệt sâu sắc ( hoặc thấu triệt) về chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong tình
hình mới. Lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng
hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, đảm bảo cho Quân đội ta luôn là lực
lượng chính trị trung thành và có đầy đủ sức mạnh để hoàn thành thắng lợi
các nhiệm vụ trong mọi tình huống. Trong tình hình hiện nay, phải luôn nâng
cao cảnh giác cách mạng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn


16

hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự
nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc. Mặt khác, quân đội ta còn phải
tích cực tham gia xây dựng, phát triển kinh tế đất nước, kết hợp chặt chẽ kinh
tế với quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, với tư cách là một bộ phận
trong kiến trúc thượng tầng, vai trò của quân đội được thể hiện toàn diện
trong các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước và là một trong những chủ
thể cơ bản của quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
3. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

3.1. Khái niệm, vai trò của các yếu tố trong hình thái kinh tế - xã hội

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và với một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.

Phạm trù hình thái kinh tế xã hội dùng để chỉ một xã hội cụ thể trong
tiến trình phát triển của xã hội loài người, được cấu thành bởi ba yếu tố cơ
bản đó là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Từ việc xây dựng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và làm rõ kết cấu
của nó, C.Mác còn làm rõ vai trò của từng yếu tố trong hình thái kinh tế - xã
hội đối với sự phát triển của xã hội loài người.
Lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của quan
hệ sản xuất, thông qua đó quyết định đến kiến trúc thượng tầng xã hội, là yếu
tố suy đến cùng quyết định sự tồn tại, vận động, phát triển của xã hội. Lực
lượng sản xuất là thước đo trình độ phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội trong lịch sử, và được biểu hiện trước hết ở trình độ phát triển của công cụ
lao động. C.Mác khẳng định: mỗi thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ
chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất như thế nào, với những
tư liệu lao động nào.
Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan, quan trọng nhất để phân
biệt bản chất của chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, và là yếu tố tác


17

động quan trọng nhất đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, yếu tố quyết
định đối với sự vận động, biến đổi của kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng là bộ mặt đời sống tinh thần của xã hội, tác động
đến cơ sở kinh tế và toàn bộ nền sản xuất vật chất của xã hội, là tiêu chuẩn
khách quan không thể thiếu trong phân định bản chất của các hình thái kinh tế
- xã hội nhất định trong lịch sử, và là công cụ trực tiếp bảo vệ cơ sở hạ tầng
đã sinh ra nó.
Như vậy, các bộ phận của hình thái kinh tế - xã hội dù có vai trò, vị trí
khác nhau nhưng luôn có quan hệ biện chứng với nhau, do đó trong xem xét
hình thái kinh tế - xã hội phải có quan điểm toàn diện.

3.2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử tự nhiên

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định: Lịch sử phát triển của xã hội
loài người là lịch sử phát triển thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Đó là quá trình lịch sử tự nhiên.
Sự phát triển của xã hội là một quá trình khách quan theo qui luật nội
tại của nó, không do bất kỳ một lực lượng nào chi phối, cũng không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người. Quá trình phát triển đó diễn ra từ thấp
đến cao, thông qua hoạt động có ý thức.
Sự tồn tại, vận động, phát triển của xã hội được bắt đầu từ sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Chính bằng năng lực hoạt động thực tiễn của mình
trong sản xuất, con người đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi lực
lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với
những quan hệ sản xuất hiện có, khi đó đòi hỏi một cuộc cách mạng xã hội
nhằm xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất cũ mất đi, tức là cơ
sở hạ tầng cũ cũng mất đi, làm cho kiến trúc thượng tầng cũ mất đi, và hình
thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới, xã
hội hoàn thành một bước nhảy vọt, bước vào giai đoạn phát triển mới. Cứ như
vậy, xã hội loài người vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện
đến ngày càng hoàn thiện hơn.


18

Đây là quy luật chung, phổ biến của xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội có
đối kháng giai cấp, các quy luật xã hội chỉ thực hiện được khi thông qua đấu
tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Thực tiễn lịch sử chứng minh xã hội loài người đã vận động, phát triển
qua bốn hình thái kinh tế - xã hội: xã hội cộng sản nguyên thủy, xã hội chiếm

hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa và ngày nay đang quá
độ sang hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội không loại trừ mà còn
bao hàm một số quốc gia, dân tộc bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội để
tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Ví dụ: Nga, Đức, Ba Lan
bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ tiến lên chế độ phong kiến; Mĩ bỏ qua chế độ
phong kiến phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa…
Quá trình phát triển của xã hội luôn có sự phát triển không đều giữa các
quốc gia, khu vực cả về kinh tế, chính trị, văn hoá…điều đó tạo điều kiện, khả
năng cho các quốc gia khác có thể tranh thủ thời cơ để bỏ qua một vài hình
thái kinh tế - xã hội nào đó để tiến lên một hình thái kinh tế - xã hội khác cao
hơn, tiến bộ hơn. V.I.Lênin chỉ ra những điều kiện để cho các quốc gia có thể
bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội như sau:
Một là: Hình thái kinh tế - xã hội định bỏ qua đã trở nên lỗi thời, lạc
hậu, hình thái kinh tế - xã hội mới đã trở thành hiện thực và chứng tỏ sự ưu
việt của nó.
Hai là: Có một lực lượng lãnh đạo tiên tiến có khả năng lãnh đạo cuộc
chuyển biến cách mạng để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn.
Ba là: Có sự giúp đỡ của các nước, các lực lượng yêu chuộng hoà bình
trên thế giới.
Sự vận động phát triển của xã hội tuân theo qui luật khách quan. Nhưng
là qui luật xã hội, vì vậy phải thông qua hoạt động của con người. Do đó, sự
vận động phát triển của xã hội là sự thống nhất chặt chẽ giữa qui luật khách
quan và vai trò nhân tố chủ quan.
Khi nghiên cứu các điều kiện đó trong thời đại ngày nay cần chú ý đến
đặc điểm của thời đại, đặc biệt là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ, của sự giao lưu và hợp tác quốc tế…qua đó


19


nhận thức sâu sắc quan điểm chủ động mở rộng hội nhập và giao lưu quốc tế,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế của Đảng trong tình hình
hiện nay. Nhận thức rõ những cơ hội và cả những thách thức đối với chúng ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác là lý luận
khoa học về sự vận động, phát triển của xã hội, là vũ khí lý luận của giai cấp
vô sản trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong phạm vi từng nước và trên toàn
thế giới.
3.3. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa

Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là một phạm trù dùng để chỉ
một xã hội ở giai đoạn phát triển cao trong tiến trình phát triển của xã hội loài
người. Với một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng, thể hiện ý
chí nguyện vọng của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.
Sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là tất yếu
khách quan, là một quá trình phù hợp với sự vận động, phát triển của xã hội.
Về kinh tế, do giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trong lòng xã hội tư bản. Về xã hội, do giải quyết mâu thuẫn giai cấp
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Thực tiễn lịch sử chứng minh, sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một quá trình
vận động hợp quy luật.
Sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa phải trải qua một thời kỳ quá độ và hai giai đoạn là chủ nghĩa xã hội
(giai đoạn thấp), và chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cao).
Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước khác nhau, điều kiện khác
nhau cũng không giống nhau. Tuỳ vào những điều kiện kinh tế, xã hội mà có
các kiểu quá độ khác nhau, hoặc là quá độ trực tiếp hoặc là quá độ gián tiếp.

Từ nhận thức trên cho thấy, ở Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, điều đó hoàn toàn
phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.


20

Ngày nay mặc dù chủ nghĩa xã hội thế giới đang tạm thời lâm vào
khủng hoảng, thoái trào, chủ nghĩa tư bản đang có những điều chỉnh để thích
nghi và đang có tiềm năng phát triển, nhưng xu thế của thời đại vẫn không
thay đổi. Loài người nhất định sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản, đó là quy luật tất yếu của lịch sử.
Đối với Việt Nam, bên cạnh xu thế chung đó chúng ta còn có những
điều kiện thuận lợi cơ bản là có sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta cần
cù, thông minh, sáng tạo, có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, ý chí
tự lực tự cường dân tộc… Đó là những điều kiện cơ bản, thuận lợi để chúng ta
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta.
Thực tiễn của những thành tựu về kinh tế, xã hội trong hơn 20 năm đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh điều đó.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta
là một tất yếu khách quan, luận điểm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở lý luận khoa học cho việc lựa
chọn con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, phải phát huy và kết hợp tốt nội
lực với ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng
không thể thiếu được. Trong các yếu tố của nội lực thì sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng

phải tiếp tục đường lối đổi mới, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ gây mất
ổn định đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng
đối với công tác chính trị - tư tưởng trong quân đội, góp phần củng cố niềm
tin, lý tưởng cách mạng, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội cho cán bộ,
chiến sĩ quân đội. Xác định trách nhiệm của quân đội là công cụ bạo lực vũ
trang lực lượng nòng cốt để bảo vệ sự nghiệp đổi mới, bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ sở khoa học và cách mạng trong cuộc đấu


21

tranh tư tưởng chống lại quan điểm phản động hòng phủ nhận mục tiêu, lý
tưởng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
KẾT LUẬN

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn
còn nguyên giá trị. Là người chiến sĩ cách mạng - những sĩ quan tương lai
trong lực lượng vũ trang, việc nhận thức sâu sắc học thuyết hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để nâng cao nhận thức đường lối, quan điểm của Đảng, qua đó
xây dựng, củng cố niềm tin lý tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Kiên quyết đấu tranh chống mọi
âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của kẻ thù, bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng ta.



×